Pages

Tuesday, July 1, 2025

Xuân Hạ Thu Đông

Chúng ta ai cũng biết rằng một năm có 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, đó là sự tuần hoàn của vũ trụ. Mùa Xuân khí hậu mát mẻ làm cho cây cỏ sinh sôi nảy nở, mùa Hạ tiết trời oi bức sang mùa Thu se lạnh, cây lá đổi màu vàng úa, đến mùa Đông thời tiết lạnh lẻo, nhiều cây lá rụng trơ cành cho đến mùa Xuân trở lại, cây cối xanh tươi, đơm bông, kết trái.

Đó là sự tuần hoàn của vũ trụ đối với quả địa cầu của chúng ta, nhưng nó cũng có ít nhiều thay đổi thời tiết đối với nhng nơi như Bắc Cực, Nam cực và đường Xích đạo.

Còn con người chúng ta có Sinh, lão, bệnh, tử nhưng chúng ta còn phải chịu cái Nghiệp quả của mình. Có người sinh ra khỏe mạnh, có người bệnh tật bẩm sinh, không ai tránh khỏi quy luật chung của tạo hóa, cho nên không ai giống ai.

Nghiệp thì có Cộng nghiệp và Biệt nghiệp. Cộng nghiệp là nghiệp chung, ví dụ chúng ta là người Việt Nam đó là Cộng nghiệp người Việt Nam, nhưng có người đẹp, người xấu, người giàu sang, người cùng khổ đó là nghiệp riêng của mỗi người nên gọi là Biệt nghiệp.

Theo luật của tạo hóa, từ khai thiên lập địa có bốn chất là nước, gió, lửa và không khị Bốn chất ấy hòa hợp tạo ra đất, đá, cỏ cây rồi dần dần cầm thú, biến hóa hàng triệu năm mới có con người. Con người có trí tuệ hơn cầm thú để chúng ta có nhận thức mình là chúa tể của vạn vật, mình phải luôn học hỏi tiến hóa hơn để đến ngày kia mình tiến hóa hòa nhập vào đại khối của vũ trụ, việc nầy không thể một sớm, một chiều mà phải nhiều kiếp tu luyện để tiến hóa thành thần, thánh, tiên, Phật mới có thể hòa nhập vào đại khối của vũ trụ.

Nhận thức được thế mỗi người chúng ta cần phải tu tập, hàng ngày tinh tấn mới mong được trở về đại khối của vũ trụ.

Chúng ta phải hiểu rằng nguyên thủy mỗi cá nhân chúng ta cùng ở trong đại khối vũ trụ nhưng do bị trọng trượt nên bị tách ra khỏi khối ấy thành cá thể, do đó mỗi cá thể chúng ta phải tu tập tinh tấn để cho cá thể được tinh anh, hầu trở về với đại khối.

Đời thường hay nói: “Đường đi không khó mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Cho nên chúng ta cần vượt núi, qua sông đó, thành quả sẽ đến cho những ai chịu khó vượt núi, qua sông.

866401072025

 

 

 

 

Tuesday, June 24, 2025

Trở về Mỹ

 Tôi dự định sẽ đi Việt Nam 3 tháng, ngày đi là 28-5-2025 và ngày về là 29 tháng 8 năm 2025, nhưng được tin con gái bị bệnh, ở nhà một mình không ai chăm sóc thuốc men, ăn uống nên chúng tôi vội vàng mua vé máy bay về Mỹ.

Con gái tôi ở Việt Nam dùng Iphone lên Mạng mua vé lúc đó vào khoảng 20 giờ, có vé nhưng mà chỗ ngồi khó chọn lựa, cho nên chỗ ngồi từ Tân Sơn Nhất đến Narita, Nhựt chúng tôi ngồi bên nhau số ghế 12B, 12C, nhưng qua tới Nhật tôi ngồi ghế 32E, nhà tôi ngồi ghế 52F, từ Houston về Louisville, tôi ngồi một nơi nhà tôi ngồi 1 nơi, cô tiếp viên để ý thấy, nên cô ta tự động đổi cho hành khách khác để chúng tôi ngồi bên nhau.

Khi về Việt Nam dự đám cưới của cháu tôi, nên các con tôi và gia đình của chúng về đông đủ nhân dịp nghỉ Hè. Dự đám cưới xong, gia đình con trai, con gái tôi đã về Mỹ để đi làm, chỉ có chúng tôi ở lại để sẽ đi du lịch hoặc đi tour, nay nghe tin con bị bệnh, ở nhà một thân một mình không ai chăm sóc, còn phải đi làm nên chúng tôi nhận thấy cần phải về ngay. Mua vé tối thì sáng đã ra phi trường đi chuyến bay 7 giờ sáng, rời Việt Nam bay sang Nhật.

23 giờ 15 ngày 23-6-2025, chúng tôi về đến nhà, con gái chúng tôi dù bệnh cũng phải đi làm. Theo như lời cô Thanh Mai, cô cũng bị bệnh ho ra máu là vì bị vỡ mạch máu nên ho ra máu chớ không phải từ phổi.

Đã một ngày về tới nhà nhưng tuổi già sức yếu nên tôi chưa cảm thấy trở lại sức vẫn còn cảm thất mệt mỏi, sáng ăn chừng vài muổng cơm hay buổi chiều ăn một vài đũa mì mà thôi.

Tối hôm qua về đến nhà, tôi uống 2 viên thuốc xổ BEAULUCK, sáng nay lúc 10 giờ đi chợ Sam’s Club, tôi đã được xổ trong ấy.

Hosting của AHVNHN và nsPhat-hoc do Nguyễn Vũ Hữu Cương mua mấy năm trước, anh ấy cho tôi sử dụng từ đó. Tên Miền của nsphat-học truớc kia là nsphathoc.org vì nó bị mất nên tôi phải thay đổi thành nsphat-hoc.org nay Cương cũng đã lấy lại được tên gốc của nó nsphathoc.org, chắc là tôi sẽ dùng lại tên gốc nầy.

Thời đại @ hay 4.0 tiến rất nhanh, nên những người tuổi cao như tôi chạy theo nó mau thấm mệt. Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng rằng mình có sức theo đuổi sự tiến bộ ấy, nếu không bị lùi lại nhanh chóng.

Mong rằng có sức khỏe và trí tuệ minh mẫn để theo chúng như từ trước tới nay vậy.

866424062025






Thursday, June 5, 2025

Sàigòn trong tôi

Tôi về đến Sàigòn vào đêm 29-5-2025, dạo nầy thời tiết nóng quá, hôm qua 5-6-2025, Đỗ Thọ Bình đến gặp tôi để lấy hộp Compass, Bình nhờ tôi mua dùm, đây là hộp Compass Mỹ sản xuất, ngày xưa tôi vào học ở Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật có cơ sở tạm tại Trường Bách Khoa Trung Cấp Phú Thọ, chúng tôi thường học với những bộ Compass nầy, khi tôi lên dạy tại Trung học kỹ thuật Y-Út Banmêthuột, trường do Mỹ Viện trợ cho đồng bào sắc tộc, nên họ cũng đã nhập một số hộp compass nầy, tôi không hiểu vì sao mà hầu hết đều bị rỉ sét.

Tôi vì bệnh nghề nghiệp nên đã mua 1 hộp compass KERN xài, compass Kern bằng inox nên không bị rỉ sét, tuy hộp compass có kích thước không lớn nhưng có đủ 3 compas nhỏ, tire ligne, cây nối nên có thể vẽ vòng tròn to nhỏ tuỳ thích. Ngày nay tôi vẫn còn giữ hộp compass nầy, nhưng đã lâu không dung vì đã sử dụng autocad.

Theo lời Đỗ Thọ Bình thì anh sưu tầm nhiều thứ, mỗi năm anh tổ chức họp mặt cựu học sinh Trung học kỹ thuật Cao Thắng, anh trưng bày mô hình trường xưa, nào là lầu đồng hồ như các Trường Gia Long, Petrus Kỵ, Trường Bác Ái …

Bình đưa tôi đi uống coffee, chúng tôi đến quán Cây Tre gần khu Đầm Sen, nhưng quán đóng cửa 1 ngày, nên tìm quán coffee khác trên đường Nguyễn Văn Luông, làm cho tôi nhớ đến những năm 1970 hay 1980 có khi hàng tuần tôi phải đến một hiệu tiện góc đường Nguyễn Văn Luông và Hậu Giang để thúc hối họ tiện cho những chiếc cối xay lúa công xuất nhỏ. Đó là hiệu tiệm không tên, nhưng anh chủ hiệu thứ 5 mắt anh bị lé, nên thân chủ đặt là tiệm tiện Năm Lé, nay chỗ đó đã bán cho chủ khác, họ xây cất khang trang 3, 4 tầng để ở hay khách sạn, Bình chạy ngang qua, tôi không kịp để ý.

Vào một quán coffee, tôi không nhớ tên, đông khách nên chúng tôi phải lên lâu, trên lầu cũng đông khách, có một thanh niên dẫn theo em hay cháu 3, 4 đứa con trai tuổi teen, chúng đùa nghịch, chạy giỡn la lối om xòm như ở chỗ không người, cậu thanh niên không hề khuyên nhủ, giữ im lặng cho khách khác, người ta ít học, nếu không muốn nói là kém giáo dục, không biết tôn trọng người khác, không biết giữ lịch sự, không biết dạy con cái thì lớn lên chúng sẽ theo đã đó mà dạy trẻ con thành ra vô giáo dục.

Đỗ Thọ Bình còn hẹn tôi một ngày khác do tôi định để anh em Cao Thắng gặp mặt cho vui. Tôi còn phải họp mặt với anh em Cao Thắng khác mà nhà tôi nhắc nhỡ phải mời anh em đi ăn một bữa. Thường thì bữa ăn đó có anh Trần Xuân Minh, Nguyễn Mnh Chiếu, Đặng Vĩnh Bửu, Lâm Văn Tấn, Đặng Ngọc Hữu (ở chợ Thủ Đức), Đinh Bá Phát ở quán ăn 241, số 45 đường Phạm Viết Chánh, Phường Phú Thuận , Quận 1, Tp. HCM.

Vài năm sau nầy tôi không chạy xe máy, nên nhiều quảng đường tôi quên, thấy hơi lạ, nhưng thực ra chúng không thay đổi gì.

Sàigòn tôi đã sinh sống từ những năm 1956 cho đến 1991 mới rời xa đi sang Mỹ sinh sống, thời trước tôi từng ở trước chợ Hòa Hưng, khu Cống Bà Xếp, rồi khu gần Đài Phát Thanh Sàigòn, chính xác hơn là tại địa chỉ số 2 Phạm Đăng Hưng, nay là Mai Thị Lựu, rồi ở 44 Ngô Tùng Châu, gần ngã Sáu Sàigòn, sau dời đến Ngô Tùng Châu Gia Định, rồi 84 Cư Xá Đô Thành trước khi sang Mỹ.

Tôi từng học những năm Trung học tại Trung Học Kỹ thuật Cao Thắng, nên đã dạo nát đường Lê Lợi, Tự Do, khu vực Chợ Bến Thành, xem chiếu bóng ở những rạp Hồng Bàng (trên đường Pasteur, bên cạnh trường tôi học), Lê Lợi, Vĩnh Lợi, Eden, Majestic, Casino Sàigòn, Rex, nay rạp chiếu bóng không còn, vì được thay bởi TV, nằm nhà xem phim, nên các rạp chiếu bóng phải dẹp tiệm.

Ngày nay về Sàigòn, đi đường do người khác chở xe máy, nên có những nơi đã bị quên, mặc dù chúng vẫn không thay đổi bao nhiêu, nhưng tuổi già trí nhớ kém chắc là lẽ thường vậy.

866406062025






Sunday, May 25, 2025

MÙA ĐÔNG MONG CHỜ

 MÙA ĐÔNG MONG CHỜ

Nhìn bao lá úa rớt bên song
Mà thấy nao nao cả tấc lòng              
Ngày đến nguồn vui sao vắng mất
Đêm về tâm sự lại không cùng  
Có còn ghi nhớ dòng lưu niệm
Chưa hết u hoài chuỗi đợi trông
Người đã ra đi trong luyến tiếc
Một mùa Đông rét ...mãi  chờ mong !

Trịnh Cơ

Họa vận

Thiếu phụ mong chồng đi tù cải tạo.

Trăng tàn sương lạnh thấm bên song .
Thiếu phụ chờ chồng nảo cả lòng
Cải tạo chàng đi xa vạn dặm
Đoàn viên nàng đợi mãi không cùng
Heo may gió lộng càng tê tái
Cánh nhạn mây ngàn vẫn ngóng trông
Đất nước hoà bình sao cách biệt
Anh ơi có biết em chờ mong .

Hà Văn Tài .

Sunday, May 18, 2025

Nhớ về chị Thu Nhi (1)

Thời tôi còn đi học khoảng 60 năm về trước, tôi đã biết chị Thu Nhi là một nhà thơ, có thơ đăng trên Phổ Thông nguyệt san của nhà văn Nguyễn Vỹ, đầu năm 1964, sau cuộc tranh đấu Phật Giáo năm 1963 thành công, Gia đình Phật Tử Huế có mời Gia Đình Phật Tử Thủ Đô ra tham quan cố đô Huế, dự một cuộc họp của các Huynh Trưởng Trung Phần tổ chức tại chùa Từ Đàm. Đáng lẽ ra anh Nguyễn Hữu Huỳnh đi, nhưng anh bận việc nhà, hơn nữa gia đình anh ở gần chùa Từ Đàm nên anh không đi, đã đề cử Bác Đỗ Văn  Giu là Phó Trưởng Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Nam Việt làm Trưởng Đoàn, tôi Phó Trưởng Đoàn kiêm Huynh Trưởng Trực, hướng dần một phái đoàn gồm 23 Huynh Trưởng ra Huế theo lời mời kể trên.

Chuyến đi đó, do anh Nguyễn Hữu Huỳnh liên hệ xin một chuyến bay quân sự DC3, chuyến bay nầy do phi công Mỹ lái, chúng tôi được phi công dễ dãi cho phép ra phòng lái của phi công để nhìn cảnh vật phía trước trời mây bao la hoặc phía dưới là rừng núi hay biển xanh mênh mông.

Trên phi cơ Bác Giu và tôi đang thảo bức điện tín để gửi về Sàigòn

Chuyến trở về, chị Thu Nhi xin quá giang theo phi cơ vào Sàigòn. Do đó chúng tôi quen biết nhau. Năm 1964, Đại Hội Huynh Trưởng Toàn Quốc Gia Đình Phật Tử tổ chức tại Trung học Gia Long Sàigòn, chị Thu Nhi và chúng tôi có chụp một tấm ảnh làm kỷ niệm.

Hàng đứng từ trái sang phải Lê Xuân Thiệu, Huỳnh Ái Tông, Đoàn Khị Kim Cúc, chị Thu Nhi, chị Nguyễn Thị Ngân ngồi thứ 2 tù phải sang trái và các em Thiếu nữ GĐPT Giác Minh, Giác Hoa ...

Sau nầy ra ngoại quốc, tôi có gặp chị Thu Nhi tại một hiệu bán hoa tươi của chị, rồi sau đó chị xuất gia là Ni cô Huệ Tâm và trở về Phan Thiết tịnh tu.

Mấy hôm trước từ Huynh trưởng Quảng Pháp Trần Minh Triết cho biết tin từ chị Dung Kiều, ni sư Huệ Tâm bệnh từ lâu nay rất yếu. Sau cùng được tin từ chị Hồng Loan cho biết Ni Sư  Huệ Tâm đã xã bỏ báo thân, an nhiên về cõi tịnh ngày 16 tháng 5 năm 2025 tại quê nhà.

Xin hãy nguyện cầu cho Giác Linh Ni sư Huệ Tâm an nhiên nơi cõi Tịnh.

Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật

(1) Bài nầy đúng ra đăng vào Trang nhà AHVN nhưng do không upload được, nên tôi đăng vào đây.







Wednesday, May 14, 2025

Nhớ người

Hôm nay tôi có thì giờ ngồi trước máy vi tính tìm hình ảnh những người quen biết xưa, người đầu tiên là anh Lê Đình Cần bạn cùng lớp Đệ ngũ D niên học 1958-1959 tại Trung học Kỹ thuật Cao Thắng 65 Đỗ Hữu Vị (nay là Huỳnh Thúc Kháng) Sàigòn, 

Lê Đình Cần - Huỳnh Ái Tông

Anh Hồ Ngọc Thu, thứ nam của thầy Hồ Văn Vầy giáo sư Trung học kỹ thuật Cao Thắng, Thu và tôi cùng học chung lớp Đệ Ngũ D Trung Học K Thuật Cao Thắng, cùng lớp với Cần. Ra đơn vị tôi gặp Thu ở Đại Đội 21 Quân Cụ sau cải biến thành Đại Đội Bảo Toàn Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận, đóng quân tại Sóc Trăng. Thu kèm cập tôi uống bia từ đó. Sau Thu và tôi cùng là giáo sư Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ Sàigòn.

Hồ Ngọc Thu - Huỳnh Ái Tông

Anh Bửu Cầu, bạn đồng ngũ với tôi ở Trung đội 39, Đại Đội 10, Tiểu Đoàn Đoàn 3 khóa 27 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, cũng là đồng ngũ với Trần Văn Nhựt.


Bửu Cầu - Huỳnh Ái Tông tại chùa Linh Phong Đà Lạt

Trần Văn Nhựt cũng là đồng ngũ ở Trường Bộ Binh, Trường Quân Cụ, ngày nay Nhựt định cư ở West Virginia, sát với tiểu bang của tôi, nhưng nếu lái xe chắc cũng phải 2 hay 3 giờ đồng hồ mới tới, Nhựt và tôi chỉ gặp nhau khi về Việt Nam, còn ở Mỹ chỉ gọi điện thoại thăm hỏi nhau.

Tông - Nhựt tại Sàigòn

Anh bạn cùng đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử với tôi từ những năm 1958, đó là anh Nguyễn Huy Nghiễn, anh cũng là Hướng Đạo sinh, sinh hoạt trong Tráng Đoàn của Huynh Trưởng Trần Trung Du.

                  
Thiện Chí Trần Trung Du         Phúc Ân Nguyễn Huy Nghiễn - Phúc Trung Huỳnh Ái Tông

Huỳnh Hữu Ủy và tôi quen nhau ở trong tù cải tạo Kà-Tum, chúng tôi thường uống trà với bác Phạm Ngọc Quỳnh, tôi là B Trưởng của B11, C 3, D 2 tại Kà-Tum vào những năm 1976 -1977, trước đó tôi ở tại Trãng Lớn, Tây Ninh. Bác Quỳnh là thủ kho của Khối, cũng như Huỳnh Hữu Ủy ra trại vào khoảng tháng 10 năm 1977 (vì trại giải thể, do Kampuchea đánh sang biên giới năm 1977)

Huỳnh Ái Tông  và Huỳnh Hữu Ủy

Vào khoảng tháng 6, tháng 7 năm 1976 tôi bị đưa từ Trại Cải Tạo Trãng Lớn lên rừng Kà-Tum ở Tây Ninh để học tập cải tạo, đến đó tự đi rừng đốn cây, tre, nứa, cắt tranh xây dựng lán trại để ở, cho đến 19-6-1977, tôi mới được tam tha về theo diện “hồi hương lập nghiệp” nhờ có sự giúp đỡ của anh Vũ Hữu Thuận là trại viên thuộc B 39 của tôi. 

Trước đó anh Thuận ở Tiểu Đoàn 5, Tiểu Đoàn nầy bị giải thể nên anh được đưa về nhập vào Trung đội tôi, khi ấy anh bị bệnh, hàng ngày tôi phải thăm bệnh tình của anh để báo cáo quân số ai bệnh, ai khỏe để phân công đi lao động. Sau khi anh khỏe mạnh lại, anh cho tôi biết anh muốn giúp tôi về sớm, bằng cách báo cho người nhà xin cho tôi hồi hương lập nghiệp hoặc cả gia đình xin đi vùng kinh tế mới, tôi có một trong 2 giấy ấy, thân nhân của anh sẽ giúp tôi về sớm.

Gia đình tôi đã xin giấy cho tôi hồi hương lập nghiệp ở xã Phú Hòa, huyện Thoại Sơn, tỉnh Long Xuyên nên tôi được về sớm vào dịp 2 tháng 9 năm 1977, nhưng mãi cho tới 16-9-1977, tôi mới nhận được giấy và tiền đi đường từ Trảng Lớn về tới nhà ở Sàigòn.

Khi tôi về tới nhà, anh Thuận đã được về trước tôi và anh đã vượt biên sang Houston, sinh sống một thời gian rồi anh đã mãn phần từ lâu.

Một người bạn khác là Huỳnh Hữu Lộc, năm 1962 tôi thi rớt Tú Tài 1, bị ở lại lớp nên học chung với Huỳnh Hữu Lộc, thân nhau từ đó, sau 1975 Lộc vượt biên bị bắt ở Bến Tre, rồi ông Võ Văn Kiệt lãnh về Sàigòn, sau Lộc trở thành đại gia, nổi tiếng về xây dựng với cọc nhồi, Lộc bệnh ung thư, đi Singapour chữa khỏe lại và đã mất từ lâu.

Từ trái qua phải: Nguyễn Tấn Á, Huỳnh Hữu Lộc, Tông, Minh, Bửu, Chiếu.

Trần Xuân Minh với tôi không hề có học chung lớp, về sau nầy là bạn học chung trường nên thân nhau, Đặng Vĩnh Bửu có ông ngoại là thầy dạy ở Cao Thắng, nên quen biết rồi chơi thân với chúng tôi, Nguyễn Minh Chiếu học cùng với Lộc, sau chúng tôi 1 năm, nay thì đều là bạn cùng trường.

Nguyễn Tấn Á với tôi cùng thi đậu vào Trung học kỹ thuật Cao Thắng năm 1956 nhưng không có học chung năm nào, có biết nhau nhưng không chơi thân với nhau. Á có người em là Nguyễn Tấn Việt, kỷ sư anh ta đi săn bị lạc đạn mà mất ở Đa Nhim, biết đâu bị thủ tiêu không ? Á trước theo VC có vào bưng, sau đó anh ta bỏ hàng ngũ CS trở về với Quốc Gia. Trong một tiệc nhậu, Á nhái theo anh hồi chánh có tên tuổi thuở đó, tuyên bố từ bỏ CS trở về hàng ngũ QG.

Còn có Nguyễn Văn Hướng, học sau chúng tôi 1 năm, sau khi ra trường anh làm cho hãng CARIC, hãng nầy nằm bên kia sông Sàigòn, gần bến phà Thủ Thiêm. Hướng chơi rất thân với chúng tôi.

Tông, Hướng, Bửu, Minh, Chiếu ăn tại nhà hàng góc đường An Dương Vương-Lê Hồng Phong

Một người nữa tôi muốn nói tới là Vũ Thế Ngọc, tôi học năm thứ 4 ở Đại Học Vạn Hạnh thì có Vũ Thế Ngọc (Ngọc nhỏ hơn tôi 8 tuổi) và Mai Vi Phúc năm đó ở lại lớp, nên chúng tôi quen biết nhau từ đó, thỉnh thoảng tôi còn gặp Vũ Thế Ngọc lúc đi thăm Hòa Thượng Tuệ Sỹ, lúc uống cà-phê vĩa hè ở góc đường Đồng Khởi và Nguyễn Du với vài văn nghệ sĩ khác có khi có Nguyễn Quốc Thái.

Huỳnh Ái Tông, Vũ Thế Ngọc, HT. Tuệ Sỹ

Một người nữa là Nguyễn Quốc Thái, rất tiếc tôi không nhớ rõ tôi quen biết anh từ khi nào và ở đâu ? Hình như là ở quán cà-phê 27 đường Nguyễn Thị Diệu gần chợ Đũi, quận Ba, Tp. HCM. Hình như do tôi đi uống cà-phê với Từ Hoài Tấn, hôm ấy gặp Nguyễn Quốc Thái, Nguỵ Ngữ, Nguyễn Thanh Vân và quen biết nhau từ đó. Từ Hoài Tấn khi còn nhỏ ở nhà người Dì đi học, tôi có dạy kèm cho Tấn về Toán đố.

Từ Hoài Tấn, Huỳnh Ái Tông, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Quốc Thái và nhà văn Ngụy Ngữ

Lâu lâu điểm lại, để nhớ tới những người bạn hoặc có quen biết nhau, đều là duyên mà có.

866414052025






Nhớ lại chuyện xưa

Sau khi tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật Phú Thọ Sàigòn, tôi đi dạy học trước tiên là dạy ở trường Trung học kỹ thuật Y-Út ở Banmêthuột là một trong những trường kỹ thuật do Viện trợ Mỹ cung cấp cho dân tộc thiểu số, nên trường có nội trú, học sinh người Chăm ở Phan Rang lên học, còn học sinh người Thượng gốc Rhadé hay Bana ... ở Banmêthuột, Kontum, Pleiku, các em đi học được ăn ở miễn phí, có học bổng hàng tháng và có quần áo hàng năm, có tiền xe đi lại vào dịp lễ nghỉ hoặc bãi trường.

Khi thi vào trường CĐSPKT năm 1964, tôi được đậu vớt với thứ hạng 12, trong đó 10 người là chính thức và 2 là dự khuyết, nhưng khi nhập học, kể cả tôi là có 7 người về sau anh Nguyễn Mạnh Hoạt có học bổng du học ở Pháp, nên chỉ còn lại có 6 người học mà thôi. Đó là các anh Nguyễn Văn Bài, Nguyễn Văn Đước, Nguyễn Đức Lộc, Lương Văn Nhơn, Trịnh Như Tích và tôi.

Khi ra trường năm đó chỉ có 4 nhu cầu, nên chúng tôi được phân bổ: anh Nguyễn Văn Bài về trường kỹ thuật An Giang, anh Lương Văn Nhơn về trường kỹ thuật Vĩnh Long, tôi về trường kỹ thuật Banmêthuột, anh Trịnh Như Tích đi xa hơn ra trường kỹ thuật Đà Nẵng, còn lại anh Nguyễn Văn Đước và Nguyễn Đức Lộc tiếp tục học thêm 2 năm để ra giáo sư Đệ Nhị Cấp. Sau khi tốt nghiệp ra trường, anh Đước được phân bổ về Trường Kỹ thuật Bà Rịa rồi làm Hiệu Trưởng Trường Kỹ Thuật Tây Ninh, sau đó anh đã mất. Còn anh Nguyễn Đức Lộc về Trường kỹ Thuật Việt Đức, nay anh sinh sống tại chợ Thủ Đức.

Năm 1968, tôi bị động viên đi khóa 27 Thủ Đức, đó là khóa sau cùng mang số thứ tự, sau đó là khóa 1/68, 2/68… học cơ bản quân sự 3 tháng ở Quang Trung, mang alfa rồi mới vào quân trường Thủ Đức, vì thời đó chiến tranh lan rộng, cần đào tạo sĩ quan cấp bách, trước đó đào tạo sĩ quan trên 10 tháng, từ sau khóa 27 chỉ còn có 8 tháng mà thôi.

Ra trường tôi được tiếp tục học khóa đào tạo sĩ quan cơ bản Quân Cụ, rồi khóa sĩ quan Quân Xa. Sau khi tốt nghiệp sĩ quan Quân xa vào tháng 4 năm 1969, tôi được phân bổ về vùng IV chiến thuật, tại đây tôi được phân bổ về Đại Đội 21 Quân Cụ, đóng tại Sóc Trăng, về đến đơn vị cũng là lúc cải tổ thành Đại Đội Bảo Toàn của Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh do Tướng Vĩnh Nghi chỉ huy, có căn cứ tại một Trung Tâm huấn luyện Địa Phương Quân và Nghĩa Quân, nằm trên đường đi Bãi Xào, còn cách Đài Phát Thanh Ba Xuyên chừng 500 thước, qua cánh ruộng nhỏ, bên kia là chùa Dơi.

Nhưng tại Đại Đội Bảo Toàn, Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận, tôi được phân bổ làm Trung Đội Trưởng Sửa Chữa, đóng quân nằm cạnh Trung Đoàn 32 của Đại Tá Chung Văn Bông tại thị xã Cà Mau (đóng quân tại sân Quần vợt, trước Ty Tiểu Học, cách chợ Cà Mau chừng 100 thước, cách Ty Cảnh Sát cũng khoảng đó).

Vài tháng sau, tôi được đổi về Hậu cứ làm Trung đội Trưởng Hậu cứ rồi được biệt phái về lại Trung học Kỹ Thuật Y Út Banmêthuột. Rồi cứ đủ ngày tháng được công nhận là Thiếu Úy, sau Thiếu Úy 2 năm là được công nhận là Trung Úy nhưng sau đó muốn lên Đại Úy phải có thâm niên tại ngũ trong quân đội. Theo tổ chức quân đội ngày xưa, tốt nghiệp Trường Bộ Binh Thủ Đức, lên cấp bậc cuối cùng là Đại Tá mà thôi, vì nó thuộc TRỪ BỊ, không phải hiện dịch như Trường Sĩ Quan Đà Lạt, là trường chánh quy.

Hồi xưa tôi có vài tấm ảnh mặc quân phục, nay tôi chỉ có tấm ảnh bán thân mang quân hàm chuẩn úy và tấm ảnh mặc quân phục khi đi phép về Sàigòn trong lúc đang học ở quân trường, tại đường Phùng Khắc Khoan quận Nhất khi đi phép, chờ xe chở về trường trong khi còn thụ huấn ở quân trường Thủ Đức. 

 
 

Về Trường kỹ thuật Y Út Banmêthuột, tôi có tấm ảnh chụp chung với anh Đống Văn Quan Hiệu Trưởng và ông Nguyễn Văn Anh Tổng Giám Thị.

Huỳnh Ái Tông - Đống Văn Quang - Nguyễn Văn Anh

Về trường Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, tôi còn tấm ảnh chụp khi bàn giao chức vụ giữa anh Phạm Văn Tài và tôi có sự chủ tọa của ông Trần Ngọc Thái, Giám Đốc Nha Học Chánh Sàigòn.

Sau đó là hình ảnh chụp kỷ niệm sau tiệc Tống Cựu Nghênh Tân ở Xa lộ gần cầu Phan Thanh Giản, có sự tham dự của ông Hội Trưởng Hội Phụ huynh và Giáo sư Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ.

Tấm ảnh chụp chung với giáo sư và nhân viên sau khi trường được tiếp thu tháng 5 năm 1975.

Một thời đã qua hay là một thời đáng nhớ, nay tuổi già sức yếu, chạnh nhớ đến ngày xưa một thời khi còn trẻ, tất cả đều để lại Việt Nam vào ngày 2-4-1991 khi từ giả người thân và bạn bè tại phi trường Tân Sơn Nhất, đáp chuyến bay Air Việt Nam bay sang Bangkok, vào tạm trú tại nhà tù của Bộ Nội Vụ Thái Lan, dùng để giam giữ những người ngoại quốc, hưởng chế độ tù: ăn cơm trắng với hột gà kèm theo chút muối bọt và tô canh lỏng bỏng vài cọng rau xanh.

Phi Trường Tân Sơn Nhất ngày 2 tháng 4 năm 1991
Từ trái qua phải: Em gái tôi, cháu tôi, Tâm đen, Tông, Mai, Thu, Hải, Tuệ Linh, Bác Tự, Lê Bá Thanh, 

866414052025