Về nguồn gốc Cù lao Năng Gù, theo tích xưa truyền lại có ông Dương Văn Hóa từ Cần Lố dẫn theo gia nhân đến cù lao Năng Gù khai hoang lập nghiệp, nơi đó thuở ấy trên đất cù lao là những bụi tre gai, đế sậy và có cả thú rừng như Cọp, heo rừng sinh sống. Ngày nay trong sân Đình, bên tay phải có cây Đa (cây Sộp) có cái Miếu, đó là Miếu thờ ông Thần Hổ (Ông Cọp), ngày nay vẫn còn, nhưng biến thành Miếu Thổ Địa, vài chục năm trước có người có con khó nuôi, họ ẩm con đến đó "ký bán cho ông Hổ".
Ông Dương Văn
Hóa được dân làng tôn trọng là bậc Tiền Hiền, thờ tự trong Đình Thần, mỗi năm đều
có cúng tế ông vào ngày mồng 10 tháng 5 âm lịch. Sau nầy con cháu họ Dương lập
một phủ thờ họ Dương, được xây cất trên đất con cháu họ Dương bên cạnh Đình làng.
Trong làng có
ngôi chùa Bình Phước Tự nguyên thuộc gia đình ông Dương Văn Tranh, con trai thứ
Năm là Dương Văn Nghét là chủ tự, một thời gian có hòa Thượng Thích Phước Quý
trụ trì vào thập niên 1950, sau đó HT. Phước Quý viên tịch, nên có anh Dương Văn
Bắn làm thủ tự vào thập niên 1960, chùa lợp lá dừng vách lá buông, nay chùa đã
tân trang do TT. Thích Giác Minh làm trụ trì từ năm 2002. Ngôi chùa nầy cách Đình
làng chừng 500 thước.
Ngày xưa Ban
Hội Tề làng có xây cất ngồi chùa làng nằm ở đất của Làng thuộc ấp Bình Thới, cách
đường lộ chạy quanh cù lao chừng 200 thước. Ngày nay là Chùa Đông An.
Trước năm
1945 Ban Hội Tề làng Bình Thủy đã lấy tất cả đất Thổ canh và Thổ cư từ Rạch Cát
ra tới sông Hậu Giang là đất của làng, ai chiếm canh hàng năm phải đóng thuế
cho Công nho của làng để Ban Hội Tề lấy huê lợi trang trải cho chi phí cúng Đình
mỗi năm 3 lệ: 21, 22 tháng Giêng, Mồng 9 Mồng 10 tháng Năm và 19, 20 tháng Chạp,
tu bổ Đình Thần và những lợi ích công cộng khác.
Con gái thứ
4 của Hương Sư Lâm Văn Nguyện là Lâm Thị Hương, trước 1975 chị Hương học ở Long
Xuyên rồi xuất thân là Giáo viên dạy ở Trường Tiểu Học Bàn Cờ nằm trong khu Cư
Xá Đô Thành, chị lập gia đình sống ở Sàigòn khu Vườn Chuối, Quận 3. Sau 1975,
gia đình chị có vượt biên, nhưng không thành công, rồi chị hiến đất cho 1 ni cô
lập thành Kỳ Lâm Tự nằm trong giồng đất giữa Rạch Chanh và Rạch Cát.
Trong làng
thời Pháp thuộc, có ông quan Phủ Nguyễn Hà Thanh hồi hưu, ông chọn làng tôi để
an cư, ông có mua đất từ bờ sông vào tới rạch Chanh (có lẽ xưa kia nước trong rạch
có đế, sậy nên bị phèn, nước lợ chua nên dân gian đặt tên là Rạch Chanh, nằm phía
Xép Năng Gù), còn con rạch khác chảy từ đầu cù lao, nên nước trong rạch có pha
lẫn cát, do đó dân gian đặt tên là Rạch Cát, nằm phía Sông Hậu, trong đất ông
Phủ hiến một phần để cất trường làng, nay là Trường Tiểu học A Bình Thủy, phía
sau đó lại hiến một lô đất làm nghĩa địa và ông cũng hiến một phần đất xây nên
cái Miếu 3 gian, phía sau Miếu là phần mộ của ông và con cháu sau nầy.
Tưởng cũng nói
thêm nhà của ông Phủ Nguyễn Hà Thanh ngày nay không còn, nghe cô tôi kể lại nhà
ông có lầu, ông họ Đoàn do sự việc “giặc chày vôi” thời Tự Đức, con cháu của
“giặc chày vôi” chạy vào trong Nam, phải thay họ, đổi tên.
Nhân tiện cũng
nói thêm, bên kia Xép Năng Gù (sông Năng Gù-chạy dọc theo Quốc lộ 91 đường Long
Xuyên Châu Đốc), đối diện với nhà ông Phủ Nguyễn Hà Thanh bên kia sông là biệt
phủ của Thầy Phó Phạm Phú Quý, có hàng rào sắt cập theo lộ 91, hàng rào nầy có
4 cổng ra vào, 2 cổng giữa có lầu, 2 cổng 2 bên xe nhà chạy ra vô được, cổng rào
có cẩn gạch hoa nổi, mua từ bên Pháp, nên cổng rào nầy là 10 thì cổng rào nhà
Chú Hỏa hay Dinh Độc Lập chỉ bằng 1 mà thôi. Đến năm 1972 người Mỹ sang Việt
Nam, mở rộng lộ 91 nên phá cổng rào nầy, được bán lại để xây tường rào cho Bệnh
viện Hòa Hảo (Phú Tân).
Thầy Phó Quý
(Phó Cai Tổng Phạm Phú Quý) giàu có không thể tưởng, ruộng đất của ông “cò bay
thẳng cánh”. Dân chúng vùng đó kính nể ông, nên chỉ gọi là “Thầy Phó” mà thôi.
Biệt phủ của ông sau 1945, con cái phải bỏ nhà lên tỉnh Châu Đốc ở lánh nạn, nơi
đó bị Lâm Thành Nguyên, Tướng của giáo phái Hòa Hảo lấy làm Trường Đào Tạo Sĩ
Quan Hòa Hảo, cũng như Trần Văn Soái có trường Đào Tạo Sĩ Quan ở Cái Vồn.
Vì ruộng đất
Thầy Phó rộng lớn nên trong ruộng ông phải đào nhiều con kênh, nên nông dân đạt
tên là Kênh Ngang, Kênh Giữa … và ông cũng cho đào một con kênh trổ ra Xép Năng
Gù, nên ông phải tự xây cầu đúc trên lộ 91, ngày xưa nó có tên là “Cầu Thầy Phó”,
ngày nay nhân viên của Ty Công Cánh An Giang không rành nên ghi là “Cầu Thầy Phó
Ký”. Đúng ra phải ghi là “Cầu Thầy Phó Quý”
Nhân đây xin
viết luôn, con rạch nầy nước chảy ra Xép Năng Gù cũng là cái hướng đâm thẳng
qua Trường tiểu học A Bình Thủy trên cù lao Năng Gù là vùng đất của quan Phủ hồi
hưu Nguyễn Hà Thanh, nên ông Nguyễn Hà Thanh cho đào một cái mương từ trong Rạch
Chanh cập bên hông nhà ông, đâm thẳng qua biệt phủ của Thầy Phó Quý. Do con kênh
và cái mương đó mà nhà ông Phủ về sau con cháu sa sút, gom cây ngói, cất lại một
cái nhà gỗ 3 gian lợp ngói trên nền gạch Tàu,
còn nhà Thầy Phó Quý nay chỉ còn cái nền, mặc dù ngày xưa năm 1945 trong
phủ thờ, tôi theo mấy anh học trò lớn, chui vào trong đó vẫn còn nguyên cập ngà
voi, bộ lư đồng to khắc chạm hình bụi tre bằng bạc, chiếc xe đạp trẻ con màu hường
và những cái độc bình to, cao. Mấy anh đó dẫn tôi vào phủ thờ chỉ tìm và lấy pháo
chà, rồi chúng tôi leo lên cổng lầu ở hàng rào, lấy cây thước vuông học trò, dộng
xuống miếng pháo trên ngạch cửa sổ, kết quả pháo nổ “bốp” còn cây thước của tôi
đã tét cả gang tay !
Ông Dương
Văn Hóa (1723-1818) người gốc ở Cần Lố, Cầu Cần
Lố trên Quốc lộ 30 (Km 29+883 QL.30), qua sông Cần Lố, nối thị trấn Mỹ Thọ và
xã An Bình (huyện Cao Lãnh - tỉnh Đồng Tháp).
Cầu Cần Lố Effell được xây đựng trước năm 1975, một công trình giao
thông chiến lược vào cửa ngõ Cao Lãnh. Sau giải phóng mới làm Cầu mới bằng bê tông
cốt thép khá lớn và cao so cầu Cần Lố cũ.
Bộ phim truyện VN Cánh đồng hoang
từng quay cảnh nông dân bỏ Đồng Tháp Mười bơi xuống ba lá chạy giặc ở cây cầu
này.
Như thế chúng ta biết rằng trước tiên ông Dương Văn Hóa đến Cù lao Năng
Gù khai hoang, lập nghiệp. Về sau có ông Phủ Nguyễn Hà Thanh dùng nơi đây an cư
sau khi về hưu, hiến đất cho nhà cầm quyền Pháp cất trường, khai hóa dân trí từ
đó về sau. Ông Phủ Nguyễn Hà Thanh có người cháu nội là Nguyễn Văn Đe xuất thân
từ Ecole Normal de Saigon, tốt nghiệp làm Thầy giáo ở tỉnh Sa Đéc, Long Xuyên rồi
về hưu trước năm 1945, có cháu cố là thầy giáo Nguyễn Hoa Hẩu, con của thầy giáo
Nguyễn Văn Đe.
Năm 1947, ông Nguyễn Hoa Hẩu lấy trường công mở lớp dạy tư, tôi đã theo
học tư với ông, sau khi đã học vở lòng ở trường làng Bình Mỹ, bên kia xép Năng
Gù với thầy giáo Lê Văn Thọ, sở dĩ tôi qua sông học vì chú tôi làm Trưởng giáo
bên ấy, hàng ngày chú tôi bơi xuồng từ bên Cù lao sang bên kia sông để dạy, hai
trường gần như đối diện nhau qua con sông. Năm 1950, đang học tư tôi tự xuống tỉnh
Long Xuyên dự thi và đậu bằng Sơ học (tốt nghiệp lớp 3).
Năm sau 1951, trường được nhà nước mở cửa lại dạy lớp Năm, lớp Tư và lớp
Ba. Tôi theo học và ngồi lại lớp 3 vì nhà không đủ tiền cho tôi xuống tỉnh học
lớp Nhì, do anh tôi đang học lớp Tiếp Liên ở tỉnh, để thi lại vào Trung học Thoại
Ngọc Hầu, Long Xuyên.
Năm 1954,
cha tôi mất vì bệnh lao, lúc ấy chưa có thuốc Peniciline, năm sau mới có thuốc
để trị thì cha tôi đã mất rồi. Trong năm nầy, tôi được lên Châu Đốc ăn ở nhà chú
tôi làm thầy giáo Trường Nữ, tôi học lớp Nhì Trường Nam với thầy Lê Quang Điện
rồi lên lớp Nhất E học với thầy Châu Văn Tính, thầy dạy giỏi, sau thầy làm Hiệu
Trưởng rồi Thanh Tra Tiểu Học.
Cũng nhờ có
những vị tiền bối khai phá quê hương tôi, nên tôi được học hành tương đối mở
mang trí tuệ với xã hội.
Sau khi được
miễn thi Tiểu học, tôi dự thi tuyển vào Trung Học Kỹ thuật Cao Thắng với hơn 3
ngàn thí sinh, tôi đậu hạng 132/250 thí sinh Trúng tuyển, nên được chú tôi cho
lên Sàigòn theo học THKT Cao Thắng, tôi có học bổng toàn phần 400 đồng/tháng.
Tốt nghiệp Kỹ
thuật Cao Thắng, tôi dự thi tuyển vào Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật Phú Thọ, lấy
10 thí sinh chính thức, tôi đậu dự bị hạng 12, đến khi nhập học chỉ có 7 người
theo học, sau đó có anh Nguyễn Viết Hoạt được học bổng đi Pháp, nên chỉ còn có
6 người theo học. Học bổng 1000 đồng mỗi tháng.
Sau 2 năm học,
tôi tốt nghiệp ra trường, được phân bổ đi dạy tại Trung học Kỹ thuật U-Út Banmêthuột.
Đầu năm 1968 tôi bị động viên đi khóa 27 Sĩ Quan Trừ Bị Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Tháng 8 năm 1968 ra trường lại được đi học tiếp chuyên môn tại Trường Quân Cụ Gò
Vấp theo khóa Quân Cụ Cơ Bản, rồi khóa chuyên môn sửa chữa Quân Xa, Vù Khí. Tháng
5 năm 1969 ra Trường, tôi chọn về vùng IV, được phân bổ về Đại Đội Bảo Toàn, Tiểu
Đoàn 21 Tiếp Vận thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Sư Đoàn có bản doanh ở Bạc Liêu, còn
Tiểu Đoàn chúng tôi có bản doanh nằm trên đường đi Bãi Sào ở Sóc Trăng. Tôi giữ
chức Trung Đội Trưởng Sửa Chữa Lưu Động, đóng quân tại thị xã Cà Mau. Đến tháng
7 tôi được chuyển về đơn vị của Tiểu Đoàn, giữ chức Trung Đội Trưởng Hậu Cứ. Đến
giữa tháng 9 năm 1969 tôi được biệt phái về dạy học lại ở Trung học Kỳ thuật
Banmêthuột.
Tại Trung học
Kỹ Thuật Banmêthuột tôi được đề bạt làm Phụ tá Học Vụ và Học Sinh Vụ (tương đương
Tổng Giám Thị và Giám Học) kiêm Phát ngân viên.
Đến tháng 10
năm 1970, tôi được thuyên chuyển về Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, địa chỉ
55C Tự Đức Phường Đa Kao, Quận Nhất, Sàigòn.
Đến tháng 10
năm 1974 tôi được Bộ Giáo Dục và Thanh Niên cử làm Hiệu Trưởng trường nầy và đến
tháng 4 năm 1975, miền Nam đứt bóng, sau đó tôi bị đi Học Tập Cải Tạo từ 1975 đến
16-9-1977 được tạm tha. Tháng sau tôi vào làm nhân viên Phòng Thanh Tra Sở Lao
Động, Năm sau tôi được chuyển lm nhân viên Phân Viện Thiết Kế thuộc sở Công
Nghiệp. Về sau đơn vị nầy cải biến thành Công Ty Trang Bị Kỹ Thuật, tôi được chỉ
định làm Trưởng Phòng Thiết Kế, rồi Trưởng Phòng Kinh Tế Kế Hoạch, cho đến tháng
4 năm 1991 tôi rời Tân Sơn Nhất ngày 2-4-1991, đến Bangkok ở 1 tuần, ngày 9 tháng
4 năm 1991 lên máy bay rời Bangkok, đến San Francisco ngày 9-4-1991 và đến
Minnosota ngủ 1 đêm, về tới Louisville ngày 10-4-1991, gia đình tôi ở tại đây từ
đó, thuộc diện HO.
Tôi đã tốt
nghiệp Sư Phạm Kỹ Thuật, học thêm có bằng Cử nhân, đang theo học Cao học thì miền
Nam bị đứt bóng, Ra nước ngoài tôi phải lo cho gia đình, nên không thể tiếp tục
con đường học vấn.
866418112025
















No comments:
Post a Comment