Pages

Thursday, October 23, 2014

Quán cây tre



Quán cà phê ở góc một con hẻm. Quán không có tên, mặt tiền có trồng vài gốc tre, nên những người đến uống cà phê đặt cho nó cái tên là Quán cây tre, vài năm gần đây, mấy người bạn của tôi bỏ quán cà phê trên đường số 5, từ Công viên Phú Lâm quận Bình Tân, họ dời về Quán cây tre vì họ phát hiện nơi đây cà phê nguyên chất.

Người ta thường có thói quen uống cà phê ở một cái quán nào có cà phê ngon có hương vị theo sở thích của họ, nhưng cái không khí của quán thường làm cho người ta ưa thích, tạo thành thói quen, không đến nơi đó cảm thấy thiếu thốn, nên người ta cho là ghiền cái chỗ ngồi hơn là ghiền ly cà phê.

Tại bàn cà phê, vào buổi sáng, nhóm bạn tôi ngồi từ 8 giờ cho đến hơn 10 giờ, gặp nhau hàng ngày, họ đọc báo của quán, gọi điện thoại thăm bạn bè, nói chuyện nắng mưa, một ngày cũng như mọi ngày, vậy mà họ vẫn có chuyện để nói.

Họ là bạn tôi, chủ yếu gồm một cập vợ chồng, thuở thiếu thời anh chồng học Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, ở trung tâm Sàigòn, rồi anh ta đi làm cho Điện lực, sau 1975 cũng vượt biên đến 12 chuyến, không thành nên trụ lại lây lất qua ngày, nay đã thất thập cổ lai hy nên sáng sáng gặp bè bạn uống cà phê nghiền ngẫm thời đã qua.

Một anh bạn khác, sau khi tốt nghiệp Cao Thắng, vào học Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật rồi đi dạy học ở ngoài miền Trung, sau 1975 đi làm cho xí nghiệp sản xuất dây điện rồi về hưu, nay an hưởng tuổi già.

Hai anh bạn này, có người hình như có chân trong câu lạc bộ nhiếp ảnh nghệ thuật, một anh mới tập cầm máy ảnh, nên thỉnh thoảng họ tổ chức đi Trung đi Bắc đến những nơi có phong cảnh đẹp để chụp ảnh, đôi khi họ mang ra cho mọi người xem.

Một anh bạn nữa, không học chung với chúng tôi ở Cao Thắng, có biệt danh Ông Sáu, cùng ở trong nhóm nhiếp ảnh, gặp nhau họ thường bàn về những chuyến đi săn ảnh hay dự định cho chuyến đi săn ảnh sắp đến.

Tôi nhớ đến những năm Trung học, tôi đã từng học một lớp nhiếp ảnh nghệ thuật được tổ chức tại trường, có những nhiếp ảnh gia tên tuổi như Trần Cao Lĩnh, Cao Đàm, Minh Tuyền… các họa sĩ U Văn An, Thịnh Đen… Nhưng nhiều năm không cầm máy, không sáng tạo thì chẳng khác nào tay mơ.

Một anh bạn khác học cùng khóa nhưng không cùng lớp, cho nên tôi không được rành về anh chàng này, nhưng luôn luôn góp ý vui vẻ, tâm đồng ý hợp.

Một anh bạn khác từ trường khác chuyển về học cùng trường những năm Đệ nhị cấp, sau này làm ở Điện lực, mấy năm trước bị tai biến nhẹ, nay đã có thể đạp xe từ nhà ở Lãnh Binh Thăng, gần Trường đua chạy sang góp mặt cùng anh em.

Đó là những anh bạn thường trực của tôi tại quán cà phê này, thỉnh thoảng họ gọi điện cho anh nọ anh kia, cũng có người tới góp mặt bàn chuyện cho vui tuổi già.

Dĩ nhiên ở bàn cà phê, câu chuyện chẳng bào giờ dứt, chuyện nọ tiếp nối chuyện kia, chuyện ngày trước và chuyện hiện nay, đôi khi họ bàn đến cách pha chế cà phê với beurre, với rượu, ngày nay với bắp, với đậu nành, với hương liệu …

Họ cũng bàn tới cách pha cà phê, như xưa kia cà phê đỗ vào trong cái vợt nhỏ, để vào trong cái ly hay cái bình rồi đổ nước sôi vào, gọi là cà phê vớ, cà phê pha trong cái vợt, cái vợt để trong cái siêu hay cái ấm, đổ nước sôi vào rồi để trên lò lửa cho cà phê luôn luôn nóng, gọi là cà phê kho trước khi có cà phê phin.

Vài chục năm trước, người bình dân uống cà phê, họ đỗ cà phê nóng từ cái ly ra cái dĩa, rồi uống cà phê trong cái dĩa.

Khoảng 10 giờ, họ chia tay không hẹn, nhưng một thói quen, ngày mai họ bị cơn ghiền chỗ, không có chuyện chi, họ cũng mò tới để uống ly cà phê mừng ngày mới vẫn còn sống với bạn bè. Ngoài ra còn mấy bàn khác, cũng với những khuôn mặt đó hôm qua và hôm nay góp mặt, ngoài ra còn mấy bàn cờ tướng bên vĩa hè.

Đó là cái Quán cây tre, trong con hẻm trên đường Lạc Long Quân 11, chỗ không cần hẹn, tôi có thể gặp bạn hằng ngày.

Mấy hôm nay trời mưa lại thêm triều cường, nên nhiều con đường bị ngặp nước, cầu Phú Lâm bị đóng để xây kè chống ngập, từ Phú Lâm ra Sàigòn, Chợ Lớn chỉ có vài cây cầu sử dụng được, nên nạn kẹt xe kinh khủng vào giờ cao điểm, trừ cầu Hậu Giang giao thông tương đối tốt, không bị tắc nghẽn, nhưng các bạn tôi vẫn vượt qua khó khăn, để hằng ngày hai lượt đi về họp mặt, chỉ vì ghiền cái chỗ ngồi.
Sg 23-10-2014

Saturday, October 18, 2014

Đi về Việt Nam



Tôi đã về Sàigòn, một chuyến đi khá vất vả với hãng hàng không American Airlines và Japan Airlines, vất vả vì “tuổi già sức yếu” chớ không phải vì nặng nhọc hay chuyến bay với thời tiết xấu.

Thứ năm 17-10-2014 chúng tôi lên đường từ phi trường Louisille, đây là phi trường có tiêu chuẩn quốc tế, là căn cứ của UPS, nhưng không có máy bay đi nước ngoài cho nên chúng tôi phải bay tới Chicago, nhà tôi bị suy thoái cột sống, nên cần xe lăn, và chúng tôi ăn chay nên khi mua vé có yêu cầu xe lăn và thức ăn chay. Vào ngày Thứ Hai, nhân có việc đi ngang qua phi trường, tôi ghé vào quầy vé yêu cầu họ kiểm tra dùm thức ăn, họ trả lời là không thể kiểm tra được, tin rằng hãng máy bay sẽ phục vụ tốt như trước đây.

Nhưng trên chuyến bay ra ngoại quốc, của hãng AA từ Chicago đến Tokyo, Nhựt Bổn, đến khi phục vụ thức ăn, tiếp viên cho biết không có thức ăn chay phục vụ, chúng tôi cho biết có yêu cầu khi mua vé, tiếp viên xin lỗi, hứa sẽ tìm thức ăn chay cho chúng tôi.

Sau khi phân phối thức ăn cho hành khách, họ mang đến cho chúng tôi 2 tô nuôi, trong mỗi tô có 2 phần, một phần nuôi sốt cheese và phần kia nuôi dồn cheese với rau spinach và sốt cà chua, sau khi họ trình bày rằng không có cá thịt, chúng tôi đồng ý, họ yều cầu chờ để làm lại cho chúng tôi dùng, gần nữa giờ sau họ mới mang khay thức ăn ra, ngoài tô nuôi còn có những thức ăn khác như bánh mì, sà lách trộn dầu dấm, một ổ bánh mì nhỏ, một miếng cheese, trái cây tráng miệng …

Trên chuyến bay JAL từ phi trường Natari về Sàigòn, hãng này phục vụ rất chu đáo, nhà tôi đi xe đẩy, khi vào máy bay họ mang xách tay của nhà tôi đến chỗ ngồi và để vào ngăn chứa xách tay, họ hỏi chúng tôi có phải đã có yêu cầu ăn chay để họ phục vụ bữa ăn. Họ cũng cho tôi biết ông khách ngồi cùng hàng ghế cách tôi lối đi, có vấn đề về ngôn ngữ ở quầy vé, nên nhờ tôi giúp đỡ khi ông ta có yêu cầu với tiếp viên.

Khi máy bay cất cánh một lúc, tiếp viên mang khăn ấm cho hành khách lau mặt, lau tay, tôi mới chợt nhớ ra từ mấy năm sau này, các hãng máy bay Mỹ đã bỏ việc phục vụ khăn lau mặt, lau tay. Đến giờ ăn trên mâm thức ăn chay của JAL, có một hộp cơm nấu với đậu, nấm tuyết xào mặn, một hộp nhỏ xà lách, một hộp nhỏ dưa chua, một hộp nhỏ vài miếng dưa leo, cà sống, một ổ bán mì nhỏ, một miếng cheese, một hộp nhỏ xoài để tráng miệng, nhưng do bữa ăn chót trên AA cách đó chừng hơn 2 giờ, nên chúng tôi không thể dùng thêm nhiều, chỉ ăn qua loa cho biết những món ăn của họ mà thôi.

Khay thức ăn chay của JAL

Còn chừng hơn một giờ đến Tân Sơn Nhất, họ báo cho nhà tôi biết khi đến nơi, ngồi yên tại chỗ, chờ họ tìm xe lăn và tiếp viên của họ sẽ đưa nhà tôi ra tân xe lăn, rồi họ đi tìm một hành khách có tên NGUYEN, họ nhìn số ghế, rồi hỏi ông khách ngồi bên kia lối đi có phải tên ông ta hay không, ông ta đưa tờ giấy có ghi tên NGUYEN cho tôi, và nhờ tôi nói dùm với cô tiếp viên không phải tên ông ta.

Khi cô tiếp viên tiếp tục đi tìm ông NGUYEN, tôi mới hỏi ông ta tên chi, ông ta cho biết:

- Tôi tên Chỉ nhưng bây giờ họ viết là Chi.

Tôi chợt nhớ và hỏi:

- Vậy anh họ gì ?

- Tôi họ Nguyễn.

- Đúng cô tiếp viên đi tìm anh đó! Vì họ viết họ, chớ không vết tên.

Một chốc sau cô tiếp viên quay trở lại, tôi cho cô ta biết đó là ông khách cô đi tìm, vì ông ta và tôi hiểu lầm giữa họ và tên. Cô ấy cho tôi biết, ông ta có yêu cầu xe lăn, vì vậy khi máy bay đến nơi, báo cho ông ta biết hãy ngồi tại chỗ, chờ tiếp viên tìm xe lăn. Ông ta cho biết, có thể tự đi bộ được, nên không cần xe lăn.

Sau khi cô tiếp viên đi rồi, ông ta nói với tôi, thân phụ ông ta 84 tuổi hấp hối, trước đây ông ta đã về Việt Nam 3 tháng nuôi bệnh, nay thân phụ hấp hối nên phải về cho kịp lúc thân phụ lâm chung, vì vậy khi máy bay ngừng ông ta cần đi ra nhanh, không phải ở chờ xe lăn, ra khỏi phi trường, ông ta phải thuê bao xe về ngay ở Rạch Giá.

Lúc mới vào phi cơ, cô tiếp viên nhờ tôi giúp đỡ ông ta, tôi quan sát thấy ông ta ăn mặc gọn gàng, lịch sự, nhưng nét mặt da nhăn nhúm, tôi nghĩ ông ta phải bằng tuổi tôi hoặc lớn hơn tôi vài tuổi, nay mới rõ thân phụ ông ta lớn hơn tôi 10 tuổi, ông ta phải nhỏ hơn tôi ít ra là 8 tuổi, nhưng nét mặt khắc khổ, chứng tỏ ông ta đã trải qua một thời phong sương với đồng ruộng hay nghề cá ở ngoài biển.

Khi vào trình giấy tờ nhập cảnh, nhân viên công an cửa khẩu trông có vẽ nhàn nhã, anh ta hỏi tôi sanh quán ở đâu, rồi đóng dấu, ghi chép, gõ máy vi tính, nói với tôi:

- Máy chạy chậm quá !

Làm cho tôi liên tưởng đến lần trước, anh công an cửa khẩu nói với tôi:

- Máy trục trặc, bác đến ghế ngồi chờ một chốc.

Thế là tôi đến băng ghế ngồi chờ gần nữa giờ sau, anh đẩy xe lăn của nhà tôi trở lại nhờ họ giải quyết, tôi mới được anh công an khác đưa đi lên tầng lầu trên gặp một nhân viên an ninh khác hỏi tôi mấy câu hỏi, bắt tôi ghi xuống giấy địa chỉ, số điện thoại ở Mỹ và địa chỉ nơi tôi tạm trú ở Sàigòn. Câu chót nhân viên này đã đánh đòn cân não với tôi:

- Nếu bác gia nhập đảng phái, chúng tôi sẽ không cho bác về Việt Nam nữa!

Lần này, máy vi tinh ấy chạy chậm thật, tôi nhìn mấy chiếc máy đời cũ, nằm trên các bàn làm việc của công an cửa khẩu, tự hỏi sao bộ phận này không trang bị máy móc hiện đại cho hành khách nhờ, vì ai cũng muốn mọi việc nhanh chóng để về với thân nhân.

Xuống tới chỗ lấy hành lý, tôi còn thấy anh hành khách ở Rạch Giá vừa đẩy xe hành lý của mình đi ngang qua tôi, tôi vẫy tay chào, không thể chúc anh ta: “Đi đường vui vẻ”, cũng không thể “chúc may mắn”, cũng không thể “chia buồn” với anh ta.

Rời khỏi phi trường hơn 11 giờ đêm, nhiệt độ 75 hay 76 độ, tôi cảm thấy nóng sau trên 24 giờ trong máy bay hay ở phi trường có máy điều hòa không khí.

Có thân nhân, có bạn bè phải đi về thăm viếng, đi lại rất vất vả cho người lớn tuổi, nhưng chuyện tình cảm chúng ta là phải đi lại, viếng thăm thân nhân, họ hàng. Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tôi nhận thấy cung cách phục vụ của JAL là tốt nhất, các tiếp viên luôn luôn tươi cười khi phục vụ và nghiêng mình cúi đầu chào hết sức cung kính, như họ đà tận tâm phục vụ hành khách.
Sàigòn 19-10-2014

Friday, October 10, 2014

Quê hương ta đó



Hôm nay, tôi lang thang trên Mạng, tìm vài hình ảnh Sàigòn, tôi đã thấy Sàigòn với nhiều tấm ảnh chợ Bến Thành, nhà hát Tây, nhà thờ Đức Bà, Thảo cầm viên … những cảnh đường phố Sàigòn ngập nước, những tà áo dài thắt eo của thập niên 1960, những chiếc taxi xanh trắng, hình ảnh của những người ra đi bỏ lại Sàigòn thân thương, luôn muốn tìm lại dĩ vảng của mình.

Rồi trên Mạng dẫn tôi đến những tấm bản đồ, có bản đồ chỉ đường xe điện ngầm đi từ Sàigòn đến Suối Tiên, lại có bản đồ của một người chỉ đường đi Sàigòn – Đà Lạt tránh bị Công An Giao Thông bắn tốc độ, chính nó đã đưa tôi đến một bài đọc, cho tôi cái cảm xúc mạnh, do tấm lòng cùng tư duy của một người lạ, nhưng chắc còn trẻ đầy từ tâm.

Quê hương ta đó, xin mời đọc.

Thương lắm quê hương cơ cực

Có những câu chuyện trôi qua hàng ngày, đôi khi nó đọng lại mãi trong tôi, mỗi lần nhớ đến lại nao lòng…

Tháng 2 năm 2007

Trong một tối lang thang ở Đà Lạt, trời cũng đã khuya, khuya lắm, cũng tầm 12h… đường phố Đà Lạt vắng lạnh, gió cứ rít từng cơn lạnh, với một người như tôi thì cảnh đó có vẻ lãng mạn thậm chí có phần thích. Rồi tôi để ý trong một trạm xe buýt gần đó, gần bùng binh ở Hồ Xuân Hương, một ông cụ trải ra 2 tấm mền, 1 tấm trải xuống đất để nằm, 1 tấm dùng để đắp… Mọi sự lãng mạn và êm đềm trong tôi biến mất, chỉ còn lại cảm giác xót xa. Tôi dừng lại gửi cụ ít tiền rồi bước đi mà lòng thấy đau. Tôi không biết rồi ông cụ chịu được bao nhiêu đêm lạnh giá của Đà Lạt nữa…

Tháng 7 năm 2008

Gần đây tôi thường đi ngang qua Cầu Kinh, cây cầu bắc qua đảo Thanh Đa. Tôi chú ý một ông cụ thường ngồi bán một vài trái mít, trái bưởi… ít lắm, chẳng nhiều nhặn gì, nếu mà có bán hết mớ đó cũng không biết ông cụ lời được bao nhiều. Vậy mà có những đêm trời mưa lất phất, lạnh lắm… đi ngang vẫn thấy ông cụ trùm 1 cái áo mưa, ngồi co ro… Chỉ ước được nói: “cụ ơi cụ về đi, trời mưa thế này có được ai sẽ dừng lại mua đồ”. Tôi đi qua, không thể dừng lại được vì xe tôi không được dừng giữa cầu – cũng như những người khác đã đi qua… chỉ có đúng một từ có thể diễn tả được tâm trạng của tôi: “đau lòng”, ngay lúc này viết những câu này tôi vẫn thấy đau lòng.

Một đêm khuya gần đây

Sau một đêm ăn uống cùng vài người bạn, tôi về nhà, trời đã gần 12 giờ khuya, vắng lắm, rẽ vào con đường về đêm vắng vẻ. Tôi thấy hình dáng một bà cụ già, đẩy một chiếc xe mà không biết gọi là gì, chỉ biết nó có 3 cái bánh nhỏ, xe là một cái thùng. Bà cụ ngồi lui cui tìm trong những đống xà bần những mảnh ve chai. Giờ đó là giờ mà người khác đang ngủ say, thế mà một bà cụ già lại phải cặm cụi đi nhặt từng mảnh ve chai. Tôi dừng xe lại đưa cho cụ ít tiền, phận nhỏ tôi cầm 2 tay đưa cụ đã đành, thế mà cụ cũng cầm 2 tay rồi run run ấp úng, mãi mới được câu “cám ơn cậu, chúc cậu may mắn nhé”. Tôi bước lên xe, không dám đóng cửa lại ngay mà phải chạy đi một đoạn mới dám đóng cửa, tôi sợ tiếng đóng cửa như một sự phũ phàng nào đó…

Một tối về nhà sớm

Tôi sang nhà ba mẹ ăn cơm, chợt trên ti vi có chương trình phát về những người nghèo, có một đoạn kể về một gia đình có 2 mẹ con, người con bị tàn tật không lao động được, người mẹ già phải nấu bánh để bán. Người tàn tật được nhà nước trợ cấp, tôi đã chuẩn bị để nghe một con số thật thấp, khoảng chừng 200 ngàn / tháng, nhưng rồi tôi ngỡ ngàn khi nghe con số 57 ngàn đồng một tháng tiền trợ cấp. 57 ngàn đồng, bằng giá 1 ly nước trong một quán cà phê ở Sài Gòn…

Một buổi tiệc

Một người bạn, tạm gọi là thuộc hàng đại gia, xe đi bạc tỉ. Mời một số anh em, khoảng 10 người, ăn uống trong một nhà hàng sang trọng, rồi sau đó xuống vũ trường bên dưới… Cuối buổi tiệc số tiền thanh toán… 2600$. Bốn mươi ba triệu cho một đêm ăn uống. Tôi tự hỏi bốn mươi ba triệu sẽ làm được bao nhiêu việc cho những người nghèo ở trên. Và mang bốn mươi ba triệu để đãi 10 người có cuộc sống khá đầy đủ. Thấm thía câu nói “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, sao lại mang một gói đi cho một nhóm người no?

Viết lại những câu chuyện này để chia sẻ với các bạn, trong cuộc sống đôi khi ta bị một điều gì đó nặng nề, bị mất đi tình cảm, bị tổn thương, bị áp lực công việc, và đôi khi ta muốn buông xuôi, ta biết đâu rằng những điều đó vẫn chỉ là những điều rất nhỏ so với những cơ cực đến cùng cực của nhiều cảnh đời khác. Để ta có nghị lực tiếp tục vươn lên đi tới.

Và cũng là để tự thấy xấu hổ với bản thân vì đã có những lúc tiêu xài hoang phí, để tự nhắn nhủ rằng tôi và bạn, chúng ta, tuy không phải là đại gia giàu có, vẫn có thể làm được điều gì đó cho những người khác, và cho cả chúng ta!

Thương lắm quê hương cơ cực.

Những bài liên quan

Lex.101014

Thursday, October 9, 2014

Nhà văn Hồ Hữu Tường





Hồ Hữu Tường (1910-1980)

Ngoài tên thật, Hồ Hữu Tường còn dùng bút hiệu Pierre Vutren, Ý Dư, Nguyễn Huệ Minh (tên vợ), Khổng Cưu, Duy Phong... Ông sanh ngày 8-5-1910, tại làng Trường Thạnh, quận Châu thành tỉnh Cần Thơ, trong một gia đình nông dân tá điền. Học trường làng rồi trường tỉnh. Năm 1926 tham gia vào cuộc tranh đấu với thực dân Pháp nhân dịp tang lễ Phan Chu Trinh, và lãnh đạo cuộc bãi khóa tại trường Cần Thơ để chống bản án Nguyễn An Ninh, nên bị đuổi học. Sau nhờ bà con cho tiền sang Pháp học ở Marseille. Năm 1930, chuẩn bị thi Cao học Toán ở Lyon thì phong trào cách mạng Việt Nam bùng nổ, được kiều bào đưa ra lãnh đạo cuộc chống đối bản án tử hình 13 liệt sĩ ở Yên Bái. 

Chánh phủ Pháp tìm bắt, ông trốn sang Bỉ rồi về Việt Nam. Sau đó ông trở sang Pháp lấy bằng Cao học Toán, rồi cùng những bạn học cũ tham gia vào phong trào cách mạng bị trục xuất về nước. Sáng lập tả phái đối lập ở Ðông dương, và làm lý thuyết gia cho tổ chức ấy. Năm 1932, bị bắt và bị kết án ba năm tù treo.

Năm 1933, cùng với Phan Văn Hùm chủ trương tạp chí Ðồng Nai. Năm 1934, cùng với nhiều nhà cách mạng như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm ... sáng lập nhóm La Lutte. Năm 1936 chủ trương Phong Trào Ðông Dương Ðại Hội. Năm 1938, tách ra khỏi nhóm La Lutte, thành lập tờ báo Militant, tạp chí Tháng Mười và chủ trương tuần báo Tia Sáng (sau thành nhật báo). Giữa năm 1939 ly khai Ðệ tứ Quốc tế Cộng Sản và rời bỏ chủ nghĩa Marx. Tháng 9 năm ấy bị bắt và bị án tù 4 năm, bị đày ra Côn đảo, đến năm 1944 mới được thả về.

Khi bị an trí tại Cần thơ, có gặp giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, bàn luận về tiền đồ dân tộc, Sau đó ra Hà nội, Việt minh cướp chính quyền, bị kẹt ở đó đến cuối năm 1947, mới trốn được về Sàigòn, trong thời gian ở Hà nội, ông có sáng tác một loạt tác phẩm, sau mang về xuất bản ở miền Nam. Trong đó có Tương lai văn hóa Việt Nam, Tương lai kinh tế Việt Nam, Muốn hiểu chánh trị, Phi lạc sang Tàu (Ngàn năm một thuở, tựa in lần đầu năm 1949 nhà xuất bản Sống Chung).

Năm 1948 gia nhập vào làng báo Việt Nam, sát cánh với thi sĩ Ðông Hồ, viết cho nhiều tờ báo ở Sàigòn, cộng tác với nhóm Sống Chung, xuất bản Thu Hương, Chị Tập, Ngàn Năm Một Thuở.

Năm 1949 sang Pháp, ra tờ Cảo thơm, mở lớp làm báo hàm thụ, xuất bản tạp chí song ngữ Anh, Pháp Pacific theo chủ trương thuyết đã gẫm trong tù “Ðường lối thứ ba".

Năm 1954, nhơn có hội nghị Genève, đứng ra chủ trương nhật báo Phương Ðông ở Sàigòn để phổ biến “Trung lập chế”.

Năm 1955 muốn ngăn sự Nam Bắc tương tranh, sang Bình Xuyên giải hòa giữa Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia gồm: Cao Ðài, Hòa Hảo và Bình Xuyên với Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm, bị mắc kẹt trong binh lửa giữa mặt trận Quốc Gia với Bình Xuyên, rồi bị bắt.

Năm 1957 bị kết án tử hình, án chưa thi hành nên bị giam ở Côn Ðảo. Cuộc Cách Mạng 1-11-1963 lật đổ chế độ Ngô Ðình Diệm, ông và một số tù chánh trị được Hội Ðồng Quân Nhân Cách Mạng đưa về Sàigòn, đến năm 1964, án tử hình giảm xuống còn án tù 13 năm.

Năm 1965, giữ chức Phó Viện Trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh, dạy môn Xã hội học tại Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, nơi đây ông cũng chủ trương phổ biến khoa EOMIR.

Thời gian nầy ông cho tái bản một số tiểu thuyết cũ như Phi Lạc Sang Tàu và cho xuất bản một số tác phẩm mới viết như Nói Chuyện tại Phú Xuân, Thằng Thuộc Con Nhà Nông, Trầm Tư Của Một Tên Tội Tử Hình, Kế Thế, Hồi Ký 41 Năm Làm Báo ...

Năm 1967, án tử hình của ông được ân xá. Ðắc cử Dân Biểu tại Sàigòn, năm 1970, xuống tóc tu tại gia theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương của đức Phật Thầy Tây An, từ năm nầy trở đi, ông chuyên hoạt động về văn hóa, đề tài ông thường diễn thuyết để đề cao nền Văn hóa Dân tộc. Ông có trí nhớ, hiểu biết sâu rộng về nhiều lãnh vực, do đó ông được nhiều người tôn trọng là một học giả.

Sau ngày 30-4-1975, trước tiên năm 1977 ông bị bắt giam ở số 4 Phan Đăng Lưu Gia Định, đến tháng 6 năm 1979 được chuyển đến khám Chí Hòa, khoảng tháng 8 năm 1979, chuyển đến Long Bình, sau đó chuyển đến trại Z30D ở Hàm Tân, khoảng tháng 6 năm 1980 vì bệnh nặng, ông được Trại chuyển ra bệnh viện Huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận, tại đây bác sĩ chẩn đoán ông bị bệnh xơ gan cổ chướng, đến thời kỳ khó thoát khỏi tử thần, Trại quyết định tha cho ông để về Sàigòn chữa trị, theo đơn xin của vợ  ông bà  Huệ  Minh. Trên xe chuyển ông về bệnh viện Chợ Rẫy, do Phan Chính một nhân viên y tế ở bệnh xá trại Z30D, độc giả mến mộ ông, đã tìm cách theo xe đưa ông về, xe còn cách nhà chừng 100 thước, ông tắt thở lúc đó khoảng 5 giờ chiều ngày 26 tháng 6 năm 1980, ông thọ 70 tuổi.

Tác phẩm:

- Xã hội học nhập môn (Minh Đức, 1945)
- 
Kinh tế học và kinh tế chánh trị nhập môn (Tân Việt, 1945)
-
Tương lai kinh tế Việt-nam (Hàn Thuyên, 1945)
-
Phong kiến là gì? (Minh Đức,1946)
-
Vấn đề dân tộc (Minh Đức,1946)
-
Muốn tìm hiểu chánh trị (Minh Đức,1946)
-
Tương lai văn hóa Việt-nam (Minh Đức, 1946)
-
Bộ Một thuở ngàn năm: Phi Lạc sang Tàu (Sống Chung, 1949)
-
Gái nước Nam làm gì?: Thu Hương (Sống Chung, 1949).
-
Gái nước Nam làm gì?: Chị Tập (Sống Chung, 1949).
-
Nỗi lòng thằng Hiệp (Lê Lợi, 1949).
-
Lịch sử văn chương Việt-nam (quyển 1, Lê Lợi, 1950)
-
Phép nói và viết hỏi ngã (1950)
-
Em học tiếng mẹ (1950)
-
Em tập đọc (1951).
-
Tam quốc chí (quyển 1, 1951)
-  Những kỹ thuật căn bản của nghề làm báo (in tại Paris, 1951)
-  Quả trứng thần (1952)
-
Bộ Một thuở ngàn năm: Phi Lạc náo Hoa Kỳ (Vannay, Paris, 1955)
-
Kế thế (tiểu thuyết dã sử, Huệ Minh, 1964)
-
Bộ Thuốc trường sanh: Xây mộng (Huệ Minh, 1964)
-
Bộ Thuốc trường sanh: Phúc đức (Huệ Minh, 1964)
-
Bộ Thuốc trường sanh: Vẹn nguyền (Huệ Minh, 1964)
-
Hoa dinh cẩm trận (tiếp theo Thuốc trường sanh)
-  Trầm tư của một tên tội tử hình (Lá Bối, 1965)
-  Luận lâm I (Huệ Minh, 1965)
-  Nói tại Phú Xuân (những bài tham luận đọc tại Đại Học Huế, Huệ Minh, 1965)
-  Kể chuyện (Huệ Minh, 1965)
-  Nợ tinh thần (Huệ Minh, 1965).
-
Bộ Một thuở ngàn năm: Tiểu Phi Lạc náo Sàigòn (Nam Cường, 1966)
-
Bộ Một thuở ngàn năm: Diễm Hồng xuất giá (Nam Cường, 1966)
-
Bộ Hồn bướm mơ hoa: Mai Thoại Dung (tiểu thuyết, Nam Cường, 1966).
-
Bộ Hồn bướm mơ hoa: Tam nhơn đồng hành (tiểu thuyết, Nam Cường, 1966).
-
Bộ Hồn bướm mơ hoa: Ông thầy Quảng (tiểu thuyết, Nam Cường, 1966).
-
Bộ Hồn bướm mơ hoa: Bủa lưới người (tiểu thuyết, Nam Cường, 1966)
-  Thằng Thuộc con nhà nông (An Tiêm, 1966)
-
Người Mỹ ưu tư (tác giả xuất bản, Paris, 1968)
-  Un fétu de paille dans la tourmente (Paris, 1969, chưa in)
-  41 năm làm báo (Trí Đăng, Đông Nam Á tái bản tại Paris, 1984)

Trích văn:

Con thằn lằn chọn nghiệp

1.
Giữa một đường truông thăm thẳm, vắng vẻ và âm u, không một xóm nhà, ít người qua lại, có một cái am nhỏ. Am ấy mới cất, độ non ba năm thôi. Trong am, chỉ có một sư cụ già, thui thủi một mình, quanh năm chẳng được ai thăm viếng. Trước am, nơi giữa sân, chất sẵn một đống củi, vừa lớn, vừa cao ngất, củi sắp vuông vắn, thẳng thắn, dường như được săn sóc chẳng khác một vườn kiểng do một vị lão trưởng giả chăm nom.

Một hôm, trời đã tối rồi, nhà sư vừa lên đèn được một chặp, thì có hai người khách đến trước ngưỡng cửa, vái mà thưa rằng:

- Bạch sư cụ, nhờ ngọn đèn dắt dẫn, chúng tôi mới dõi đến đây. Mong nhờ sư cụ cho tá túc một đêm, sáng mai chúng tôi sẽ lên đường.

Nhà sư ung dung, chắp tay đáp:

- Mô Phật, cửa thiền bao giờ cũng mở rộng cho người lỡ bước.

Rồi dừng một phút, dường như để trấn tĩnh nỗi vui đương sôi nổi trong lòng, nhà sư tiếp:

- Ngót ba năm nay, tôi mở am nơi này, không được một ai đến viếng. Ngày nay là ngày ước nguyện, may được hai ngài quá bước, ghé nghỉ chân. Âu cũng là duyên trước….

Nói xong, nhà sư dọn cơm chay cho khách dùng, và câu chuyện không đề, vô tình dẫn khách đến câu hỏi:

- Bạch sư cụ, chẳng hay sư cụ thích tụng kinh nào?

Vui sướng, vì như gặp bạn tri âm, nhà sư đáp:

- Tôi quy y Phật pháp từ thuở bé, rừng thiền có thể nói rằng đã viếng khắp nơi. Cách ba năm nay, lòng huệ được mở ra…. Và từ ấy, tôi chỉ tụng kinh Di Lặc.

Một người khách hỏi:
- Sư cụ có thể cho tôi biết duyên cớ vì sao chăng?

- Mô Phật. Chỉ có lời nói mà độ được người, tôi sao dám tiếc lời? Vậy tôi xin vui lòng nói cho hai ngài rõ. Bởi tôi đọc qua các kinh sách, thấy rằng Phật Thích Ca khi đắc đạo, có dạy: Hai ngàn năm trăm năm về sau, Phật pháp sẽ đến chỗ chi ly, ấy là hồi mạt pháp. Di Lặc sẽ xuống trần mà cứu độ chúng sanh và chỉnh đạo lại. Nay cũng đã gần đến kỳ hạn. Chắc là Phật Di Lặc đã xuống trần mà độ kẻ thành tâm tu hành. Bởi lẽ ấy tôi có nguyện tụng đủ một nghìn lần kinh Di Lặc. Nếu lời nguyện được y, ấy là tôi sẽ đắc đạo.

Người khách thứ hai hỏi:

- Sư cụ đã tụng được bao nhiêu lần rồi?

- Đã được chín trăm chín mươi chín lần rồi. Bây giờ, chỉ còn lần thứ một nghìn; lần tụng của đêm nay. Chắc hai ngài trước có duyên lành, đêm nay đến mà chứng kiến tôi tụng lần thứ một nghìn ấy….

Đến đây, bữa cơm chay đã mãn. Khách mệt mỏi, xin ngả lưng. Nhà sư dọn dẹp trong am cho thanh khiết, rồi bước tới trước bàn Phật, khêu bấc đèn dầu, mở kinh ra mà khởi sự tụng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, như nện vào không gian. Thỉnh thoảng một tiếng chuông ngân lên, đánh dấu chuỗi tiếng mõ dài đăng đẳng….

2.

Trước khi nhắm mắt ngủ, hai người khách còn trao đổi vài câu:

- Tội nghiệp thay cho sư cụ già, quá mê tín, mất sáng suốt, mà không giác ngộ. Phật pháp lập ra đã hai nghìn năm trăm năm về trước, tránh sao cho chẳng có chỗ lỗi thời. Nhận thấy chỗ lỗi thời, các môn đệ ắt phải lo tài bồi, phát triển mối đạo. Thế là có tư tưởng này, học thuyết nọ; rồi sanh ra môn ra phái. Ấy là nguồn gốc của sự chi ly. Nay rừng thiền đã hơn tám mươi bốn ngàn cội khác nhau, ấy là lẽ dĩ nhiên vậy.

- Tôi cũng đồng ý với anh về chỗ đó, và nghĩ thêm rằng: Nếu bây giờ có một vị Di Lặc xuống trần, thì vị ấy có trọng trách cất nhắc Phật pháp cho kịp với mọi sự tiến hóa của mọi sự việc từ hơn hai nghìn năm nay. Và trách nhiệm của mỗi tín đồ của Phật là dọn mình cho sẵn, để đón rước cái Pháp mới sắp ra đời. Chớ mê mải trong việc gõ mõ tụng kinh, há chẳng phải là phụ lòng mong của Thích Ca chăng?

Lời nói của hai người khách giữa cái am vắng vẻ, không dè có kẻ trộm nghe. Kẻ nghe trộm này là một con thằn lằn, đến ở am khi am vừa mới dựng lên, và đã từng nghe 999 lần kinh, nên có linh giác, nghe được tiếng người, biết suy nghĩ và phán đoán. Câu phê bình của hai người khách đã giúp cho con thằn lằn giác ngộ. Nó vốn biết nguyện vọng của nhà sư: là hễ tụng xong lần thứ một nghìn, thì nhà sư sẽ lên giàn hỏa mà tự thiêu…. Rồi nó nghĩ: nhà sư lòng còn mê tín, chưa được giác, phỏng có thiêu thân, thì làm sao nhập được Niết Bàn? Hay là ta tìm thế ngăn người, đừng để cho người thiêu thân, đợi chừng nào người được giác rồi sẽ hay?

Rồi con thằn lằn quyết định: Phải ngăn ngừa, đừng để nhà sư tụng xong lần thứ một nghìn. Nó nghĩ được một kế: Ấy là bò lên bàn Phật, đến dĩa đèn dầu, rán sức mà uống cạn dĩa dầu. Bấc sẽ lụn, đèn tắt, nhà sư không thấy chữ mà tụng nữa.

Một sức mầu nhiệm đã giúp cho con thằn lằn đạt được ý nguyện: chỉ trong một hơi mà dĩa dầu đã cạn: bộ kinh chỉ tụng được quá nửa mà thôi. Đèn tắt, nhà sư ngạc nhiên, nhưng nghĩ: hai người khách là kẻ phàm tục, không được duyên lành chứng giám việc đắc đạo của mình. Âu là xếp kinh, nghỉ, chờ ngày mai khách lên đường, sẽ tụng lần thứ một nghìn ấy.

Nhưng, sau đó đêm nào cũng vậy, buổi đọc kinh chưa xong mà đèn lại tắt đi. Nhà sư có lúc tính tụng kinh lần này vào khoảng ban ngày, nhưng nhớ lại khi xưa đã có lời nguyện tụng kinh vào lúc khuya, tĩnh mịch, nên không dám đổi.

Và một đêm kia, dằn lòng không được, tuy tụng kinh mà mắt chốc chốc nhìn lên dĩa dầu để xem sự thể do đâu, nhà sư bắt gặp con thằn lằn kê mỏ mà uống dầu. Nổi giận xung lên, nhà sư dừng gõ mõ, và mắng rằng:

- Loài nghiệt súc! Té ra mi ngăn ngừa không cho ta được đắc đạo!

Rồi tay cầm dùi mõ, nhà sư nhắm ngay đầu con thằn lằn mà đập mạnh. Con thằn lằn bị đánh vỡ đầu, chết ngay. Hôm ấy, nhà sư tụng xong lần kinh, bước lên dàn hỏa, tự châm lửa mà thiêu mình.

3.

Và cũng đêm ấy, hai cái linh hồn được đưa đến trước tòa sen của Phật. Uy nghiêm, ngài gọi nhà sư mà dạy:

- Nhà ngươi theo cửa thiền từ thuở bé, mà chẳng hiểu bài học vỡ lòng của pháp ta là thế nào! Pháp ta đã dạy phải trừ hết dục vọng thì mới đắc đạo, mà ngươi dục vọng lại quá nhiều: bởi việc muốn đắc đạo, để được thành Phật kia cũng là một cái dục vọng. Có dục vọng ấy là Tham ; bởi tham nên giận mắng con thằn lằn, ấy là Sân; bởi sân nên tưởng rằng trừ được con thằn lằn thì tha hồ tụng kinh, rồi đắc đạo, ấy là Si. Có đủ Tham Sân Si tất phải phạm tội sát sanh, thì dầu ăn chay trường trọn đời, cũng chưa bù được.

Tội ngươi lớn lắm, phải rán tu luyện thật nhiều mới mong chuộc được. Vậy ta truyền cho Kim Cang, La Hán hốt cho hết đống tro do xác ngươi thiêu mà hóa ra, rồi đem tro ấy tung khắp bốn phương trời. Mỗi một hột tro đó sẽ biến sanh thành một người. Chừng nào mọi người ấy đắc đạo, đám chúng sanh ấy sẽ được quy nguyên, trở hiệp lại thành một, thì nhà ngươi sẽ đến đây mà thành chánh quả. Rồi Phật cho gọi hồn con thằn lằn mà dạy:

- Nhà sư chưa được giác mà làm tội, tội ấy đáng giá là một mà thôi. Còn nhà ngươi, được giác một phần rồi, mà làm tội, thì tội đáng kể là mười

Con thằn lằn lạy mà thưa rằng:

- Bạch Phật tổ, lòng của đệ tử vốn là muốn độ nhà sư, dầu nát thân cũng không tiếc. Chẳng hay đệ tử có tội chi?

Phật phán:

- Muốn độ người, kể thiếu chi cách, sao ngươi ngăn đón việc tụng kinh của người? Đã đành rằng việc tụng làm của nhà sư là một việc mê tín, nhưng dầu là mê tín, song vẫn là một tín ngưỡng. Cõi Phật vốn là cõi tự tại. Nếu phạm đến tự do tín ngưỡng, gọi là để dắt người vào, thì làm sao cho được. Bởi ngươi không dùng phương pháp tự do, người là kẻ mất tự do, thì cả hai làm sao được vào cõi tự tại?

Một lần nữa, con thằn lằn được giác, quì lạy mà xin tội:

- Xin Phật tổ mở lòng từ bi, cho đệ tử hóa sanh một kiếp nữa, để dùng phương pháp tự do mà độ vô số chúng sanh do những hột tro, mà các vị Kim Cang, La Hán vừa tung ra đó.

Phật đáp:

- Ta cho ngươi được toại nguyện.

Hồn con thằn lằn vừa muốn lạy Phật mà đi đầu thai, thì sực nhớ lại, nên bạch rằng:

- Xin Phật tổ dạy đệ tử phải hóa sanh làm kiếp chi?

Phật đáp:

- Nhà ngươi đã gần bến giác, phải tự mình chọn hình thể mà hóa sanh. Tự do chọn lựa mới có thể luyện mình để bước vào cõi tự tại.

4.

Hồn con thằn lằn từ ấy trôi theo mây gió, không biết trụ vào đâu, để có thể vừa dùng phương pháp tự do mà độ người, vừa có thể độ được đông người, số người đông như số hột tro do một cái xác thiêu ra. Thật chưa hề có lúc nào có một linh hồn bị trừng phạt phải đau khổ đến thế…..
Một hôm trong hồi xiêu bạt, hồn con thằn lằn thấy bóng của một trong hai người khách đã đến am thuở nọ, mà câu chuyện nghe lóm đã làm duyên cho mình mấy năm đau khổ.

Thằn lằn vội vã bay theo vái chào và kể nỗi niềm đau đớn:

- Ngài đã giúp cho tôi giác ngộ được một ít, có hay đâu tôi phải mang cái nghiệp vô định này. Đã trót làm ơn, xin độ cho tôi đến bờ bến.

Hai ông khách đáp:

- Chúng tôi đâu dám lên mặt thầy đời mà dạy người, huống chi lại dám đèo bồng mang lại một giải pháp cho một vấn đề nan giải. Nhưng đã lỡ gieo trong trí ngươi một ý nghĩ làm cho ngươi phải khổ như bây giờ, thì phải góp ý kiến để cho ngươi suy xét mà gỡ rối. Ấy gọi là chuộc lỗi.

Hồn con thằn lằn gật đầu, cảm ơn trước. Một người khách nói:

- Chúng tôi đây là bọn chơi văn giỡn chữ, quanh năm chỉ lấy việc đem ý hay lời đẹp mà làm cho vui lòng kẻ đọc mình, rồi lấy sự vui của người làm sự sung sướng của mình, cho đó là sự “đắc đạo” của mình. Nếu phải mong muốn điều gì, thì cố gắng trình bày cho bóng bẩy, văn hoa: được thì tốt, bằng không thì thôi, chớ chẳng hề khi nào phạm đến tự do của người….

Nghe đến đó, thì một điểm linh quang bắt đầu hiện trong trí con thằn lằn. Người khách thứ hai nói tiếp:

- Xưa nay, trong bọn chúng tôi cũng được một vài tay lỗi lạc, kể một chuyện lý thú, hát một bài thơ hay, chuyện ấy thơ này được truyền ở hàng triệu miệng. Vậy, nếu ngươi có lòng muốn độ hằng hà sa số chúng sanh, thì cố gắng trau dồi văn tài cho tương xứng, văn ngươi tung ra là có thể cảm hoá triệu triệu người….Rồi, cũng phải luyện văn tâm, để cho văn ngươi có thể nhen nhúm được trong lòng mỗi người một điểm lửa thiêng. Lửa bắt cháy, văn của ngươi như dầu rót thêm vào, làm cho ngọn lửa sáng lên….

Hồn con thằn lằn gật đầu ba cái để tạ ơn và nói rằng:

- Con đường ấy khó đi cho đến hết được, song chắc chắn là đi cùng đường, ắt có thể đến trước tòa sen mà chầu Phật tổ. Vậy tôi xin cố gắng.

Hồ Hữu Tường (1953)


Thời còn trẻ Hồ Hữu Tường tham gia hoạt động chống thực dân Pháp, theo triết lý Cộng Sản, đến tuổi “Tam thập nhi lập” ông tuyên bố từ bỏ Maxist, trở về với văn hóa Việt, không theo Tây, Tàu, Nga, Mỹ, ông về với con đường của dân tộc.

Là người miền Nam, nhưng văn ông không dùng ngôn ngữ địa phương miền Nam như những nhà văn miền Nam khác, có lẽ ông đã theo ngôn từ của thằng Mõ ở làng Cổ Nhuế, năm 1945 trên căn gác xép ở Hà Nội, để viết nên truyện đầu tay Phi Lạc Sang Tàu.

Truyện Con Thằn Lằn Chọn Nghiệp là một truyện ngắn được ông tâm đắc, nói lên tâm tư ông suốt đời tù tội, luôn luôn tranh đấu, ngăn chận những kẻ cuồng tín, si mê, chỉ vì tham vọng hão huyền. Oái oăm thay! Ông bị kết án tử hình mà vẫn sống, trong khi ở tù được tha thì lại chết.

Tài liệu tham khảo:

- Huỳnh Ái Tông Văn Học Miền Nam Hiên Phật Học, Việt Nam, 2009.
- Phan Chính Hồ Hữu Tường - Những ngày cuối đời Blog: Talawas.com