Pages

Saturday, March 25, 2023

Thật là điều đáng trách.

 Hôm nay, xem như tôi đã hoàn thành tác phẩm Báo chí và Nhà văn Quốc ngữ thời sơ khởi. Trong thời gian gần đây để bổ túc và hoàn thành quyển sách, một hôm vô tình tôi vào một Thư mục Ảnh trong máy vi tính của tôi, bỗng tôi thấy có hình của Biến Ngũ Nhy mà từ lâu tôi đã cố đi tìm để vào trong sách của tác giả nầy, cũng như nhà văn Lê Hoằng Mưu. Mừng quá, tôi bắt đầu bổ túc hình ảnh cho quyển sách.

Rồi tiếp theo tôi tìm kiếm tài liệu về Đại-Việt Tập-Chí do Hội Khuyến-Học Long Xuyên ấn hành năm 1918, thế là tôi lên Mạng gõ tìm hình của Đại-Việt Tập-Chí, may mắn thay tìm được trên trang mạng Sách Việt và anh Bùi Hữu Hạnh đã vui lòng gửi cho tôi chẳng những 7 số Đại-Việt Tập-Chí do Hội Khuyến Học Long Xuyên ấn hành năm 1918 mà còn gửi thêm một số Đại-Việt Tập-Chí do ông Hồ Văn Trung tức nhà văn Hồ Biểu Chánh ấn hành năm 1942-1944 cùng với Nam Kỳ Tuần Báo.

 

 

Sau đó tôi lên Mạng tìm tài liệu về Nam-Kỳ Kinh-Tế Báo thì được thấy trên Facebook Trúc Bạch Thư Xã có bài viết về tuần báo nầy, tôi đã liên lạc và được Trang chủ Trúc Bạch Thư Xã là anh Tạ Thu Phong giúp scan cho tôi số báo 103 ấn hành ngày 16 tháng 12 năm 1922, gồm 8 trang trong có bài viết và mấy trang bìa, không scan những trang quảng cáo, vì theo anh cho biết báo có đến 20 trang.


Có điều tôi để ý thấy những trang báo của Nam-Kỳ Kinh-Tế Báo hay Nam Kỳ Địa Phận số trang đánh liên tục từ số báo nọ đến số báo kia.

Trong tờ Nhựt trình Nam Kỳ do Alfred Schreiner làm Giám Đốc, tôi không có hình ông nầy, lên mạng tìm chỉ thấy tiểu sử, nhờ một anh bạn ở Pháp tìm cũng không có hình, anh Tạ Thu Phong biết thế đã gửi cho tôi 2 tấm ảnh của ông Alfred Schreiner, trong 2 tấm nầy có tấm hình chụp lâu ngày bị phai màu không còn được rõ lắm.

Do việc giúp đỡ nầy, Chương kết, ở những dòng cuối cùng tôi đã bày tỏ lòng biết ơn đối với hai anh Bùi Hữu Hạnh và Tạ Thu Phong

 


Alfred Schreiner (1852-1911)

Ghi vài lời cám ơn hai anh đã giúp tôi, làm cho tôi nhớ lại vào năm 2006, khi đó tôi soạn quyển Văn Học Miền Nam từ 1623-1954, tôi đưa bài lên mạng về nhà văn Tân Dân Tử, nhưng không có hình, một độc giả trẻ đã gửi đến cho tôi tấm ảnh của nhà văn Tân Dân Tử tức Nguyễn Hữu Ngỡi, anh bạn trẻ nầy, lúc đó tôi không ghi lại họ tên, sau nầy nhiều lần nhớ lại người đã giúp mình, mà mình đã không quan tâm thật là đáng trách.

Tân Dân Tử - Nguyễn Hữu Ngỡi (1875-1955)

Chẳng những vậy, anh ta còn hỏi tôi có muốn anh ta chạy sang Gia Định sưu tập thêm vài tấm ảnh nữa không ? Tôi trả lời cám ơn và không cần them, vì không muốn làm phiền anh ta. Nay tôi còn nhớ mang máng anh bạn trẻ nầy ở gần khu Lăng Cha Cả, nay là chỗ cầu vượt Hoàng Văn Thụ.

Tôi cho rằng đó là điều đáng trách, mặc dù lúc đó tôi đã có Điện thư cám ơn anh ta. Cho nên lần nầy được sự giúp đỡ của 2 anh Bùi Hữu Hạnh và Tạ Thu Phong tôi không quên viết mấy dòng cám ơn trên sách.

Về tuần báo Nam Kỳ Địa Phận, tôi nghĩ khó tìm được tài liệu, nhưng khi lên Mạng, tôi tìm được ngay ở trang Mạng của Thư viện Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gồm 37 số từ số 1 đến số 37 ấn hành trong năm thứ nhứt 1908-1909. Cám ơn quý vị chủ trương trang mạng nầy. Nhờ đó chúng ta có tài liệu về tờ báo nầy, biết rõ chẳng những nội dung tờ báo có cả đạo và đời.

Hình bìa trước tờ báo có hình Vương cung Thánh đường hay Nhà Thờ Đức Bà, có huy hiệu Tòa thánh, có chữ la-tinh, có chữ Pháp, chữ Nho, chữ Quốc ngữ, có ghi năm, số, ngày tháng dương lịch, ngày tháng âm lịch, giá tiền mỗi số là 0$06 và cả năm là 3$00

866425032023







Wednesday, March 22, 2023

Sự sai lầm đáng trách

 

Sau khi viết xong mấy bộ sách về Văn học, trong đó có bộ Văn Học Miền Nam, tôi thấy có nhiều thiếu sót, vì quyển sách nầy soạn từ những năm đầu thập niên 1970, tài liệu hiếm, nhất là hình ảnh lại càng hiếm hơn. Sau nầy thời đại @ và 4. có thể lên Mạng dò tìm, có nhiều tài liệu và hình ảnh phong phú, nên tôi muốn bổ túc thêm cho quyển Văn Học Miền Nam từ năm 1623 đến năm 1954. Nhưng nghĩ rằng nên viết quyển sách khác với tựa là Báo chí và Nhà văn Quốc ngữ thời sơ khởi có lẽ tốt hơn. Định rồi tôi bắt tay vào làm từ năm 2013-2014.

 Trước tiên tôi lên mạng và thấy có hình tờ báo NAM KỲ xuất bản ở Sàigòn trên đầu trang 1 dòng thứ 2 có ghi NĂM THỨ NHỨT - số 1 NGÀY THỨ NĂM 21 OCTOBRE 1897. Dưới tựa chữ NAM KỲ có in dòng chữ NHỰT TRÌNH MỖI TUẦN LỄ IN MỘT LẦN NHẰM NGÀY THỨ NĂM. Và bài mở đầu “Lời cùng các người coi nhựt trình ta” có viết: Làm nhựt trình hôm nay gọi là nhựt trình Nam Kỳ. Từ đó tờ báo có tên là Nhựt trình Nam Kỳ và cũng phát sanh ra báo gọi là “nhựt trình” mặc dù mỗi tuần phát hành có 1 số, ngày nay chúng ta gọi là Tuần báo và thời đó các Tuần báo thường phát hành ngày Thứ Năm.


Sau đó tôi có thấy tờ Nam Kỳ Địa Phận là một tờ báo do nhà thờ Tân Định in, có lẽ chỉ phát hành trong phạm vi tôn giáo, không được phổ biến rộng, nên ít người lưu truyền. Tuần báo nầy phát hành số đầu tiên vào năm 1909.


Sau đó tôi có tìm được thêm tờ Nam Kỳ Tuần Báo do Hồ Văn Trung tức nhà văn Hồ Biểu Chánh làm Giám Đốc, đương nhiên là Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, Toà soạn đặt tại số 5 đường Reims nay là đường Lê Công Kiều ở Quận I Tp HCM, tuần báo có những nhà văn nhà khảo cứu tên tuổi cộng tác.


Một hôm tôi tìm kiếm thêm chi tiết, bài vở trên tờ Nhựt trình Nam Kỳ, tôi lại thấy có người viết có tờ báo Nam Kỳ Kinh Tế Báo, tôi nghĩ rằng tờ Nhựt trình Nam Kỳ là tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo, thế là tôi đưa tờ Nhựt trình Nam Kỳ thành tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo.

Nhưng mới đây, tôi lên Mạng gõ Google để tìm thêm chi tiết về tờ Nhựt trình Nam Kỳ mà tôi đã cho rằng đó là tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo thì trên Mạng lại hiện ra hình ảnh tờ Nam Kỳ Kinh Tế Báo trên Facebook TRÚC BẠCH THƯ XÃ.



Theo chủ nhơn Facebook Trúc Bạch Thư Xã, anh Tạ Thu Phong cho biết tờ Nam-kỳ Kinh-tế Báo số đầu tiên phát hành vào tháng 10 năm 1920 và số anh có sau cùng là tháng 12 năm 1922 gồm có 103 số. 

Hình trên có dòng chữ trên cùng: NĂM THỨ BA : SỐ 97 -  MỖi TUẦN XUẤT BẢN NGÀY THỨ BẢY  -  NGÀY 28 OCTOBRE 1922. Như vậy cho chúng ta biết đây là Tuần báo.

Về tuần báo nầy, Bà Rose Quaintenne là Chủ sở hữu sáng lập và ông Nguyễn Văn Thượng là Giám Đốc Điều hành, tòa soạn đặt tại số 81 đường d’Espagne, nay là đường Lê Thánh Tôn.

Như vậy có 4 tờ báo có tên gần giống nhau: Nam Kỳ, Nam Kỳ Địa Phận, Nam Kỳ Kinh Tế BáoNam Kỳ Tuần Báo. Ai cũng biết rằng Nam Kỳ là tên của vùng đất phía Nam nước Việt, có thể phát xuất từ thời Pháp đô hộ Việt Nam. Sau nầy còn có tên là Nam Phần hoặc Nam Bộ.

Bìa trước số 103


Bìa sau số 103

Nhân đây, tôi cám ơn ông Bùi Hữu Hạnh trang chủ Sách Việt, đã chia sẻ cho tôi bản PDF 7 số Đại Việt Tạp Chí do hội Khuyến Học Long Xuyên xuất bản năm 1918 và ông Tạ Thu Phong trang chủ Trúc Bạch Thư Xã, đã scan và gửi cho tôi Nam-Kỳ Kinh-Tế Báo số 103, năm 1922. Nhờ sự giúp đỡ quý báu đó, tôi có thêm tài liệu và hình ảnh phong phú cho quyển sách Báo Chí và Nhà Văn Quốc ngữ thời sơ khởi của tôi..


8664220323 



















Saturday, March 18, 2023

Chánh trị khoa quãng cáo đồng nhơn (1)

Cho hay, xưa nay nước nào cũng có một chánh-thễ riêng, dân tộc nào cũng có một tư- cách riêng, triết-học gia nào cũng có một tư-tưởng riêng, báo-quán nào cũng có một tôn-chĩ riêng. Chúng tôi đứng lập ĐẠI-VIỆT-TẬP-CHÍ nầy, tuy chẳng dám khoe tài công báo, song cũng học đòi theo dấu tiền nhơn, cũng có sấp tôn-chỉ, vẻ chương-trình riêng, đặng noi lối mà nói, giữ đường mà đi cho khỏi lầm khỏi lạt.

Trộm nghĩ quốc-dân Việt-Nam ta chẳng phải là bọn ăn góc biển, ngủ đầu rừng như dân da-đen Nam-phi-Châu, mà cũng chẳng phải sớm rẻ bạn tối vầy đoàn như dân da đỏ Tân-thế-Giới. Quốc-dân ta tuy chưa đủ tài đủ trí mà thọ lảnh tiếng văn-minh, song ngoài một ngàn năm xưa, vẫn đã có học thức đủ mà sáng nghiệp trị dân, hiểu đạo đức sẳng mà trau dồi nhơn-cách. Thế thì Việt-Nam ta nào có phải là nước giã man chi đâu. Trong chư quốc nay chúng ta thấy phú cường hoanh liệt đó, xét theo Dinh -hoàn thiệt-sữ, thì cái lúc Việt-Nam ta nhơn-cách đã tập thành rồi, mà nhiều nước ấy hãy còn u ám. Tại sao khi trước người ta u ám hơn mình mà nay mình lại ra u ám hơn người? Cái vấn-đề nầy hể nhắc đến, thì những người có chí nhiệt-thành về tấn-hóa cũa dân-tộc, ai mà chẳng nát ruột châu mày. Đã biết điều buồn chẳng nên nói đến làm chi; mà xét kỷ, nếu sự buồn chẳng chịu nói ra, thì chổ buồn ấy chừng nào mới giãi được.

Sự vận-động tấn-hóa là cái máy mầu nhiệm cũa Tạo-vật, là cái bước tự nhiên của nhơn-loại. Dân tộc nào khởi đoan củng phải u ám rồi lần lần học thức học thức càng ngày càng rộng, tư-tưởng cnàg ngày càng sâu, mới chế sữa lối phong-tục cho đẹp xinh, mới khai sáng cuộc lý-tài cho thạnh vượng, Việt-Nam ta chẳng phải lọt ngoài cái lò vận-động cũa Tạo-vật ấy được, cũng có tấn-hóa như các nước chớ chẳng không. Quốc-dân ta mà thua súc người đây là bởi cạnh-tranh khác sức, văn-minh lạ đường (bên Thái-Tây cùng cách trí thiệt-hành làm văn-minh, bên Á-đông dung đạo đức tinh thần làm hi-vọng).

Vả mười mấy thế-kỷ trước quốc-dân Việt-Nam vẩn đã có sẳng học-thức có sẳng nhơn-cách rồi. Mà từ ấy đến nay, chổ học-thức ấy chẳng hay biến cải, còn lối nhơn-cách ấy cũng không hay chế sữa. Khi Sĩ-Vương đem sách vở Trung-Hoa qua mà dạy dổ quốc-dân ta thì quốc-dân cứ noi sách ấy mà tập tư-tưởng, cứ vịnh sách ấy mà làm mục-đích. Mười ba kinh, hai mươi bốn sữ đều là sách của Thánh-hiền để mà phỏ hóa tâm-lý và trí-lực của loài người; ai mà tận độc rồi thì rất thiêu-diêu nơi đường đạo-đức. Cái Chánh-thể và cái nhơn-cách cũa Việt-Nam ta cũng nhờ ấy mà được đẹp

đẻ xưa nay; vậy cũng nên nương gốc ấy cho quốc-hồn vĩnh cữu. Xét lại cái nho-học quí báu biết dường nào. Chớ chi vạn quốc được đồng tâm hiệp ý, thảy đều đem cái nho-học mà truyền dạy các dân-tộc trên địa-cầu, thì cái cảnh tuợng thăng bình biết thuở nào xao động được.

Ngặt trên thế kẻ vầy người khác, trong một ngàn mấy tram năm đã qua rồi, quốc-dân ta thì cứ mảng chuyên môn đạo-đức mà làm trí thức, còn các dân-tộc khác thì ngó chốn tranh-cạnh mà lập tinh-thần, niếu cujộc lý-tài mà làm tôn-chỉ. Ta thì lấy lời hiền ý thánh mà hóa dân, còn người thì đem bát-vật hóa-học dạy chúng. Thuở trước quốc-dân ta xẩn bẩn trong nước, như người đóng cữa, ở trong nhà (bế quan tự trị) chẳng hay chẳng biết sự thế vận-động thể nào. Đến khi nhà nước Đại-Pháp qua lảnh quyền giáo hóa quê-hương ta, người bèn mở rộng các cữa ra; khi ấy những trang thức giã dòm thấy công cổ phong-chào, nhơn-quần tranh cạnh, mới biết chổ học-thức của người mà mình dồi mài bấy lâu chẳng thích hiệp với thời nghi chút nào hết.

Đại-Pháp bảo hộ vàbĩnh-chánh nơi đất Việt đã gần 60 năm nay, ghe phen đã để ý muốn canh cải phần học-thức cũa quốc-dân ta, muốn gieo trồng giống thiệt nghiệp nơi quê vứv ta, đặng cho dân-tộc ta đủ trí-lực, đủ tài-sản mà lăn-lộn cùng thời đại. Ngặt chánh-thể cũa xứ ta cũng có chổ đáng khen, phong tục cũa người mình củng có chổ đáng mến. Nên Chánh-phủ Đại-Pháp tuy hết long muốn giáo hóa quốc-dân ta, mà bấy nay dọn sữa chổ nầy, sợ sái với chánh-thể xưa, muốn chế chổ kia thì e nghịch cùng phong tục củ. Bởi rứa nên mấy mươi năm nay quốc-dân gần gũi thầy Đại-Pháp là đấng văn-minh cực điểm, mà cái trình-độ của quốc-dân ta không được cao bao nhiêu.

Trong ba năm nay Đại-Pháp ta vì đều công-lý, vì chổ sanh tồn, mà phải huyết chiến cùng Đức-quốc. Cả toàn-cầu những dân-tộc nào biết mến đều công-nghĩa thì thảy đều nhảy vào vòng mà tiếp chiến với mẫu quốc ta. Quốc-dân ta là học trò của Đại-Pháp đã mặn nồng vì nghĩa dạy bảo mấy mươi năm, nên cũng ứng lên; Kẻ thì sang Âu-địa giúp công, người ở nhà thì hết long giúp của. Đã biết chiến-cuộc là một mối hại lớn của sanh-linh. Mà nếu nghĩ cho cùng lý thì quốc-dân ta cũng nhờ có chiến-cuộc mới có dịp mà tỏ dạ trung thành với Mẩu-quốc, và mới giải bớt được những phong tục xưa nó bao trùm phần trí-thức và nó rang buộc tánh vận-động dân-tộc ta hơn mấy thế-kỷ rồi.

Cũng nhờ dịp ấy Chánh-phủ Đại-Pháp mới rỏ biết quốc-dân Nam-Việt cũng có long trung thành nghĩa dỏng như dân-tộc khác, mới dòm thấy người Annam đã vẩy vcùng muốn thoát khỏi mô-phạm củ, muốn bỏ hết tư-cách xưa, mà chen vào vòng tấn-hóa  trên thế giới. Chánh-phủ đoán quyết lúc nầy là lúc dân tâm đương nhiệt-thành, nên tính thưà cơ mà khai dân-trí, quãn dân-tài, ngỏ đặng đến khi bải chiến rồi, cỏi Á-pháp-lang (2) nầy sẳng sản-vật mà hung vượng lý- tài, đủ trí-lực mà bảo toàn quyền-lợi.

Lấy trong hai bài diển-thuyết của quan Tổng-thống Toàn-quyền Albert Sarraut đọc tại Nam-kỳ công-báo hội ngày 30 Octobre 1917 và nơi Đông-pDương Chánh-phủ nghị-viện ngày 31 Novembre 1917 mà suy, thì đủ thấy Chương-trình Chánh-sách (3) cũa Chánh-phủ. Theo nhng lời ấy thì chánh phủ đương trù hoạch đêm ngày đặng làm cho mau cao sâu chổ học-thức của quốc-dân ta, mau rộng lớn cuộc lý-tài của quê-vức ta, đặng đủ sức trước là giúp đở cho Mẩu-quốc phú cường, sau nữa xứng đáng hưởng Đông-Dương tự chủ (4).

Chúng tôi đây vốn là kẻ đã chịu ơn dạy dổ của nhà nước Đại-Pháp. Nay chúng tôi trộm thấy ý Chánh-phủ muốn Tây Nam liên lạc đặng theo giống văn-minh nơi đường Á-pháp-Lang. Chúng tôi chẳng lẻ lấp mắt ngơ tai cho đành. Vậy chúng tôi ra lập Tập-chí nầy là có ý muốn giúp cho Chánh-phủ trong đường khai hóa cỏi Việt-Nam và lại giúp cho đồng-bang trong bước tấn hóa nơi thiệt học.

Ấy là Tôn-chĩ của chúng tôi đó. Còn Chương-trình của chúng tôi, thì chúng tôi củng xin bày tỏ luôn ra sau đây cho Đồng-bang nhã giảm.

Chúng tôi lập ĐẠI-VIỆT-TẬP-CHÍ nầy chẳng hề dám sánh long viển đại như ĐÔNG-PHƯƠNG TẠP-CHí bên Trung-quốc, hoặc tính luận cao sâu như NAM-PHONG TRẠP-CHÍ ngoài Bắc-kỳ. Chổ chủ ý của chúng tôi là tầm thường mà thôi; chúng tôi duy muốn buộc tình than ái của Pháp-quốc với Việt-Nam, muốn truyền tư-tưởng mới, muốn tỏ môn thiệt-học, ngỏ giúp quốc-dân muôn một trong đường tấn hóa.

Nương theo chủ ý đó nên chúng tôi mới chia Đại-Việt-Tập-Chí ra năm khoa:

          10 Chánh trị khoa
          20 Lý-tài khoa
          30 Bát học khoa
          40 Đông Tây thời-vụ.
          50 Âu Á từ đàng.

Khoa Chánh-trị thì chúng tôi để mà báo cáo cho quốc-dân hay biết những lề luật, nhng châu-tri cùng những nghị định mới của Chánh-phủ bàn hành mà phổ hóa cỏi Việt-Nam mà củng để mà trình tỏ cho Chánh-phủ thấu hiẻu chổ ham chổ muốn của nhơn dân, ngỏ đặng trên dưới thông tình cho mau lẹ bề tấn hóa.


Khoa Lý-tài thì chúng tôi để mà luận những vấn đề thuộc về thương-cổ, nông tang, công nghệ và bày tỏ chư môn thiệt-nghiệp cho quốc-dân thông hiểu đặng mà khai quảng tài nguyên, cạnh tranh quyền lợi.


Trong khoa Bát-học thì chúng tôi phiên dịch những pháp luật, địa-dư sữ-ký, cùng những sách bát-vật, hóa-học, y-học, triết-học, v.v. đặng cho những người lớn tuổi và không tập tân-học có thể mà phổ thông theo trí lực mới, theo tư tưởng lạ, phòng hiểu máy vậnđộng nơi Hoàn-vủ.


Đông Tây thời vụ là để ý cáo báo cho quốc-dân biết tin tức Âu-châu chiến cuộc cùng Trung-quốc sự tình và các thjời sự lạ xảy ra trên Hoàn-cầu.


Âu Á từ đàng là để phiên dịch nhng Sữ, Sách, Truyện, Ký, Ca, Phú, Thi, Văn, của Pháp, Việt và Trung-Hoa, hoặc y cách điệu mà làm ra quốc-âm, song lựa lấy chổ nào cho có quang hệ phong-hóa giáo-dục trong thời-đại mới nầy mà ngâm vịnh, lại có ý dồi sữa nôm na tom góp làm ra Kinh-tế-quốc-văn cho dảng tiện, ngỏ hầu bổ ích về tương lai.


Chương-trình Tập-chí chúng tôi sấp như thế. Mổi khoa chúng tôi có đặt một Chủ-bút riêng. Năm Chủ-bút mỗi người lảnh phần quản-lý và nghị luận những vấn-đề thuộc về khoa của mình. Nhng đấng văn-nhơn, Bát-sĩ trong Việt-Nam ông nào có chổ kiến-thức chi quí, xin biên rồi gửi đến cho chúng tôi thì chúng tôi sẻ hoan-nghinh mà ấn hành.


Cữ chỉ của chúng tôi làm đây là chủ ý giúp ích cho quê-vức. Nếu Văn-nhơn, Bát-sĩ, Phú-hộ, Hào-gia, có lòng chiếu cố giúp cho hoàn-toàn sự ao-ước của chúng tôi thì Việt-Nam hạnh thậm, Quốc-dân hạnh thậm.


Longxuyên Khuyến-Học hội
ĐẠI-VIỆT-TẬP-CHÍ

                      BIÊN TẬP GIẢ

           Chánh-trị khoa; THÚC-THANH LÊ-THỊ
           Lý-tài khoa; BIỂU-CHÁNH HỒ-THỊ
           Bát-học khoa; ĐỊNH-CHI NGUYỄN-THỊ
           Đông-Tây thời vụ; THƯỜNG-TIÊN LÊ-THỊ
           Âu Á từ đàng; THÚC-LIÊNG ĐẶNG-THỊ


                       ĐỒNG PHI LỘ

-----

(1) Lời Tựa của Đại Việt Tập Chí xuất bản tại Long Xuyên vào tháng Giêng năm 1918. Chúng tôi giữ nguyên văn, không sửa chữa từ ngữ và chánh tả, để thấy cách hành văn và chánh tả thời đó ở miền Nam Việt Nam.
(2) Á-pháp-Lang, nước Pháp nơi Á-Đông, la France d’Asie.
(3) Chương trình chánh sách.- Cách sấp đặt mà trị dân trị nước (Programme politique)
(4) Đông Dương tự chủ- Mình trị lấy mình (Indichine autonome)