Pages

Tuesday, January 31, 2023

Bùi Thế Mỹ

Lan Đình - Bùi Thế Mỹ (1904-1943)

Bùi Thế Mỹ thuộc dòng dõi tộc Bùi, một dòng tộc nổi tiếng của huyện Duy Xuyên. Bùi Thế Mỹ sinh năm 1904, con trai trưởng của cụ Bùi Thiện quê gốc làng Vĩnh Trinh nhưng tổ tiên di cư lên sống ở làng Phú Nhuận, xã Đông An (nay là xã Duy Tân, Duy Xuyên). Bùi Thế Mỹ lại được sinh ra và lớn ở quê ngoại, làng Bảo An, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Trung, Điện Bàn). Mẹ ông là bà Phan Thị Duyên, con gái tộc Phan làng Bảo An, một dòng tộc khoa bảng hàng đầu của Quảng Nam. Bà là em gái của nhà cách mạng Phan Thành Tài (1878 - 1916).

Được hưởng truyền thống của hai gia tộc lừng lẫy, từ nhỏ Bùi Thế Mỹ đã tỏ ra rất thông minh, đĩnh ngộ. Sau khi học xong chương trình trung học với tấm bằng Thành chung, năm 1923, Bùi Thế Mỹ vào Sài Gòn dạy học và làm báo, viết văn.

Ông từng thay Trần Huy Liệu chủ trương tờ Đông Pháp thời báo, rồi sau đó làm chủ bút các tờ Trung lập, Tân thế kỷ, Thần chung và chủ nhiệm tờ Dân báo, tờ báo ông theo đuổi đến cuối đời. Ông ký các bút danh Hy Tô, Thông Reo và Lan Đình.

Trong thời gian làm chủ bút tờ Đông Pháp thời báo và tờ Trung lập, Bùi Thế Mỹ đã cùng Phan Khôi xây dựng “Phụ trang văn chương”. Mục này bước đầu giới thiệu khái quát văn học sử Việt Nam, các lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, vấn đề đạo văn, vấn đề “nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”… Mục Phụ trang văn chương được nhiệt liệt hoan nghênh tạo nên một dấu ấn về mặt văn học của báo chí!

Bùi Thế Mỹ là nhà báo yêu nước. Những tờ báo mà ông cộng tác hoặc đứng ra thành lập là những tờ báo tiến bộ, có uy tín ở Sài Gòn thời bấy giờ luôn thể hiện quan điểm yêu nước, đứng về phía nhân dân.

Mặc dầu là nhà báo nổi tiếng, cuối đời Bùi Thế Mỹ vẫn cảm thấy chưa hài lòng vì ông cho rằng mình là nhà báo “tay ngang” nên chưa có được những tác phẩm báo chí để đời!

Người ta nói rằng, sự nghiệp văn chương báo chí của ông đạt được như vậy, có phần đóng góp công sức của người bạn đời của ông là nữ sĩ Phương Lan, tục danh là Nguyễn Thị Lánh, tục gọi cô giáo Lánh, người cùng quê với danh nhân Tôn Đức Thắng (Cù lao ông Hổ, Long Xuyên, An Giang).

Bùi Thế Mỹ mất ngày 27.3.1943 tại Sài Gòn, hưởng dương 39 tuổi.

Cụ Huỳnh Thúc Kháng đã có câu đối viếng ông:

Quốc văn báo giới nhị thập tải vu kim, đương đắc bằng trù thôi lão kiện;

Nguyệt đán châu bình Ngũ Hành Sơn du tích, khẳng giao bút thiệp khuất nhân tài.

Phú Bình dịch ý:

(Trong) Đội ngũ những người hoạt động báo giới quốc văn hai mươi năm nay, (ai cũng đồng lòng) ca ngợi anh (Bùi Thế Mỹ) là tay già dặn;

(Đọc) những bài bình luận - phê bình sắc sảo của người xứ Quảng này để lại, (ai cũng) thừa nhận làng báo từ nay đã vắng một nhân tài.

Tác phẩm:

- Trà hoa vũ (dịch từ La Dame aux camélias của Alexandre Dumas fils (1824-1895).
- Vai tuồng của nhà gõ đầu trẻ. (Khảo luận)

Trong Những văn nhân chính khách một thời, Thiếu Sơn đã nghiền ngẫm về bài học của mình rút ra từ cuộc đời của gần năm mươi danh nhân như Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn An Ninh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh..., trong đó có Bài học Bùi Thế Mỹ: “Tôi không nhớ anh chết năm nào. Nếu tôi không lầm thì anh tuổi Thìn và chết hồi anh mới 39 tuổi. Anh đau cả tháng rồi mới chết. Tôi thường ra thăm anh ở tư gia. Mới đầu anh còn viết được. Sau anh không viết được nữa. Tất cả mọi việc đều một tay vợ anh quán xuyến. Người anh đã nhỏ con, ốm yếu mà càng ngày càng ốm, càng xanh. Mỗi lần tôi ra thăm anh về là mỗi lần ngậm ngùi chán nản”.

Ông Thái Văn Kiểm trong Dòng thời gian đã viết: “Bùi Thế Mỹ là một ký giả cự phách của làng báo Nam Việt trong thời kỳ tiền chiến, một kiện tướng thuộc thế hệ Nguyễn Phan Long, Diệp Văn Kỳ, Đào Trinh Nhứt, Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Bá... những chiến sĩ có lý tưởng quốc gia, muốn dùng ngòi bút để phổ biến tư tưởng tự do, dân chủ, trình bày lập trường của dân tộc đang bị đô hộ, muốn đập tan xiềng xích, vươn mình lên sống mạnh theo truyền thống của một dân tộc từng có lịch sử vẻ vang”.

Vinh danh Bùi Thế Mỹ, hiện nay trên cả nước, nhiều nơi có đường phố mang tên ông.

Bùi Thế Mỹ là nhà báo tài danh và yêu nước, thể hiện ở những tờ báo mà ông cộng tác hoặc điều hành. Đó là những tờ báo lớn, có uy tín, có số bạn đọc đông đảo và có nghiệp vụ cao và cũng là những tờ báo “đối lập”, luôn đứng trên lập trường quốc gia dân tộc, đứng về phía đa số quần chúng, bảo vệ cho quyền lợi của người nghèo, người lao động. Đó là các báo: Trung lập, Thần chung, Tân thế kỷ, Đông Pháp thời báo và Dân báo. Đọc những nhận xét về các tờ báo mà ông điều hành hay cộng tác là cách gián tiếp nghe một số đánh giá về ông:

Theo ông Huỳnh Văn Tòng, Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945. “Trung lập báo là tờ báo phát hành 15.000 tờ một ngày, đứng đầu các nhật báo ở Sài Gòn lúc bấy giờ. Tờ báo có cách trình bày đẹp trội hơn các đồng nghiệp khác”.

Tài liệu tham khảo:

- Bùi Thế Mỹ Web: https://baoquangnam.vn/nhan-vat/bui-the-my-nha-bao-tien-phong-nguoi-quang-113542.html

866432012023

 

Sunday, January 29, 2023

Những Nhà Văn, Nhà Báo tại Việt Nam từ Thế kỷ XIX - XX

 

Họ Tên từ A - F

Họ Tên từ H - L

Họ Tên từ L - N

Họ Tên từ N - P

Họ Tên từ  P - T
Họ Tên từ T - V







Manh Manh nữ sĩ

 
Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm (1914-2005)

Manh Manh hay Nguyễn Thị Manh Manh (chữ Hán阮氏萌萌) là một nữ sĩ Việt Nam thời tiền chiến. Theo tài liệu thì bà là người phụ nữ đầu tiên đã đăng thơ, viết bài, đăng đàn diễn thuyết hô hào cho phong trào thơ mới tại Việt Nam vào thập niên 1930.

Nữ sĩ tên thật là Nguyễn Thị Kiêm (阮氏兼), sinh ngày 3 tháng 1 năm 1914 tại Sài Gòn, nhưng quê quán của bà ở tỉnh Gò Công (nay thuộc Tiền Giang). Bà là con gái thứ của Tri huyện Nguyễn Đình Trị, tục danh Huyện Trị, cũng là một cây bút trong làng báo lúc bấy giờ. Ông Trị từng là chủ huyện Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, nghị viên hội đồng thành phố chung "sổ" (liên danh tranh cử) với giáo sư Nguyễn Văn Bá, chủ bút báo Công Luận thời Diệp Văn Kỳ, Thần Chung. Ông Trị cũng là "bầu" của đội bóng đá Ngôi Sao Xanh và sau đó đội Ngôi Sao Gia Định lừng lẫy một thời.

Thuở nhỏ học ở Gò Công, sau khi học hết bậc tiểu học, bà được theo học ở trường Collèges des jeunes filles indigènes: Trung học Thiếu nữ Bản xứ Sau đổi tên là Collèges des Jeunes filles Annamites de Saigon: Nữ Trung học An Nam Sàigòn. Thời đó nữ sinh trường nầy phải mặc đồng phục áo dài màu tím, nên người ta gọi là Trường Áo Tím, đến năm 1949 đổi tên thành Collège Gia Long, rồi Lycée Gia Long, sau 1975 đổi tên thành Trung học Nguyễn Thị Minh Khai.

Khoảng năm 1931-1932, sau khi tốt nghiệp bằng Thành chung ban Sư phạm (Cour de pedagorie hay Section Normal), bà được giữ lại trường để dạy học, nên gia nhập làng báo Sài Gòn. Bà thường xuyên cộng tác với tờ Phụ nữ tân văn ở Sàigòn do ông Nguyễn Đức Nhuận (1900-1968) làm Chủ nhiệm vợ ông bà Cao Thị Khanh (1900-1962) làm Chủ bút, và lần lượt viết cho các tờ báo khác như: Công luận, Nữ lưu...

Ban đầu bà chỉ là phóng viên thường, viết các mục nhỏ với bút hiệu YM, Nguyễn Văn MYM. Sau khi Phan Khôi đăng bài thơ Tình già (Phụ Nữ Tân Văn số 122 ngày 10-3-1932) thì tên tuổi bà sáng lên qua bút danh Nguyễn Thị Manh Manh hoặc tên thật khi ủng hộ Thơ mới và cổ vũ cho nữ quyền. Sau đó, nữ sĩ còn đăng đàn diễn thuyết cổ vũ cho phong trào này. GS.Phan Cự Đệ kể:


..."Cuộc tấn công của "thơ mới" vào "thơ cũ" ngày càng quyết liệt. Tối ngày 26 tháng 7 năm 1933, Nguyễn Thị Kiêm (tức nữ sĩ Manh Manh, khi ấy mới 19 tuổi) diễn thuyết tại Hội Khuyến học Sài Gòn về "Lối thơ mới". Hội này thành lập đã 25 năm mới có một buổi phụ nữ lên diễn đàn, mà cũng là buổi đông thính giả nhất. Hơn hai năm sau (tháng 11 năm 1935), Nguyễn Thị Kiêm lại diễn thuyết một lần nữa tại Hội Khuyến học Sài Gòn. Lần này, bà và ông Nguyễn Văn Hạnh cùng diễn thuyết tranh luận về "thơ mới"...

 

Không chỉ bảo vệ thơ mới, nữ sĩ Manh Manh còn là một chiến sĩ đòi giải phóng phụ nữ, bình quyền với nam giới. Đáng tiếc, cuối năm 1934, tờ Phụ Nữ Tân Văn đình bản, bà Kiêm mất chỗ dựa, phong trào cổ vũ Thơ mới và đấu tranh cho nữ quyền của bà bị xẹp xuống. Và bà trở thành một nhà báo bình thường cộng tác với một số báo đương thời. Sở trường của bà là phỏng vấn. Tuy vậy, bà cũng viết nhiều bài phê bình, ghi chép... TS. Phan Văn Hoàng viết: 


"Chị đả kích các tập tục hủ bại như trọng nam khinh nữ, tảo hôn, đa thê..., bênh vực những quyền lợi chính đáng của nữ giới. Trong năm 1934, chị đã đi tới 4 thành phố (Huế, Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng) để diễn thuyết các đề tài: "Dư luận nam giới đối với phụ nữ tiên tiến", "Một ngày của một người đàn bà tiên tiến", "Có nên tự do kết hôn chăng?", "Nên bỏ chế độ đa thê không"? Ý tưởng của chị trong các buổi diễn thuyết đó đã tạo ra trong xã hội hai luồng dư luận trái chiều (tán thành và phản đối) phản ảnh qua báo chí trong Nam ngoài Bắc..."
 

Năm 1936, nữ sĩ Manh Manh còn tích cực tham gia phong trào Đông Dương đại hội. Tuy mới 22 tuổi, nhưng nữ sĩ là một trong hai phụ nữ được cử vào Ủy ban lâm thời tổ chức Đông Dương đại hội tại Sài Gòn, bên cạnh các nhân vật nổi tiếng thời đó như Nguyễn An NinhTrịnh Đình ThảoNguyễn Văn TạoNguyễn Văn NguyễnTạ Thu ThâuPhan Văn Hùm... 

Ngày mồng 1 tháng 10 năm Bính Tý (tức 11 tháng 11 năm 1937), nữ sĩ thành hôn với ông Trương Văn Em, người Hà Tiên, một nhà giáo dạy Việt văn ở trường Trung học Huỳnh Khương Ninh, Sài Gòn, đồng thời cũng là một nhà báo với bút hiệu Lư Khê. Nhưng họ sống với nhau không lâu. Sau khi đứa con đầu lòng mất và bà không thể có con được nữa, hai người thỏa thuận chia tay.  

Nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt (em út Lư Khê, gọi nữ sĩ Manh Manh là chị dâu) kể:

..."Chị (Manh Manh) cư xử với nhà chồng rất tốt, được bên chồng yêu quý. Chị là thứ nữ của ông Huyện Trị, còn anh Lư Khê là con nhà nghèo ở Rạch Vược (Hà Tiên)...Song, chị không hợm mình, lúc nào chị cũng quý trọng người nghèo rất thật tình, không màu mè, không phân biệt giai cấp. Chị thường viết báo hoặc diễn thuyết bênh vực dân nghèo...Khi sinh bé Mi Nu, chị Kiêm bị sự cố không may, mất khả năng sinh sản. Năm sau, bé Mi Nu (bị liệt từ lúc mới sinh) qua đời...chị Kiêm vô cùng buồn, chị thỏa thuận cho anh có người khác...Đầu năm 1945, trước ngày Nhật đảo chính Pháp, anh Lư Khê có người vợ thứ hai... 

Theo TS. Phan Văn Hoàng kể chi tiết:  

"Đầu năm 1950, chị sang Pháp định cư. Bặt vô âm tín. Nhưng ở trong nước, tên tuổi và sự nghiệp của chị không bị lãng quên. Tháng 1 năm 1999, hai nhà nghiên cứu Thiện Mộc Lan và Thanh Việt Thanh cho xuất bản cuốn "Nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh" (Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1999). Nhờ đọc cuốn sách ấy trong một chuyến về thăm quê hương, bà Bourbon Thi Hương (một Việt kiều ở Paris, bạn của chị) giúp nối lại liên lạc với chị. Nhận được cuốn sách có lời đề tặng của hai tác giả, chị xúc động nói: "Không ngờ nửa thế kỷ rồi mà những người bạn văn ở trong nước còn nhớ và viết về tôi". Lúc đó, chị đã 85 tuổi, đang sống trong nhà dưỡng lão ở Paris. Hơn 6 năm sau, chị trút hơi thở cuối cùng sau hơn nửa thế kỷ sống xa quê hương"  

Nữ sĩ Manh Manh qua đời trong một nhà dưỡng lão ở Paris vào ngày 26 tháng 1 năm 2005, thọ 91 tuổi. 

Tác phm: 

Nữ sĩ Manh Manh làm thơ rất ít, và chưa in tập thơ nào. 


Viếng phòng vắng, đăng báo Phụ nữ tân văn số Xuân, ra ngày 19 tháng 1 năm 1933.

Canh Tàn, trích trong bài diễn thuyết về Thơ mới tại Hội Khuyến học Sài Gòn ngày 26 tháng 7 năm 1933.

Hai cô thiếu nữ, đăng báo Phụ nữ tân văn1933.

Bức thư gửi cho tất cả ai ưa hay là ghét lối thơ mới, đăng báo Phụ nữ tân văn số 228, ra ngày 14 tháng 12 năm 1933.

Vấn đề Nữ lưu và Văn học. Đây là bài diễn thuyết, sau đăng báo Phụ nữ tân văn số 131, ra ngày 26 tháng 5 năm 1932. 

Giới thiệu một bài thơ mới của nữ sĩ

Trong cuộc diễn thuyết vào đêm 26 tháng 7 năm 1933 tại Hội Khuyến học Sài Gòn, nữ sĩ Manh Manh có "trưng ra làm điển hình" một bài thơ mới của mình như sau:

Canh tàn

Em ơi, nghe lóng nghe
Gió đêm thoáng qua cửa...
Lụn tàn một góc lửa,
Lạnh ngắt chốn buồng the.
Gió đêm thoáng qua cửa...
Não dạ dế tỉ te
Lạnh ngắt chốn buồng the...
Em ơi, khêu chút lửa.
Não dạ dế tỉ te
Gió ru! "...thiết chi nữa..."
Em ơi, khêu chút lửa
Rồi lại ngồi đây nghe.
Gió ru: "...thiết chi nữa..."
Sụt sùi mấy cành tre
Em ngồi đây có nghe
Tơ lòng chị đứt nữa.


Hình ảnh Manh Manh - Nguyễn Thị Kiêm diễn thuyết tại Hội Khuyến Học Sàigòn ngày 26-7-1933

Sự cổ vũ nồng nhiệt của nữ sĩ Manh Manh về "thơ mới", đã được Hoài Thanh-Hoài Chân kể lại trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1941), như sau:

..."Từ hai tháng trước, hôm 26 juillet (tháng 7) 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn Hội Khuyến học Sài Gòn thành lập đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng là lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế"...

Ghi nhận công lao của nữ sĩ, trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển thượng) có đoạn:

..."Trong hồi dậy men của nền thơ mới, nữ sĩ Manh Manh là người đàn bà đầu tiên đáp ứng tiếng gọi đàn của nhà tiên phong Phan Khôi...Chúng ta ngày nay nhìn lại việc qua, giữa cái cũ kỹ từ nghìn đời sừng sững như cổ thành kiên cố; thế mà, bỗng chốc, một Phan Khôi táo bạo nổ phát súng cách mạng thi ca; người nữ chiến sĩ tiền phong anh dũng và hăng say hoạt động để bảo vệ và củng cố nền tảng thơ mới bén rễ và sống mạnh, ta phải kể Nguyễn Thị Manh Manh, một tay đã đóng góp công lao không nhỏ cho nền văn học đất nước .

Tài liệu tham khảo:

- Manh Manh Web: vi.wikipedia

86642401202








Tuesday, January 24, 2023

Lư Khê

 

Lư Khê - Trương Văn Em (1926-1950)

Lư Khê tên thật là Trương Văn Em còn được gọi là Đệ, tên chữ là Tuấn Cảnh, bút hiệu là Bá ÂmLư Khê; là nhà thơ, nhà báo Việt Nam thời tiền chiến.

Ông sinh ngày 20 tháng 1 năm 1916 (nhưng trong giấy khai sinh ghi là ngày 5 tháng 2 năm 1916, vì làm giấy trễ) tại làng Rạch Vược, xã Thuận Yên, tỉnh Hà Tiên (nay thuộc thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang) trong một gia đình lao động nghèo. Thân sinh là ông Trương Văn Huynh (ngư dân) và bà Trần Thị Chín.

Thuở nhỏ, Trương Văn Em học tiểu học ở Hà Tiên, học trung học ở Cần Thơ (Collège de Cần Thơ), đậu bằng Thành chung năm 1928 rồi lên Sài Gòn lập nghiệp.

Ở Sài Gòn, ông dạy học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đồng Nai...và cộng tác với các báo: Thế giới tân văn, Nữ lưu tuần báo, Văn nghệ, Tự do, Nay, Đông Tây, Gió mùa...

Năm 1935, ông cùng với Đông Hồ, Mộng Tuyết, Trúc Hà, cả bốn người đều được mệnh danh là "Hà Tiên tứ tuyệt", xuất bản tờ báo Sống ở Hà Tiên, nhưng phát hành ở Sài Gòn. Đây là một tờ báo thuộc loại sớm nhất ở miền Tây, và cũng là tờ báo tiến bộ nhất so với các báo khác thời đó.Trước đó có tờ An Hà Nhựt Báo phát hành tại Cần Thơ.

Trong môi trường văn học, ông yêu nữ sĩ Nguyễn Thị Manh Manh, và rồi họ thành hôn vào ngày 11 tháng 11 năm 1937.

Sau năm 1945, Lư Khê làm Chủ bút báo Tân Việt. Từ năm 1947-1950, ông làm Giám đốc kiêm Chủ nhiệm nhật báo Sự thật Ánh sáng. Lúc này, ông là người theo "chủ trương thống nhất và độc lập dân tộc, đồng thời đấu tranh chống thực dân Pháp".

Đầu năm 1950, Lư Khê được hảng hàng không Air France của Pháp mời dự lễ khánh thành đường bay Paris – Sài Gòn tại thủ đô nước Pháp. Nhân dịp này, ông đặt in một bức ảnh màu bằng kỷ thuật offset, trong khi các báo khác tại Sài Gòn chỉ in typo như xưa. Cơ sở in là Imprimeries George Lang ở Paris, thuộc loại tiên tiến nhất của Pháp. Bức hình màu, cở thật lớn, vẽ cô thiếu nữ tuyệt đẹp.

Ấy là một cô gái thôn quê miền Nam tay ôm chiếc nón lá, vừa xinh lại vừa ngây thơ. Tác phẩm được ông Lư Khê thương lượng mua của tác giả họa sĩ Lê Trung, một họa sĩ thời thượng trong làng báo Sài Gòn lúc ấy.

Nhờ có sáng kiến độc đáo của Lư Khê, bức ảnh màu được in riêng, dán hờ trên bìa báo, một cách gợi ý độc giả có thể tháo rời ảnh để lộng khung, treo làm cảnh trong nhà, hoặc dùng như tác phẩm nghệ thuật hội họa hiếm có. Nhờ vậy, báo Ánh Sáng Xuân năm đó bán thật chạy.

 


Ngày 3 tháng 7 năm 1950, ông bị những kẻ lạ mặt (dư luận cho là nhóm báo phân ly của chính phủ Trần Văn Hữu) sát hại tại nhà riêng, cùng một ngày với nhà báo Nam Quốc Cang. Khi ấy, Lư Khê mới 34 tuổi.

 

Tác phẩm:

-  Douleur secrète (tập truyện ngắn, Nhà xuất bản Luk, 1939),
- Phút thoát trần (tập truyện ngắn và tùy bút, Nhà xuất bản Luk 1942)
- Nhạc đêm (tập thơ)
- La littérature Chinoise et ses ressources artistiques (tiểu luận)
- Khảo về văn chương nước Nhật
- L’ amour dans la poésie annamite (tiểu luận)
- Jour perdu (tiểu thuyết)
Au fil de l’heure (thơ)

Và rất nhiều bài phóng sự, lý sự, khảo luận thơ đăng trong các báo đã dẫn ở trên.

Trích thơ:

 

Thử em

(Tặng bạn yêu)

Một bức thư tình anh gửi em,
Hững hờ em chẳng giở ra xem.

Dẫu rằng em tuổi đang non trẻ,
Máu ái tình sôi nổi quả tim.

                  *

Nào phải đâu em nỡ phụ anh,
Vì “yêu” em mới hóa vồ tình.
Giữ lòng kín đáo em không thiết,
Đến cảnh chim cười, bướm lượn quanh.

                   *

Anh biết: yêu anh em giả ngơ,
Vì em đang lúc tuổi đào tơ.
Phải gìn, phải giữ e mang tiếng,
Cùng với anh là gái lẳng lơ,

                 *

Em nhé, nghe anh nhắc nhủ đây,
Cười cô thiếu nữ quá thơ ngây.
Mãi lo dè dặt mà quên nghĩ,
Rằng bức thư tình ta thử ai ?

                 *

Em có yêu anh thì chớ trách,
Vì yêu ta phải rõ lòng nhau.
Nhưng em nào biết trong thơ ấy,
Giấy trắng tình anh muốn giữ cao.

                  *

Có thế thì anh mới biết thêm,
“Tình yêu” em còn vẫn êm đềm.
Dẫu cơn gió vụt, bao nghiêng ngữa,
Anh chỉ để long, anh luyến em.

Trích từ Thế Giới Tân Văn số 5 ngày 7-8-1936


Trích văn:

Nghề làm nước mắm ở Phú Quốc

…….
Vừa bước chân lên bờ, một cái mùi đặc biệt, rất đặc biệt từng bừng mơn trớn chào đón tôi. Cái mùi như giục tôi không thể nào trì huỡn công việc điều tra lại nhiều ngày trên đảo Phú Quốc được (…).

Sáng hôm sau …

Ngoài trời mưa rơi lấm tấm.

Vừa mới bước chân vô tới sân, tôi đã thấy bóng ông chủ nhà thấp thoáng ở gian giữa. Trong lòng tôi đã cảm thấy vui vui, vì cái công mình chẳng đến đổi hoài như hôm qua nữa! Thấy tôi ngài mĩm cười nói:

- Mời ông vô ngồi đây! Chiều hôm qua trong người tôi thấy bản than khó chịu, nên không giữ được lời hẹn với ông.

Rồi mĩm cười ông tiếp:

- Ông muốn hỏi điều nào trước ?


Cách làm nước mắm


Nguyên liệu làm nước mắm là cá.

- Nhờ ông cho biết người ta đánh cá vào mùa nào ?

- Ở đây từ tháng 7 sắp lên tới tháng 11 là mùa nhiều cá, và cá mùa ấy thời tốt nhất. Người ta gọi đó là “mùa cá”. Từ tháng chạp tới tháng ba, tháng tư cá ít lắm, mà dầu có cũng rất xấu vì trái mùa rồi.

- Thường người ta đánh cá ở lối nào ?

- Họ cũng đánh theo nội “mặt ngoài” hòn Phú Quốc nầy thôi chớ không có đi đâu xa, vì thế mỗi năm tới mùa thì tự nhiên cá áp vào. Mấy năm nay cá “thưa” quá, chớ lần trước mỗi lần đầy ghe, làm nước mắm không hết, còn phải bán cho mấy chỗ khác mua lại.

- Những ghe mua cá, thường ở đâu lại ?

- Ở tận ngoài Trung kỳ vào.

- Những người đánh cá, họ phải có cái đặc biệt gì mới được ?

- Cái đặc biệt của họ là sự mạo hiểm. Không phải mạo hiểm như anh Nhật Bản, nhưng đối với người mình cng tạm gọi là mạo hiểm. Ở giữ vời gặp chỗ nào có cá, bao lưới rồi nhảy xuống nước không ngần ngại gì cả.

Ngoài ra, họ còn có tài riêng là cái tài “coi cá”. Ở xa nếu có bầy cá đi, là họ sẽ nhận biết liền.

- Đó cũng là nhờ cái nghề luyện cho họ được như vậy. Và, thưa ông, công việc làm của họ cực nhọc như thế mà họ có yêu nghề của họ không ?

- Nếu ở đây mà không yêu cũng phải yêu, vì một người tầm thường nếu ngoài nghề lưới ra, thì có nghề gì khác để nuôi họ sống một cách đầy đủ và hạnh phúc hơn.

- Ngoài nầy ngưòi ta làm nước mắm thường dùng cá chi ?

- Thường là cá “cơm”. Nhưng riêng là cá “cơm” chớ trong ấy chia ra làm bốn năm thứ khác nhau, như cá “cơm thang”, “sọc tiêu”, “sọc phấn”, “sọc trắng” và “ba loài”.

- Nếu phân chia ra như vậy, thì trong ấy, có thứ hơn, thứ kém nhau về nước mắm chớ ?

- Phải! Có lắm! Cá “cơm thang” và cá “sọc tiêu” thì làm ra nước mắm đa màu mà mùi lại dịu, ngon lắm. Người Tây phần nhiều ưa dùng thứ nầy. Cá “sọc phấn” muối lâu mới ra được mắm lại ít thơm. Đến cá “sọc trắng” thì hèn tệ! Ấy là loại cá khó làm nước mắm nhứt. Mà nếu ai có làm ra được thì cũng không ngon và hay “trở” (hư) lắm.

- Cá đem về muốn muối phải làm cách nào ?

- Khi ghe cá về, trước hết bắt ba tấm ván trên miệng thùng, rồi đem ba rổ “kiệu”(1)  cá lên đổ ván ấỵ Cứ ba rổ cá thì đổ 30 kg muối nghĩa là ba phần cá một phần muối, cá và muối trộn cho đều. Trộn rồi đùa xuống thùng. Cứ làm như thế mãi cho đến đầy thùng.

Trong ba hôm muối tan, nước muối, nước cá chảy ra. Phải tháo nước ấy cho ráo rồi chứa tạm qua thùng khác. Rồi thì ém cá lại cho cứng, lấy lá đậy lên, cây gài trên cho chắc, để giữ cho cá khỏi nổi bình lên.

Nước đã tháo ra đó phải đổ trả lại. Nếu đổ phân nửa thì nước mắm mau ngon, còn đổ hết cả thì lâu hơn. Sau khi đổ lại chừng mười bữa hay nửa tháng thì nhừng vảy hay nhng chất vô ích tự nhiên đóng lại trên lá mình đã đậy. Phải hốt lên đem rửa cho sạch lá đậy rồi đem gài lại. Nước vẫn tháo ra thùng khác gọi là “thùng trổ” như trước rồi trộn lại, là cứ giặt rửa cho hết đồ dơ. Làm như thế mãi chừng ba bốn lần, nước đã hơi trong, chất dơ đã sạch, đồ “gài” cứ để y như vậy, chừng nào mắm có mùi thơm, coi tốt là được.

- Từ ngày muối cá đến ra nước mắm chừng bao lâu ?

- Đó là tùy người siêng hay biếng, kỷ hay không kỷ mà thôi. Có người làm chừng hai tháng rưỡi đã ngon, có người ba tháng mà cng có người đến bốn, năm tháng là tại hồi tháo ra họ để cho chảy ra tùy mau hay lâu.

Đây là nói cá “cơm thang” hay “sọc tiêu” , chớ nếu cá “sọc phấn” lại còn phải lâu bằng hai nữa. Tuy là lâu chớ không thể nào ngon bằng hai thứ kia. Người ta chỉ dung để “mượn hơi” hai thứ “cơm thang”“sọc tiêu” thôi.

- Cũng thời cá mà sao thứ “sọc phấn” ấy lại chẳng ngon lắm ?

- Phải, cũng thời cá nhưng thứ “sọc phấn” mình nó cứng và ít máu.

- Còn thứ cá “ba loài” là thứ chi ? Cá ấy làm nước mắm có ngon chăng ?

- À, suýt nữa đã quên nói đến cá “ba loài”

Người ta gọi “ba loài” là tại thứ ấy lộn lạo hai ba thứ: lớn, nhỏ chớ không phải đều như nhau. Cá nầy ít máu nên làm nước mắm thường trắng, trong. Tuy vậy chớ cũng không thể nào bằng “cơm thang”“sọc tiêu”.

- Còn nước mắm thường “trở” là tại sao vậy ?

- Nước mắm hư là tại mình gắp quá. Chưa đúng ngày, tháng đã vội chiết ra đem bán rồi. Máu cá chưa ra kịp. Chớ nếu làm như tôi đã nói thì không thế nào “trở” được cả.

- Mình có thể nào biết trước nước mắm sẽ được “tốt” hay sẽ “thở” không ?

- Đó là tùy theo kinh nghiệm ở nghề. Từ hai tháng sắp lên, sau khi muối cá, Mũi ta ngửi, mắt ta trông, có thể nhận được một cách dễ dàng cái tương lai tốt, xấu của nước mắm mnìh.

- Nước mắm để lâu có hại gì không ?

- Của người ta thì tôi không dám chắc, vì không tin cách họ làm, chớ của tôi dầu để bao lâu cũng được. Tôi cũng thường chiết ra ve, gởi tân qua Pháp hay ra Hà Nội để biếu các quan quen biết. Hôm nọ, quan Toàn quyền Robin đi kinh lý có ghé thăm tôi, tôi cũng có quà ngài mấy ve, xem ngài lấy làm thích lắm.

- Nước mắm ông như thế mà gặp mấy cuộc đấu xảo ông có gửi đi chăng ?

- Có chớ, mấy lần gởi đi đấu xảo tận Marseille, lần nào tôi cũng được giấy chánh phủ khuyến khích và gửi khuê bài ban khen.

- Ông tận tụy với nghề nầy đã được bao lâu ?

- Trên 40 năm.

- Nước mắm Phú Quốc nầy thường bán về đâu ?

Nghe tôi hỏi ông lắc đầu có vẻ buồn bã, thất vọng, chán nản của một ngưòi tận tâm với nghề nghiệp.

- Ông hỏi đến chuyện buôn bán càng thêm buồn. Ông tính nước mắm của cả hòn Phú Quốc nầy mà bán thì chỉ bán  Châu Đốc và Rạch Giá, nhứt là Rạch Giá thôi. Nếu thế thì sản xuất nhiều mà tiêu thụ ít.

- Gặp lúc kinh tế khó khăn nầy ông xem sự buôn bán tiến hay thối ?

- Tiến gì được, ông tính nước mắm thì nhiều mà không bán được xa, cứ dồn ở hai ba tỉnh ấy mãi. Sánh với mấy năm trước thì giá nước mắm hiện giờ không được một phần. Đã vậy mà có lắm khi bọn bạn hang dung ngón gian xảo, nước mắm mình không hư, mà họ tráo trở làm cho hư mà đem đổi lại cho mình, như thế phải ép lòng chịu thiệt thòi, chớ mình biết cãi thế nào, vì chỗ mình buôn bán lâu dài.

- Họ thường tráo trở bằng cách nào ?

- Có khó gì, nước mắm Phú Quốc thì chỉ “nai” sơ thôi, họ mở ra, hoặc chiết ra nửa tỉn rồi đổ nước lại, hoặc họ mua lầm phải đồ xấu của kẻ khác, họ đổi nắp lại. Như thế mình không chối cải gì được vì trên nắp có con dấu hiệu mình.

Mà những kẻ nhẩn tâm như thế thường là bạn hàng bán lẻ, chớ chẳng phải chủ vựa. Vì chủ vựa họ mua bán nhiều, hơi đâu họ làm như thế. Chủ vựa có biết gì, họ mua của mình thì nếu bạn hàng đổi lại với họ, họ cứ mình họ trả lại thôi!

- Như vậy thì mình đem đi xa. Chịu mối hay trữ bán ở những tỉnh lớn như Cần Thơ, Mỹ Tho, Sàigòn chẳng hạn, có được không ?

- Đâu được, chỡ đi xa sở phí nhiều…

- Theo lời ông thì nước mắm ở đây bán không mấy khá mà sao về phương diện vật chất tôi nhận thấy dân sự thật là đầy đủ, sung sướng ?

- Phải ông nói không lầm. Mà cái sung sướng ấy nó chỉ có “duyên” với bọn làm công thôi. Họ chỉ phí công đi một chuyến ghe không hơn 15 ngày đã được hơn chục đồng rồi. Chớ còn chủ nhà thùng thì không được sung sướng cho lắm. Phần xác cũng như phần hồn quanh năm mãi bận việc.

Thế nên có nhiều nhà du lịch lại đây thấy cái cách ăn xài của bọn bạn lưới họ đã nói một câu:

“Ở đây, tôi không phân biệt được ai là “chủ thùng” ai là “bạn lưới”. Thấy từ cái cách ăn mặc đến sự lãng phí, xa hoa của họ tôi cũng tạm bảo họ có phước, vì họ chưa bị con ma khủng hoảng động tới”.

- Vâng, riêng tôi, tôi cng nhận thấy rõ như thế khi mới bước chân đến. Thưa ông, thường nước mắm ở đây có gặp ai cạnh tranh không ?

- Ngoài thi không có ai cạnh tranh, nhưng nội một chỗ với nhau giành được mối lợi cũng đủ mất giá.

Dòm lên chiếc đồng hồ trên vách thấy hơn 11 giơ1 rưỡi, lật đật đứng dậy cám ơn và xin cáo từ. Sau một cái bắt tay tôi, với một nụ cười, chủ nhân đưa tôi ra tới cửa.

Ngoài đường hạt mưa còn lấm tấm rơi. (2)

*

Lư Khê tham gia đóng góp nhiều cho nền văn học quê hương Hà Tiên và đất nước Việt Nam. Ông bị ám sát năm 1950, trong khi nhiều công trình còn dang dở chưa kịp thực hiện.

Về văn học, Lư Khê sáng tác khá nhiều, nhất là thơ. Thơ ông rất trữ tình, thường xuyên đăng ở các báo Thế giới Tân văn (1936), Nữ Lưu tuần báo (1936), Văn Nghệ (1937), Tự do (1938), Nay (1940), Gió Mùa (1941), Đông Tây (1942) Tập tùy bút Phút thoát trần được in năm 1942.

Về thơ chữ Pháp, Lư Khê đoạt giải cuộc thi “Tournoi des Jeux Floreaux de Nice” của Pháp, năm 1938.

Cùng với Đông Hồ, Mộng Tuyết, Trúc Hà, Lư Khê được văn giới gọi là Hà Tiên tứ tuyệt.

 

Tài liệu tham khảo:

Lư Khê web: vi. Wikipédia

Nguyễn Q. Thắng Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới Tập 3, tr. 91 - 101

 

(1)   Gọi rổ “Kiệu” vì rổ đựng cá ấy đặt trên hai cây cho hai người khiên, như cái kiệu (?). Một rổ kiệu cá nặng chừng 30 kg.

(2)   Báo Sống ngày 28-8-2935 – Hà Tiên.