Năm 1956,
tôi thi đậu vào Trung học kỹ thuật Cao Thắng hạng 132/250 trong số 3 ngàn thí
sinh dự tuyển. Tôi vào học chi nhánh trường Cao Thắng là Trung học kỹ thuật
Phan Đình Phùng tọa lạc tại số 2 đường Phạm Đăng Hưng, Da Kao, Quận 1, Sàigòn,
nơi đây gần Đài Phát Thanh Sàigòn.
Ngày nay
tôi còn giữ được Học Bạ từ lớp Đệ Thất, 7è , tiếc rằng trong học bạ
không có ghi tên giáo sư dạy môn học, ngày nay tôi vẫn còn nhớ có:
Trang học bạ
năm Đệ Lục 1957-1958
Giáo sư
Trần Văn Sơn, tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, đã về hưu, dạy giờ chúng tôi
môn Sử, tướng tá ông gầy ốm giông giống nhà văn Nhất Linh, vì ông dạy Sử từ khởi
thủy họ Hồng Bàng, không nhớ duyên cớ chi, học sinh chúng tôi đặt cho ông biệt
danh Sùng Lãm, phải nhận rằng phương pháp dạy của ông làm cho chúng tôi dễ hiểu
dễ nhớ, không hổ danh đã tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội, ông có xe Fiat màu
nâu, do nhà gần trường nên ông gửi xe luôn trong trường.
Người kế
chúng tôi muốn nói tới là giáo sư Trần Văn Căn, ông là đương kim Hiệu Trưởng
trường Tiểu học Đa Kao thời bấy giờ. Ông đi dạy chúng tôi luôn luôn mặc complet
màu sậm, đội nói fletcher, tay mang găng đen, đi giày đen bóng láng. Tướng tá ông
như nhạc sĩ Văn Phụng, ông dạy môn Pháp Văn, từ trường Tiểu học Đa Kao đi bộ không
tới 5 phút là tới trường tôi.
Người kế đó
là giáo sư Phan Hữu Tạt, ông du học ở Pháp mới về, đi dạy mặc complet màu xanh
nhạt, đi xe Volkswagen màu xanh nước biển, tướng ông cùng phốp pháp như ông Căn
nhưng trẻ hơn, ông dạy môn Anh Văn. Sau nầy, ông là Giám Đốc Trường Quốc Gia Thương
Mại. Ông là chú ruột của MC Đào Hiếu Thảo.
Thầy Phan Hữu Tạt
Một người
nữa tướng tá cùng phốp pháp là giáo sư Lê Văn Chịa, năm đó ông dạy chúng tôi về
Kỹ thuật học Ban Nguội, ông thường mặc bộ đồ trắng và đi xe Traction màu đen,
sau đó ông làm Tổng Giám Thị, vào thập niên 1960, ông làm Hiệu Trưởng Trung học
Kỹ thuật An Giang.
Bác sĩ
Kim, nghe nói ông có phòng mạch ở Quận 4, hoặc ông là bác sĩ ở Phòng Y tế Quận
4, ông phụ trách dạy chúng tôi môn Việt Văn, ông đã trích dạy chúng tôi một bài
thơ của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, ý tưởng và vần điệu mới lạ, không như thơ của
TTKh, Tế Hanh, Xuân Diệu …
Năm đó nhạc
sĩ Nguyễn Văn Khánh phụ trách dạy nhạc cho chúng tôi, trong lớp có cây đàn dương
cầm của Trường Quốc Gia Âm Nhạc, nên ông đánh đàn cho chúng tôi hát những bài ông
dạy.
Có một ông
Giám thị mập, mang kính cận dầy, hình như ông tên Ngọ, nhà ở Bình Hòa, thường dùng
autobus đi làm, nhưng do tướng mạo của thầy Ngọ giống hình quảng cáo vỏ xe hơi
Michelin, ông hay phạt cấm túc nên chúng tôi đặt cho ông biệt danh là ông
Michelin.
Học ở trường
nầy gần Vườn Bách Thảo còn gọi là Sở Thú, nên những lúc giáo sư bận việc hay bệnh,
không thể đi dạy, chúng tôi được nghỉ nên thường đi vào Sở Thú, rất tiện vì ngày
đó không có thu tiền vào cửa. Chúng tôi đi xem thú, thỉnh thoảng chụp ảnh lưu
niệm.
Đi chơi ở Sở
Thú
Học Xưởng
và học Kỹ nghệ họa, chúng tôi về Cao Thắng học, tôi nhớ học xưởng Rèn với thầy
Hồ Văn Vầy, thầy có người con là Hồ Ngọc Thu đến năm Đệ Ngũ tôi với anh học
chung lớp, thầy Vầy sử dụng cái búa máy 500 kg tài tình.
Trong xưởng
có thầy Lê Văn Kiệt rất trẻ, thầy xuất thân từ trường nầy, có tu nghiệp ở Pháp
mới về, thầy nói năng rất lễ độ với học sinh, đến thập niên 1960 thầy có du học
ở Hoa Kỳ, lấy bằng Master rồi về làm ở Nha Kỹ Thuật Học Vụ, sau đó làm Chủ sự
Phòng ở Nha Học Chánh.
Học Kỹ nghệ họa,
chúng tôi học với thầy Trần Văn Đặng.
Lớp học ở trên lầu có cái đồng hồ, biểu tượng của trường học ở Sàigòn như trường Gia Long, Petrs Ký, Marie Cuirie, Bác Ái.
Thầy Trần Văn Đặng
Lớp học ở trên lầu có cái đồng hồ, biểu tượng của trường học ở Sàigòn như trường Gia Long, Petrs Ký, Marie Cuirie, Bác Ái.
Trước 1945, Thầy Đặng làm việc ở Côn Đảo,
năm 1943 sinh người con trai tại đó, anh tên là Trần Thanh Quang, tôi với anh học
chung mấy năm ở Cao Thắng, rồi ở Đại học Vạn Hạnh.
Trần Thanh
Quang đứng ngoài cùng bên trái, tôi đứng giữa trên cao
Tại Mỹ anh có thư cho tôi:
Anh
mến,
Trần Văn Đặng đúng la ba của tui đó. Ổng mất năm 1984 (bị
heart attack). Tui đi Võ Bị Đà Lạt năm 1963, bị thương mất một tay, rồi giải
ngũ năm 1973. Trong thời gian chờ giải ngũ, tui đi học lại và nhờ có bằng Cử
nhân Báo Chí và Văn Chương tui thi được học bổng Fullbright qua đây năm 1974
học Masters về báo chí. Tất cả gia đình tui qua đây năm 1975. Tui ra trường năm
1976 với double major về journalism & accounting. Hiện tại đang tính join
bà xã để retire chứ bỏ bã ở nhà một mình tui đi làm không an tâm lắm (bả đã
retire hôm 1 tháng 6 (early retirement) vì mệt mõi và bịnh quá nên tui khuyên
bả nghĩ làm sớm để còn enjoy phần còn lại của cuộc đờị ) Tui có hai đứa con,
một trai một gái, đang làm senior engineer ở Texas. Thành ra ở nhà chỉ có hai
vợ chồng thủ thĩ với nhau; đi chợ, xine, shopping ...cũng đi hai đứạ Cuộc sống
ở Missouri cũng thoãi mái, đủ ăn, không đến nỗi hốc hác như một số bạn Đà Lạt
qua đây quá trể.
Nghe tin Phước Dược Sĩ qua đời hai vợ chồng tui cũng buồn
lắm. Vì ngày trước, sau khi bị thương tui thỉnh thoảng ghé thăm Phước để nhớ
lại những ngày xưa cũ ở KTCT. Phước hiền và dễ thương lắm.
Tui hy vọng anh em mình có dịp gặp gở nhau thường hơn.
Không có gì quý báu bằng tình bạn, nhứt là đã từng sống chung với nhau ở giai
đoạn tuổi thơ dưói mái trường thân yêu.
Quang
P.S. Tui hết sức hoan nghinh việc lập một Website hay
Egroup cho tất cả bạn bè ở KTCT. Như vậy mình sẽ có chổ để liên lạc, thăm hỏi,
tâm sự...dễ dàng hơn.
Năm sau,
niên học 1957-1958, chúng tôi lên lớp Đệ Lục, toàn bộ chuyển về Trung học Kỹ
Thuật Cao Thắng, số 65 đường Đỗ Hữu Vị nay là Huỳnh Thúc Kháng, Quận 1, Sàigòn.
Đây là trung tâm của thành phố, cách chợ Bến Thành không quá 3 phút đi bộ.
Năm Đệ Lục
nầy, tôi chỉ còn nhớ đã học Pháp văn với Thầy Trần Văn Khuê, thầy tuổi cao, sức
khỏe có vẻ yếu, nên sau khi giảng bài, cho học sinh chúng tôi chép bài, thầy đi
xuống cuối lớp nằm trên cái bang dài nghỉ lưng. Thầy có người con tên Trần Văn
Cảnh, anh bị bệnh tâm thần, thỉnh thoảng đi vào trường, nhưng không phá phách
chi. Với thầy Khuê tôi luôn nhớ chuyện trong một bài thầy giảng: “Tôi xin lỗi là
tôi có lỗi” dù xa thầy nhiều năm tôi vẫn nhớ, đại ý chuyện ấy là có một gánh hát
dạo kia, trong buổi trình diễn anh hề làm phật long khan giả, họ buộc anh hề phải
xin lỗi, anh nhứt định không, về sau ông chủ gánh yêu cầu vì chén cơm cả đoàn,
anh phải ra xin lỗi với câu: “Tôi xin lỗi là tôi có lỗi”, khán giả hài lòng, bạn
bè hỏi sao trước anh không nhận xin lỗi bây giờ anh xin lỗi. Anh hề trả lời: “Tôi
đâu có xin lỗi ai đâu !!!”
Năm này,
chúng tôi có học “Machine à vapeur – Máy hơi nước” với thầy Tỷ, đáng nhớ là bài
học toàn Pháp Văn, trong trường không có máy, thầy Tỷ phải gò, phải hàn một nồi
Chaudière cho chúng tôi học.
Chúng tôi
học Sử, Địa với thầy Trần Ngọc Ẩn, thầy Ẩn du học ở Pháp về. Thầy Ẩn không để
trong tôi dấu ấn nào, trừ việc Thầy mang kính cận rất đẹp, tạo cho Thầy có gương
mặt mô phạm đáng kính.
Năm Đệ Ngũ
niên khóa 1958-1959, chúng tôi học Máy chạy săng với Thầy Phan Văn Mão, giờ của
thầy chúng tôi nói “Con ruồi bay ngang biết ruồi đực hay ruồi cái”, vì thầy gọi
trả bài một lần tới 2 hay 3 học sinh, một anh vẽ ở cái bảng, một anh vẽ ở vách
bên trái, một anh vẽ ở vách bên phải, chẳng những phải thuộc cơ phận vận hành mà
còn phải thuộc hình vẽ để trình bày.
Thầy Phan
Văn Mão có quyển sách Máy Dầu Cặn, bán chạy như tôm tươi, được tái bản nhiều lần.
Sau đó thầy
Mão làm Tổng Giám Xưởng rồi một thời gian sau, thầy về Nha làm Thanh Tra trước
các ông Văn Văn Đây, Lê Đình Viện ….Thầy là Tổng Thư Ký của Hội Cựu Học Sinh Các
Trường Kỹ Thuật Việt Nam, hội viên có Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Chơn, Nguyễn Văn
Lịch, Lý Kim Chân, Nguyễn Hùng Trương, Phan Kim Báu, Lê Văn Kiệt … Thầy chắp nối
với vợ sau là giáo sư Gia Long, sau 1975 thầy về sống an hưởng tuổi già ở Long Điền,
Bà Rịa – Vũng Tàu, thầy mất ngày 7-1-2015, thọ 101 tuổi.
Lý Hóa chúng
tôi học với thầy Nghiêm Xuân Sương, thầy bị đớt, nên bị học sinh nhái giọng. Một
hôm thầy cầm lòng chẳng đặng nên dạy chúng tôi: “Tôi nói giọng bị đớt do khuyết
tật, đáng lẽ các anh phải đem lòng thương người tàn tật, sao lại chế nhạo !! Từ
nay, tôi đề nghị các anh Cái gì của César hãy trả lại cho Cesar !”. Từ đó không
còn ai chế nhạo thầy Xuân Sương nữa. Hơn 40 năm sau, tôi mới hiểu câu “Cái gì của
Cesar hãy trả lại cho Cesar” nằm trong Thánh Kinh.
Tôi có học Lý Hóa với thầy Ngô Đình Duyên, nhưng lâu quá không nhớ học với Thầy năm Đệ Lục hay Đệ Ngũ.
Thầy Ngô Đình Duyên
Năm Đệ Tứ
niên khóa 1959-1960, chúng tôi học Kỹ nghệ họa với thầy Dương Khắc Long, đặc biệt
bài học thầy quay Ronéo phát cho học sinh, thầy không chú trọng nhiều về nét vẽ,
nhưng thầy chú trọng về kỹ thuật trong bảng vẽ ráp các cơ phận. Có hôm, thầy hỏi
học sinh trong lớp : “Tại sao người ta nói mình ên, từ ên ấy có nghĩa là gì ?”.
Cho đến nay tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời cho thỏa đáng. Sau 1975, thầy
chuyển về dạy ở trường Kỹ thuật IV ở Gò Vấp, tức là trường kỹ thuật tư thục Don
Bosco cũ.
Thầy Dương Khắc Long
Chúng tôi
học Công dân Giáo dục với thầy Lê Trọng Lễ, thầy Lễ có người em là luật sư Lê
Trọng Nghĩa, khi thầy Lễ dạy chúng tôi đồng thời thầy là luật sư tập sự, được
chỉ định bào chữa cho một anh Việt Cộng, thời đó VC bị bắt cầm chắc bị đày đi Côn
đảo, nên thân chủ của thầy Lễ bị kết án chung thân, đày ra Côn đảo, an hem chúng
tôi kháo nhau: “Ra Tòa gặp thầy Lễ thì từ chết tới bị thương”.
Chúng tôi
học Toán với thầy Lê Bạc Sang, có người nói rằng thầy Sang là luật sư, thầy đi
dạy bằng xe ô-tô Hoa kỳ, giờ học sinh ra chơi, thầy Sang cùng thầy Trần Ngọc Đảnh
thường hay thả bộ trong sân trường, hình như hai thầy là đồng hương, quê ở Cần
Thơ.
Thầy Trần
Ngọc Đảnh dạy kỹ thuật học về Điện, tướng thầy cao ráo, da ngâm đen, năm nầy tôi
có học với Thầy.
Ở xưởng
Nguội có nhiều thầy dạy như thầy Hinh, thầy Tôn, thầy Báu, riêng có thầy Nguyễn
Văn Thống, trẻ tuổi và đẹp trai hơn cả.
Năm nầy,
chúng tôi học Việt Văn với thầy Lê Nguyễn Bá Tước, thầy xuất thân từ Cao Đẳng Sư
Phạm Hà Nội, thầy dạy rất hấp dẫn, giảng bài lưu loát về Truyện Kiều và thỉnh
thoảng có dịp thầy chữi bà Ngô Đình Nhu, tôi không hiểu sao thầy không sợ, chắc
thầy có chỗ dựa nào đó vững chắc dưới chế độ Ngô Đình Diệm thời bấy giờ. Thầy là
nhiếp ảnh gia Minh Tuyền, đầu thập niên 1960, thầy có mở một lớp Nhiếp ảnh nghệ
thuật tại trường Cao Thắng, những nhiếp ảnh gia tên tuổi đã dạy lớp nầy như
Nguyễn Cao Đàm, Trần Cao Lĩnh …, tôi có dự khóa học nầy. Nghe nói sau nầy thầy
dạy ở Trường Võ Bị Đà Lạt. Nay thầy định cư ở San Jose.
Thầy cô Lê Nguyễn Bá Tước
Thầy Vũ Hữu
Nho dạy chúng tôi về Sử Địa, tướng tá thầy trung bình như thầy Tỷ, thầy Sương,
thầy Thống. Về sau thầy Nho làm Hiệu Trưởng trường kỹ thuật Qui Nhơn và thầy đã
mất ở Texas.
Thầy Nguyễn
Xuân Khai khổ người cùng như thầy Sương, nhưng da mặt thầy sạm nắng, nghe nói
thầy bị vợ ly dị vì vấn đề chăn gối, về sau thầy có đi tu nghiệp ở Hoa kỳ và về
dạy ở Đại học Sư Phạm Kỹ thuật Thủ Đức.
Thầy Nguyễn Xuân Khai
Thầy Nguyễn
Đức Chiểu, có lẽ thầy là giáo sư dạy giờ, vì sau nầy tôi không thấy bóng thầy ở
trong trường nữa. Thầy cho biết thời Thủ Tướng Nguyễn Văn Tâm, con hùm xám Cai
Lậy, thầy là Thanh tra Quân đội, thầy kể một chuyện cho chúng tôi nghe: “Có một
hôm từ Hải phòng đi Hà Nội, thấy anh tài xế có vẻ ái náy, thầy hỏi anh ta có việc
chi, anh ta cho biết phải đi ngang qua chỗ có cô bạn gái, nhưng anh lỡ khoe anh
là sĩ quan, nếu cô ta thấy anh là tài xế thì mất mặt quá, thầy Chiểu mới tháo
lon ra đưa cho anh ta đeo làm sĩ quan, ngồi ghế sĩ quan, còn ông ta làm tài xế.
Khi xe chạy đến đoạn đường nào đó bị Việt Minh chận đường bắt sĩ quan, còn xe và
tài xế thì cho đi, anh tài xế đã bị ăn một trận đòn, khi họ biết là đã bắt nhầm
anh lính, nên cũng tha anh ta.
Năm đó,
anh Ẩn và tôi cùng tranh giải cầu lông của trường, thầy Chiểu chê quá, ông bảo
cầu lông cho đàn bà, con gái, phụ nữ chân yếu, tay mềm còn các anh thanh niên
phải chơi quần vợt, đá bóng cho đáng mặt thanh niên. Từ hôm đó, Ẩn và tôi bỏ
tranh giải và bỏ chơi cầu lông luôn.
Năm đó,
chúng tôi học xưởng với thầy Lưu Luân Trọng, thầy Trọng mặt hoa mè, tánh tình
thầy dễ dãi hơn thầy Mão, thầy có người em là Lưu Minh Tuấn, giáo sư ở Trường kỹ
thuật Nguyễn Trường Tộ và có cháu là Lưu Bá Đại, dạy Kỹ nghệ họa ở THKT Cao Thắng,
nay thầy Đại định cư ở Hoa Kỳ.
Thầy Lưu Luân Trọng
Về sau thầy
Lưu Luân Trọng thay thầy Phan Văn Mão làm Tổng Giám Xưởng trước Bạch Quang Đôi.
Chúng tôi
cũng có học xưởng với thầy Huỳnh Văn Thức, lúc đó trong xưởng Cơ khí ô tô còn có
thầy Lê Văn Tám, thầy Phạm Hữu Tới. Thầy Thức người Nam nhưng có con trai là Huỳnh
Hữu Trí, xướng ngôn viên Tiếng Nói Động Viên, anh ta nói rặc tiếng Bắc, hỏi Thầy,
Thầy cho biết: “Có chi đâu. Năm 1945 tôi đi tàu ra Bắc, bị kẹt vì chiến tranh
phải ở ngoài Bắc, nên Trí nói tiếng Bắc.”
Về Thể dục
Thể thao, chúng tôi học với thầy Phan Hữu Thành trong nhiều năm, có khi học
trong sân trường, có khi học ở sân Hoa Lư. Thầy Thành người dong dõng cao, nước
da ngâm đen, có năm nào đó thầy tập chúng tôi màn thể dục đồng diễn, đã biểu diễn
ở Sân Vận Động Tao Đàn, đặt dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong
màn trình diền nầy có động tác đang ngồi duổi thẳng chân sau đó co người lại lộn
nhào đứng lên, có anh Sa người hơi mập anh vụng về không lộn nhào được, nên hai
chân bị dơ lên trời, Tổng thống Ngô Đình Diệm phải phì cười.
Học sinh KT Cao Thắng diễn hành ở sân vận động Tao Đàn
Thầy Thành
đã mất nhiều năm qua, nghe nói trước khi mất, thầy có trao cho anh nào đó một tập
ảnh về hoạt động thể dục thể thao của trường.
Thầy TDTT Phạm Văn Sửu
Sau nầy
chúng tôi tập Thể dục với Thầy Phạm Văn Sửu, hàng năm CHS khóa 1956-1963 thường
tổ chức Tất niên, Thầy thường tham dự.
Lên Đệ nhị
cấp, giáo sư Nguyễn Khánh Nhuần dạy chúng tôi về Sử Địa, giáo sư không bao giờ
bắt học sinh trả bài, sau khi giảng bài, cho học sinh chép bài, thỉnh thoảng làm
bài kiểm mà thôi.
Thầy Nguyễn Khánh Nhuần
Giáo sư
Nhuần ngày xưa học trường sư phạm để dạy cho học sinh Pháp sinh sống ở Việt
Nam, theo giáo sư là phải phát âm phải chuẩn giọng Parisiene, bạn học với thầy
là bà Souvana Nouvong, là ông Đại sứ Lào tại Sàigòn. Khi ra trường, thầy dạy học
ở Lào, năm 1945 chạy sang Thái lánh nạn, sống bằng nghề coi bói, đã có lần coi
bói cho vua Thái, sau thầy về Việt Nam đã làm Hiệu Trưởng Trung học tư thục Đông
Tây Học Đường, về sau nơi nầy bán cho Đài Loan làm Tòa Đại sứ nằm trên đường
Hai Bà Trưng.
Giáo sư
Nhuần ăn mặc đúng mốt, đi dạy bằng xe Plymouth, sau 1975, thầy định cư ở
Seattle, tiểu bang Washington và đã mất ngày 21-8-2011, thọ 96 tuổi.
Năm Đệ nhất,
chúng tôi học Sử Địa với Thầy Nguyễn Bá Nhẫn, Thầy xuất thân từ trường Sciences
Po của Pháp. Lúc Thầy dạy chúng tôi, Thầy đang làm Tổng Cục trưởng, Tổng cục tiếp
tế, về sau Thầy làm Giám Đốc Nhà máy Xi măng Hà Tiên, nên Thầy thu nhiều học
sinh Kỹ thuật Cao Thắng vào làm việc.
Chúng tôi
học Pháp văn với thầy Lương Thọ Phát, thầy Phát là Tiến sĩ Văn Chương Pháp, thầy
đã trích giảng Le Cid của Corneille (1606-1684). Ngày nay tôi quên hết, chỉ còn
nhớ một câu, một nhân vật trong đó đã nói: “Je peux tout autre que vous”.
Đầu năm
1961 hay cuối năm 1960, nhà Trường có tổ chức một buổi lễ tiếp nhận viện trợ của
chánh phủ Đức, viện trợ cho Việt Nam một trường kỹ thuật, tạm thời đạt trong
trường Cao Thắng. Buổi lễ ấy giáo sư Nguyễn Khánh Nhuần điều khiển chương trình
với 2 ngôn ngữ Việt, Pháp và giáo sư Lương Thọ Phát đọc một bài phát biểu bằng
Pháp ngữ để cám ơn chánh phủ Đức.
Tôi cũng
có học Pháp văn năm Đệ nhị với giáo sư Nguyễn Văn Kiết, ông có bằng Cao học Triết
ở Pháp, trước 1945 dạy ở trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, rồi ông dạy ở Cao Thắng.
Học sinh Sàigòn thuở đó truyền tai nhau, học với giáo sư Kiết hay Lúa đều khó có
được điểm cao.
Giáo sư Lúa
dạy ở Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ, vào đầu thập niên 1960, ông còn chạy chiếc xe
Citroen bánh căm, có 2 chỗ ngồi, trước tài xế và người ngồi sau. Xe thầy Lúa đậu
trước trường Cao đẳng Công Chánh, sinh viên cắc cớ khiêng bỏ vào hành lang, muốn
lấy xe chỉ còn nước nhờ các sinh viên khiên giúp trở ra !
Về sau giáo
sư Kiết dạy ở Đại học Văn khoa, rồi đến Mậu Thân ông vào bưng tham gia Mặt trận
Giải phóng Miền Nam, giữ chức Bộ trưởng Giáo Dục.
Về Anh Văn,
tôi có học với ông Bửu Nghi, là Phó Giám đốc Đài Phát thanh Sàigòn, ông có du học
ở Hoa Kỳ, ông dạy theo sách English For Today, thời gian ông dạy có cuộc đảo chánh
của Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Nhảy dù cầm đầu, chỉ bao vây dinh Độc Lập, không
chiếm Bưu Điện và Đài Phát Thanh, nên từ trong Dinh Độc Lập chuyển nội dung ra,
đài phát thanh rước Trần Văn Trạch ở Thị Nghè vào giả giọng Ngô Đình Diệm, kêu
gọi cứu giá, nên Đại Tá Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Văn Thiệu từ miền Tây đem quân
về giải cứu, tướng Thi phải lưu vong sang Phnom-Penh. Nhờ vậy ông Bửu Nghi từ
Phó Giám Đốc lên chức Giám Đốc Đài.
Chúng tôi
có học Anh văn với giáo sư Nguyễn Đình Hải, ông là chuyên viên Unessco, ông đi
dạy bằng xe Volkswagen trắng.
Năm cuối
cùng, chúng tôi học Anh văn với giáo sư Phạm Văn Rau, ông hút thuốc điếu nọ, nối
tiếp điếu kia. Sau nầy tôi mới biết ông là nhà thơ Diễm Châu, ông là Thầy tôi ở
Cao đẳng Sư phạm Kỹ thuật, là Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ Đại học Bách Khoa Phú
Thọ.
Nhà thơ Diễm Châu Phạm Văn Rao
Năm 1983,
ông và gia đình rời Việt Nam đi dịnh cư ở Strasbourg Pháp Quốc, ông đã mất tại đây
ngày 30-12-2006, thọ 69 tuổi.
Xin đọc một
bài thơ của thầy tôi:
Mỗi ngày
Em yêu dấu
mỗi ngày anh viết một tờ thư
những lá thư chồng chất
không người nhận
mỗi ngày anh vẽ một con tem
mang hình một người bạn
những người bạn không còn nữa
mỗi ngày anh trút hơi thở lên trang giấy
hơi thở đóng bang
mỗi ngày anh nắn nót từng dòng chữ
dòng chữ hóa đá
những lá thư chồng chất
không người nhận
mỗi ngày anh vẽ một con tem
mang hình một người bạn
những người bạn không còn nữa
mỗi ngày anh trút hơi thở lên trang giấy
hơi thở đóng bang
mỗi ngày anh nắn nót từng dòng chữ
dòng chữ hóa đá
anh đằm mình trong bụm cỏ
gặm nhấm ngày qua như một cọng rác
anh lau mặt bằng tình thương mòn mỏi
gạt những sợi tóc bạc dần..
gặm nhấm ngày qua như một cọng rác
anh lau mặt bằng tình thương mòn mỏi
gạt những sợi tóc bạc dần..
mỗi ngày
tia nắng đầu tiên nhỏ một giọt lệ
anh lại viết một tờ thư.
tia nắng đầu tiên nhỏ một giọt lệ
anh lại viết một tờ thư.
9. 1984
Tôi có học
Anh Văn với giáo sư Phùng Thịnh, không rõ ông có họ hàng chi với Phùng Khánh và
Phùng Thăng không ? Thầy Thịnh cũng người Trung.
Chúng tôi có học thực hành với bà Le Blanc, bà là Tùy viên văn hóa của Tòa Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, gia đình bà thuê cái villa trên đường Sương Nguyệt Anh, bà có 2 cậu con trai chừng 10 và 12 tuổi, cũng theo bà ở Việt Nam, chúng tôi có đến nhà bà một lần.
Ông kỷ sư Nguyễn Mạnh Cung, chỉ huy trưởng phi trường Tân Sơn Nhất có dạy Toán chúng tôi, thời đó phi trường Tân Sơn Nhất thuộc Bộ Giao Thông Công Chánh, nên ông Cung điều hành phi trường, có hôm ông dẫn chúng tôi độ 10 học sinh, lên tham quan phi trường, ông dẫn lên đài không lưu, chỉ dẫn các đường bay, các pháo hiệu.
Năm Đệ nhị, tôi có học Toán với giáo sư Hoàng Hồng, ông là kỷ sư, Giám Đốc Đài Khí Tượng Sàigòn, thời đó đài thường dùng : “Mưa rào rải rác” hỏi thầy, thầy bảo không đoán biết chính xác, nên dùng từ ấy. Đang học có anh bị “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, thầy bảo: “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”, về sau thầy không còn dạy ở trường nữa, anh em kháo nhau là thầy nói thế, nhưng thầy bỏ nhiệm sở “trốn lính”, tôi không tin như vậy.
Tôi được học Toán năm Đệ Nhị với thầy Cù An Hưng, nhờ thầy Hưng năm đó tôi đỗ Tú Tài 1 hạng Bình Thứ, chẳnh những thầy Hưng dạy giỏi mà thầy còn có tâm hồn văn chương, thầy dịch Chinh Phụ Ngâm và nhiều bài thơ Đường, xin mời thưởng thức tài nghệ dịch thơ của thầy:
Nổi cơn gió bụi một thời
Khiến hồng nhan nếm vị đời gian truân
Trời cao xanh biết hay chăng
4. Bỗng dưng thế sự xoay vần, vì đâu
Trống Tràng thành, bóng Nguyệt chao
Lửa đài bừng chiếu mây cao Cam Tuyền
Quân vương án kiếm ngay đêm
8. Canh khuya vời tướng, hịch truyền điểm binh
Ba trăm năm hưởng thái bình
Võ quan nay khoác lên mình chiến y
Sứ trời sớm giục ra đi
……..
456.
Hát vui xum họp đón chồng
tài cao
Rót chi thứ rượu bồ đào
Khúc ca ly biệt ném vào hư vô
Hầu chồng đến tuổi già nua
460. Đền nhau một thuở có thừa đắng cay
Công danh phước lộc cao dầy
Bên nhau hưởng trọn những ngày bình yên
Ngàn thu sông núi vững bền
464. Chẳng còn chinh phụ buồn phiền, lệ sa
Hẹn chàng thiếp gởi khúc ca
Chàng ơi như thế mới là trượng phu
Rót chi thứ rượu bồ đào
Khúc ca ly biệt ném vào hư vô
Hầu chồng đến tuổi già nua
460. Đền nhau một thuở có thừa đắng cay
Công danh phước lộc cao dầy
Bên nhau hưởng trọn những ngày bình yên
Ngàn thu sông núi vững bền
464. Chẳng còn chinh phụ buồn phiền, lệ sa
Hẹn chàng thiếp gởi khúc ca
Chàng ơi như thế mới là trượng phu
送 別
|
王 維
送 君 南 浦 淚 如 絲
君 向 東 州 使 我 悲 為 報 故 人 憔 悴 盡 如 今 不 似 洛 陽 時 |
TỐNG BIỆT
|
|||
Vương Duy
|
|||
Tống quân Nam phố lệ như ty
Quân hướng Đông châu sử ngà bi Vị báo cố nhân tiều tụy tận Như kim bất tự Lạc Dương thì |
CHÚ THÍCH Câu 1: người ra đi khóc. Câu 2: người tiễn đưa thì xót xa. |
TỐNG BIỆT
|
|||
Vương Duy
|
|||
Đưa tới bến Nam thấy lệ tràn
Đông châu bạn đến xót xa thương “ Người xưa”, nhắn giúp, “đều tiều tụy Khác thuở cùng nhau ở Lạc Dương”
Cù An Hưng dịch
|
Năm Đệ nhất, thoạt đầu
chúng tôi học Toán với giáo sư Nguyễn Văn Châu, ông dạy được vài tuần, nhà
trường thay một giáo sư khác, lâu ngày tôi đã quên tên, nhưng có anh cho biết
thầy là dịch giả tiểu thuyết của Quỳnh Dao tức là Liêu Quốc Nhĩ, thầy đọc thuộc
lòng số π là 3,14159 26535 89793 23846 26433 83279 50288 41971 69399 37510
58209 74944 59230 78164 06286 20899 86280 34825 34211 70679..., thầy cho biết lấy
355/113 sẽ cho ra những số lẽ sau 3,1415… Nhưng thầy cũng chỉ dạy có vài tuần,
rồi nhà trường thay vào giáo sư Vũ Mộng Hà.
Giáo sư Vũ Mộng Hà dạy chúng tôi khi thầy còn rất trẻ, anh em
truyền tụng giai thoại về Thầy là ngày đầu tiên Thầy vào trường bị ông gác cổng
Trịnh Văn Tình hay Lê Văn Thọ nghĩ Thầy là học sinh, không mang phù hiệu nên không
cho vào, thầy phải bảo báo cho ông Giám Học biết để xác nhận Thầy là giáo sư chớ
không phải học sinh. Để tránh bị nhầm lẫn, năm đầu tiên đó Thầy đi dạy luôn luôn
thắt cà-vạt.
Lớp tôi, anh em phục Thầy có trí nhớ rất tốt, vì trong lớp có 39
học sinh, làm bài kiểm, Thầy trả bài cho học sinh rồi tự động ghi điểm vào sổ,
chỉ gọi vài ba anh đọc điểm cho Thầy ghi.
Năm đó, tôi và Ngô Phước Tường vào Trường xem kết quả thi Tú Tài
toàn phần, hội đồng Giám khảo vừa họp xong, Thầy vừa ra khỏi phòng họp, Tường hỏi
Thầy chúng tôi đậu hay rớt, Thầy cho biết cả 2 đều đậu. Sau đó niêm yết kết quả
đúng như vậy, chứng tỏ Thầy nhớ tốt, vì trước đó chúng tôi không hề nhờ Thầy
xem kết quả.
Thầy cũng dạy chúng tôi về Vật Lý lớp Đệ nhất, sau khi giảng, thầy
đọc cho chúng tôi chép, khi nghe chuông reo, Thầy ngưng, đến hôm sau hay tuần
sau vào lớp Thầy đọc tiếp không cần xem kỳ trước học sinh đã chép tới đâu. Thầy
dạy Toán cũng như Vật Lý, không hề có sách vở chi cả. Chứng tỏ Thầy có trí nhớ
tuyệt vời.
Chúng tôi có học Vật Lý với thầy Đào Đức Vĩnh, hình như Thầy là
giáo sư của trường Chu Văn An, đặc biệt khi cho bài tập, Thầy đọc không cần sách.
Chúng tôi cũng có học Điện với kỷ sư Quyền, Thầy xuất
thân từ trường kỷ sư Điện Grenoble danh tiếng của Pháp. Thầy thường ngậm một miếng
chanh lúc dạy lớp, Thầy cho biết như thế rất tốt.
Kỹ nghệ họa chúng tôi học với thầy Nguyễn Văn Quang, Thầy tốt
nghiệp Kỷ sư Công nghệ khóa 1, học vào chiều Thứ Bảy, sau khi Thầy giảng bài,
chúng tôi vẽ bài tập, Thầy cho biết không kiểm soát, anh em có thể vẽ hay ra
ngoài chơi, trước khi về 15 phút Thầy sẽ điểm danh và bài tập tuần nầy, đầu giờ
tuần sau góp bài. Do đó, khoảng nửa lớp đi ra ngoài chợ Bến Thành, đi dạo ở đường
Lê Lợi, Tự Do, Nguyễn Huệ hoặc chui vào các rạp Ciné như Vĩnh Lợi, Casino Sàigòn,
Hồng Bàng, Nam Việt nhưng anh em thích nhất là rạp Lê Lợi, vì chiếu phim tình cảm
và đều là phim hay, các rạp ciné đó chiếu phim thường trực, còn Rex, Eden chiếu
phim theo suất, giá vé cao không hạp với túi tiền của học sinh.
Chúng tôi học với kỷ sư Nguyễn Văn Phúc, nhưng sau đó ông đi tu
nghiệp ở Hoa Kỳ nên kỷ sư Lê Tài Quấc thay thế, về sau kỷ sư Lê Tài Quấc ra ứng
cử Thượng nghị sĩ trong liên danh Bạch Tượng.
Năm sau cùng chúng tôi học với kỷ sư Trần Thế Can, ông xuất thân
từ Kỷ sư Công nghệ Phú Thọ, ông có tu nghiệp tại Hoa Kỳ, về nước dạy ở Cao Đẳng
Sư Phạm Kỹ thuật Phú Thọ. Thầy có người chị làm Hiệu trưởng trường Gia Long cho
nên Thầy có dạy Toán ở Gia Long và cưới một nữ giáo sư Gia Long.
Năm Đệ nhị, tôi có học Kinh tế học với Luật sư Vũ Tứ Cầu, ông dùng
bút bi đen, xanh lá cây, xanh dương, đỏ để trình bày bài giảng. Tôi đã chịu ảnh
hưởng của thầy Cầu, từ đó trong bài học cũng như những bài viết của tôi, tôi viết
chữ nhỏ và dùng bút bi nhiều màu để trình bày các tiểu mục.
Trái với việc nầy, tôi nhớ năm Đệ Tứ anh Trần Thanh Quang, con của
thầy Đặng và tôi đi học Việt Văn ở tư thục Phan Sào Nam trên đường Trần Quí Cáp
với thầy Toàn, Thầy viết rất tháo, chữ rất to cho kịp với lời giảng bài thao
thao bất tuyệt của Thầy, Trần Thanh Quang đã chịu ảnh hưởng nầy, anh lấy note
viết rất tháo, một trang vở học trò anh viết chừng 5 dòng !!
Về Triết, chúng tôi có học với giáo sư Nguyễn Mẫn, Triết chẳng
những khô khan, khó hiểu mà học với Thầy Mẫn không có chi hấp dẫn, nên khó tiếp
thu.
Về quý Thầy Giám Thị, có thầy Ngọ, thầy Phạm Văn Luật, Thầy Bùi
Văn Thạch, thầy Vũ Đức Ngạc, thầy Nguyễn Văn Nén. Trong số quý Thầy nầy, có thầy
Phạm Văn Luật để lại trong tôi dấu ấn sâu sắc.
Thầy Ngọ, rất tiếc tôi biết họ của Thầy, năm mới vào học Thầy hay phạt cấm túc học sinh, một hôm không có giáo sư dạy, thầy Ngọ vào ngồi giữ lớp, tôi ngồi cuối bàn, cắt móng tay, Thầy nghe tiếng lách cách, thế là tôi bị cấm túc, quyển sổ 100 trang, một mình Thầy ghi cấm túc học sinh đến 5, 6 trang, ai cũng lo sợ bị trừ vào điểm hạnh kiểm, nhưng đến dịp Quốc Khánh 26 tháng 10, Thầy vào lớp tuyên bố tha cho tất cả “anh em mừng hết hớn”.
Thầy Phạm Văn Luật quê ở Châu Đốc hay có dạy học ở Châu Đốc nên
có biết chú tôi, do đó Thầy quan tâm đến việc học của tôi.
Có năm Thầy là giáo sư hướng dẫn Hiệu Đoàn, thầy khuyến khích
anh Dương Văn Thơm và tôi ra tờ báo Xuân năm 1959 hay 1960, quay Roneo bìa 4 màu:
xanh, đen, vàng, đỏ. Giáo sư Lê Nguyễn Bá Tước cho giấy Stencil, chúng tôi in
100 số vào khoảng 40 trang, tiếc rằng ngày nay tôi không còn giữ được. Thầy Luật
giới thiệu tôi đến Thư viện Quốc Gia, nằm đối diện với Bộ Kinh tế, gặp ông Lê
Ngọc Trụ, Quản đốc Thư viện để mượn quyển sách của ông Pétrus Ký viết về Thất Sơn.
Đó là sách Pháp văn, ngày đó tôi không có hứng thú để viết về Thất Sơn, nên tôi
chỉ đọc qua loa rồi trả sách.
Năm 1962, tôi thi rớt Tú Tài 1, tôi bỏ Sàigòn về quê, gần ngày
khai giảng nhà trường ra thông báo cho học sinh muốn học lại phải làm đơn, phải
chọn 1 trong 2 sinh ngữ. Đến ngày chót, thầy Luật không thấy tôi không làm đơn,
nên thầy làm giúp và chọn cho tôi học Anh Văn.
Trước đây, tôi có viết bài Trường tôi, tôi có kể chuyện nầy và
cho rằng “Thầy Phạm Văn Luật đã xía vào số mệnh của tôi”. Bài nầy được báo Chiêu
Dương của Nhất Giang ở Úc đăng, hình như thầy Luật có người con gái ở đó, lấy bài
ấy gửi cho Phạm Minh Luân, Luân là con của thầy Luật đã từng học chung với tôi
từ năm Đệ Ngũ tới Đệ Nhị”. Luân giận tôi, nói rằng thầy Luật giúp cho, tôi không
cám ơn mà còn nói xấu Thầy. Chắc Luân hiểu nghĩa chữ XÍA đó một cách thông thường,
chớ Luân không nghĩ, khi đã nói “số mệnh” là do ông Trời định, vậy thì XÍA vào
việc của ông Trời khác với hai người phàm phu tục tử cãi lộn, có người thứ ba xía
vào.
Thầy Nguyền Văn Nén làm giám thị chúng tôi 2 năm liền lớp Đệ nhị
niên học 1962-1963 và Đệ nhứt niên học 1963-1964. Nay gặp lại Thầy với tên Nguyễn
Văn Nên, tôi hỏi, Thầy giải thích: “Tên tôi sửa có ra tòa”.
Thầy Giám thị Nguyễn Văn Nên
Cũng do Trần Thanh Quang đả đảo Trưởng lớp, rồi anh đề nghị tôi
thay, được anh em trong lớp ủng hộ thế là tôi làm Trưởng lớp, thường xuyên gặp
thầy Giám thị Phạm Văn Luật và Vũ Đức Ngạc, thầy Ngạc là người Bắc, nhà Thầy ở
Hòa Hưng, Thầy cao tuổi có nhiều kinh nghiệm, nên không có chi rắc rối phiền đến
Thầy, là Trưởng lớp hằng ngày phải gặp Giám thị để lấy sổ điểm danh, sổ ghi đầu
bài giảng, sổ ghi điểm và phấn cho giáo sư viết bảng. Cuối giờ phải mang các sổ
nộp lại văn phòng. Dù phải tiếp xúc một năm học như thế, nhưng tôi không có dấu
ấn nào về thầy Ngạc.
Tôi chỉ nhớ Thầy Lê Văn Chịa và Thầy Phòng, phu nhân của Bà Nữ Hiệu Trưởng Trường Nữ Công Gia Chánh, làm Tổng Giám Thị, còn thầy Lê Văn Thống tôi không nhớ khi tôi học Thầy làm Tổng Giám Thị hay dạy Pháp Văn, tôi không có học với Thầy giờ nào cả.
Tôi chỉ nhớ Thầy Lê Văn Chịa và Thầy Phòng, phu nhân của Bà Nữ Hiệu Trưởng Trường Nữ Công Gia Chánh, làm Tổng Giám Thị, còn thầy Lê Văn Thống tôi không nhớ khi tôi học Thầy làm Tổng Giám Thị hay dạy Pháp Văn, tôi không có học với Thầy giờ nào cả.
Thầy TGT Lê Văn Thống
Người ta chỉ có 7 năm học trung học, tôi phải 8 năm, năm thi rớt
tôi học lớp Đệ nhị A niên học 1961-1962, được xếp hạng 4/37 học sinh. Thế mà rớt
2 lần thi kỹ thuật và 2 lần thi phổ thông. Vị chi thi rớt 4 lần trong năm. Thời
tôi đi học các ông Hiệu Trưởng sau đây: Kỷ sư Điện Đỗ Văn Trà, Kỷ sư Công Chánh
Nguyễn Đăng Hoàng, Thanh tra Học Chánh Phạm Xuân Độ, Kỷ sư Công nghệ Cao Thanh Đảnh.
Rất cảm phục trí nhớ của anh Ái Tông. Bài viết thật chi tiết và thật hay, khiến chúng tôi dần dần hồi tưởng lại thời học sinh qua mau.
ReplyDeleteAnh còn post những hình ảnh cũ, đầy ắp kỷ niệm khó quên.
Cám ơn anh nhiều. Thân chúc sức khỏe anh chị.
Nguyễn H. Hiệp
Rất cảm phục trí nhớ của anh Ái Tông. Bài viết thật chi tiết và thật hay, khiến chúng tôi dần dần hồi tưởng lại thời học sinh qua mau.
ReplyDeleteAnh còn post những hình ảnh cũ, đầy ắp kỷ niệm khó quên.
Cám ơn anh nhiều. Thân chúc sức khỏe anh chị.
Nguyễn H. Hiệp