Pages

Friday, April 29, 2016

Võ Đức Thu




(1911-1964)
Nhạc sĩ Võ Đức Thu sinh năm 1911, tại Sàigòn, thân phụ ông là giáo sư trường Tabert, khi còn là học sinh trường nầy, thân phụ ông đã được học vĩ cầm và phong cầm với các Sư huynh, cũng là nhạc sĩ thường hòa nhạc với các nhạc sĩ ngoại quốc ở Hotel des Nations xưa ở góc Boulevard Bonard (Lê Lợi) và Charner (Nguyễn Huệ) khu Eden.

Võ Đức Thu được học đàn rất sớm với thân phụ, năm lên bảy, ông học dương cầm và theo lớp hàm thụ Sinat tại Pháp để học phần lý thuyết. Bài học do thân phụ ông giảng giải lại.

Năm 1925, lên mười, Sàigòn mới bắt đầu mở trường dạy Âm nhạc dưới sự hướng dẫn của giáo sư ngoại quốc, tức là École de Musique de Saigon, thường được gọi là Philharmonique, ông được cái hân hạnh là người Việt độc nhất được theo học lớp dương cầm với các khóa sinh ngoại quốc, mặc dầu tuổi hãy còn nhỏ. Cũng năm ấy, ông chiếm được giải danh dự về dương cầm - Prix d’Honneur de Piano.

Sau đó, ông ngỏ ý với thân phụ muốn sang Pháp để được tiếp tục học tại Nhạc viện quốc gia Pháp, nhưng vì gia đình không dư giả, nên ông phải ở nhà, tiếp tục học riêng với bà Armande Caron vốn giải nhứt về dương cầm và hòa âm Nhạc viện quốc gia Pháp. Trong những năm này, ông thường được các ban nhạc ngoại quốc, mời đệm dương cầm trong những buổi hòa nhạc tại nhà Hát lớn Đô thành và tại Philharmonique.

Năm 1937, ông bắt đầu dạy dương cầm, số nhạc sinh của ông rất đông, gồm có người Việt, người Pháp, người Hoa, người Ấn, người Nhật, người Hoa Kỳ, ông nhận thấy trong số này, có một số người Việt được học hỏi ở nước ngoài, đã thành tài và đã nổi danh.

Ngoài những giờ dạy nhạc, trong bảy năm liền, vì sinh kế, ông đã gia nhập một ban nhạc ngoại quốc để hòa nhạc mỗi buổi chiều tại Khách sạn Palace, và đây là một dịp may để cho ông học hỏi thêm về nhạc Cổ điển Tây phương, vì ban nhạc này gồm có những nhạc sĩ có tiếng như Yvonne Leclerc, đoạt giải nhất về violon Nhạc viện Quốc gia Pháp, Renée Bondie đoạt giải nhất về violon Nhạc viện Toulouse, Becchi tốt nghiệp Nhạc viện Milan về violoncello, Charles Roques đoạt giải nhất về bassoon Nhạc viện Quốc gia Pháp.

Năm 1940. một trong những nỗi vui lớn của ông là thành lập ban nhạc cho hội Đức trí Thể dục, gồm toàn người Việt và điều khiển ban nhạc hai chục người này trình diễn vào những buổi lễ, buổi hát do hội tổ chức tại hội quán và tại nhà Hát lớn Đô thành.

Năm 1941, ông mới bắt đầu soạn nhạc. Ông cho biết, ông rất chú trọng về loại nhạc thuần túy, chủ tâm là nâng cao trình độ thưởng thức nhạc của thính giả Việt, các tác phẩm của ông đã được các nhà xuất bản trong nước và ngoại quốc ấn hành như Tinh Hoa, An Phú, Hương Thu, Huỳnh Lâm, SEMI tức là Société d’Editions de Musique Internationale - Hội các nhà xuất bản Quốc tế về Âm nhạc. Riêng các bài sáng tác thuộc các loại hòa tấu khúc, độc tấu dương cầm, song tấu dương cầm và vĩ cầm đã được chính ông trình bày nhiều lần trên sân khấu các nhà hát lớn ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Nam Vang, Huế, Hải Phòng, Hà Nội và lại được Trần Văn Khê, Võ Đức Lang trình bày ở Pháp. Loại ca khúc được các ban nhạc trình bày nhiều lần trên làn sóng điện các đài phát thanh trong nước và ngoại quốc và đã thu thanh vào dĩa thương mại của những hiệu dĩa Oria, Việt Nam, Philip.

Liên tiếp các năm 1948, 1949, 1950, 1951, ông cùng nhạc sĩ Lê Thương đưa “Xuân Thu nhạc kịch” ra mắt khán giả tại các nhà hát lớn ở Thủ đô và tại Nam Vang. Và trong những năm 1951, 1953, 1954, ông thường được mời trình tấu nhạc tại các nhà hát lớn Huế, Hải Phòng, Hà Nội với ban hợp ca Thăng Long và ban Gió Nam.

Năm 1955, ông dự Hội Chợ Triển Lãm Quốc Tế tại Nam Vang cùng phái đoàn Văn nghệ Việt Nam,và ông được bầu làm chủ tịch bộ môn Tân nhạc trong Đại hội Văn hóa toàn quốc.

Năm 1958, ông viết nhạc cho hai cuốn phim Việt: Sự tích Trầu Cau Áo dòng đẫm máu do hang Mỹ Vân sản xuất.

Năm 1959, ông đứng ra tổ chức một ban nhạc Biệt thể cho đài phát thanh Quốc gia và đài phát thanh Quân đội.

Vào năm 1963, trả lời phỏng vấn của Nguyễn Ngu Ý trên tạp chí Bách Khoa, ông thố lộ tâm tư: …, tôi chỉ là một nhạc sĩ yêu chuộng tự do và lúc nào cũng có một đời sống hoạt động độc lập, vì thế nên tôi không có những ước vọng quá xa vời. Tôi chỉ mong mỗi ngày có công việc làm để nuôi sống gia đình và được sống gần gũi với dân chúng và thiên nhiên để trong những sáng tác phẩm của mình, được nói lên đời sống thực tại của xã hội. Nhưng tôi rất hy vọng rằng nhạc Việt nói chung và Tân nhạc nói riêng sẽ sống mạnh và sẽ được tiến triển nhiều hơn khi nước nhà được thống nhất và thanh bình trở về với chúng ta.

Võ Đức Thu mất vào tháng 9 năm 1964 tại nhà số 27 đường Bùi Chu, Quận 1, Sàigòn, thọ 53 tuổi.

Nhạc sĩ Võ Đức Thu là một trong những nhạc sĩ lão thành của nền Tân Nhạc Việt Nam. Ông đã sáng tác từ thời phôi thai của nền Tân Nhạc Việt Nam.

Nhạc phẩm:

- An Phú Đông
- Bình minh ca khúc
- Đoàn ngư
ời trên biển cả
- Đồng quê
- H
ồn quê
- Mưa đêm thu
- Nh
ớ ai
- Nhớ người ca vắng
- Quyết tiến
- Tống biệt


Tài liệu tham khảo:

- Bách Khoa phỏng vấn nhạc sĩ Võ Đức Thu Web: dactrung.com

Nhạc phẩm Quyết tiến hợp ca

https://www.youtube.com/watch?v=yzPZsGx9KMM





4 comments:

  1. Nhạc Sĩ ( Pianist-Compositor) Võ Đức Thu sinh năm 1911 (một ngàn chín trăm mười một) chứ không phải 1915 như nhiều bài viết về Ông. Hiện giờ ỏ nhà vẫn còn giữ " Trích -Lục Bộ Khai Sinh-Khai Tử " của Ông đều ghi là 1911. Con trai trưởng của ông là Pianist Võ Đức Lang sinh năm 1930, do vậy nếu ghi NS Võ Đức Thu sinh năm 1915 thì có vẻ vô lý. Võ Hoàng Dzung -cháu nội Ông Võ Đức Thu.

    ReplyDelete
  2. Cám ơn anh Võ Dzũng, xin vui lòng cho biết nhạc sĩ Võ Đức Thu mất năm nào ? Tại đâu ?

    Cám ơn anh Võ Dzũng.

    ReplyDelete
    Replies
    1. NS Vỗ Đức Thu Mất tháng 9 năm 1964 tại 27 Bùi Chu Sài Gòn

      Delete
  3. This comment has been removed by the author.

    ReplyDelete