Để kỷ niệm ngày Mother’s Day 2023
Một buổi sáng
sớm vào tháng 11 năm 1954, tôi chuẩn bị đi học thì có anh Ba Tịnh, bà con xa ở
xóm tôi, anh làm tài xế xe đò Thái Nguyên chạy đường Long Xuyên-Châu Đốc, anh
ghé nhà chú tôi, báo cho chú tôi biết mẹ tôi bệnh nặng, cô nhắn tin bảo tôi phải
về gắp.
Thời gian đó,
tôi mới vào lớp Nhì trường Nam tỉnh lỵ Châu Đốc và đang ở nhà chú tôi, để đi học
được vài tháng, sau khi tôi đã thất học vài năm. Tôi nhớ ngày đầu năm, vào lớp
Thầy giáo muốn biết trình độ học trò, từ những làng xa không có trường lớp cao
nên về tỉnh học, như ở Núi Sam, Cồn Tiên, Châu Giang, Mỹ Đức, Tịnh Biên, Bình
Di Bắc Nam …, nên Thầy giáo cho bài tập gồm có cộng trừ nhân chia. Cộng, trừ tôi
làm trúng nhưng nhân với chia tôi làm sai vì không thuộc cữu chương. Mặc dù năm
1950 tôi xuống trường tỉnh lỵ Long Xuyên thi đậu văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học.
Vì anh kế tôi đang
theo học tại trường Nam Tiểu Học tỉnh Long Xuyên, nên cha mẹ tôi không đủ sức
nuôi thêm tôi xuống tỉnh học. Đầu năm cha tôi qua đời, nên mẹ và anh tôi quyết định
gửi tôi ở nhờ nhà người chú đang làm thầy giáo dạy học tại Trường Nữ tỉnh lỵ Châu
Đốc, để tôi đi học lại.
Sáng hôm đó,
chú tôi đang chuẩn bị đi dạy, được tin chú bảo tôi:
- Chú cho tiền
xe, con đi về ngay đi, việc nghỉ học ở trường để chú xin phép cho con.
Thế là tôi ra
bến xe, mua vé xe đi về nhà. Với tâm trạng lo âu, không biết bệnh tình mẹ tôi
ra sao? Tháng trước tôi có về nhà, mẹ tôi vẫn bình thường, chỉ cho biết trong
người không được khỏe. Định sẽ về quê ngoại chữa bệnh. Việc nhà có cô tôi trông
nom. Cô tôi vốn không lập gia đình, ở chung nhà với cha mẹ tôi sau khi bà nội tôi
mất, lúc đó tôi chưa sinh ra đời.
Tôi về đến nhà
thì có anh rể tôi ở làng bên, anh cũng vừa đến nhà để đi thăm má tôi, nhưng anh
chưa biết quê ngoại tôi ở đâu, nên cô tôi bảo anh ấy chờ tôi về rồi cùng đi, vì
tôi biết đường đi về quê ngoại cùng nhà cửa của các dì.
Khi tôi về tới
nhà, cô tôi cho biết mẹ tôi bệnh, muốn đi Núi Sập (Thoại Sơn) để chữa bệnh, tôi
biết núi Sập ở gần quê ngoại, nhưng tôi chưa có đến đó, nên cô tôi bảo:
Con đi xuống Bờ
Ao, rồi hỏi thăm Dì Ba hoặc Dì Năm thì biết mẹ con chữa bệnh ở đâu. Vì nghe mẹ
con bệnh trở nặng nên chị Ba, chị Tư và anh Năm con đã xuống đó hết rồi. Bây giờ
con đi với anh Ba con, nó cũng muốn xuống đó thăm má con và thăm vợ con nó.
Thế là anh rể
tôi chạy xe Mobylette vàng, chở tôi đi từ nhà ở Năng Gù xuống Long Xuyên rồi vào
Phú Hòa cũng có tên gọi là Bờ Ao. Từ Long Xuyên đi vào Bờ Ao lúc đó phải đi
theo con đường lộ chạy dọc theo sông Long Xuyên. Dọc đường trên con lộ nầy, có
gặp một đám tang bên vệ đường, anh rể tôi hỏi:
- Có phải đám
ma nầy không cậu ?
Do anh rể tôi
chưa từng đi Bờ Ao lần nào, nên tôi giới thiệu:
- Khi nào mình
chạy qua một cái cầu đúc cao, sẽ qua chợ
bên tay trái, cách đó vài căn nhà có con đường bên tay trái, anh quẹo vào đó rồi
qua cái cầu sắt, gần cầu sắt có cái Đình, đó là Bờ Ao, xuống cầu mình đi về tay
phải chừng 5, 6 trăm thước có cái cầu cây. Đó chính là quê ngoại, có nhà hai dì
và nhà Mợ Hai.
Rồi chúng tôi
cũng đến nhà Dì Ba tôi, hỏi Dì mới biết rằng mẹ tôi nằm trong chùa bên Bờ Ao ngày
đó tôi không biết tên chi, nay mới biết là Chùa Khánh Hòa. Tôi không hiểu sao,
mẹ tôi không nằm một trong 2 nhà của hai Dì lại nằm trong chùa để dưỡng bệnh. Dì
Ba biết chúng tôi chưa dùng cơm, nên dì bảo:
- Để dì dọn cơm ăn
rồi hai cháu đi sang chùa thăm má các cháu.
Dì Ba dọn cơm
ra, chúng tôi ăn với gia đình Dì, có anh Tư Triếu và chị Năm Huề.
Ăn cơm xong cũng
hơn 5 giờ chiều chúng tôi đi trở lại con đường cũ, ngay tại chỗ đầu cầu, có một
cái bót Nghĩa quân, qua khỏi Bót là tới Đình Phú Hòa, ở đây như là đầu cồn chạy
bọc đó một đổi là tới chùa.
Tôi và anh rể
tôi vào thăm má, má tô được nằm trên bộ ván ở nhà Hậu tổ, tôi thấy trên người má dắp cái mền, má
nằm như ngủ mê, chị Tư tôi lay thân má và nói:
- Má oi! Má!
Anh Ba với thằng Tông xuống thăm má nè má.
Tôi nghe tiếng
má tôi yếu ớt thốt ra:
- Ư ! Ơ !
Rồi má vẫn nằm
im, chị Ba tôi bảo với tôi:
- Em nằm bên cạnh
má đi !
Thế là tôi lên
bộ ván ngựa, nằm bên cạnh má tôi. Tôi không còn nhớ được lúc đó tôi nghĩ gì.
Mọi chuyện tôi
không còn nhớ rõ lắm. Cho đến lúc nào đó anh Hai Thâm, xưa kia là con nuôi của
má tôi nói trong nghẹn ngào:
- Cô Tư đã mất
rồi !
Có ai đó hỏi:
- Bây giờ là mấy
giờ.
Thời đó ban đêm
trong chùa thắp đèn dầu leo lét. không ai có đồng hồ đeo tay, trong chùa có nuôi
một anh mù chừng 30 tuổi, anh đi lại cái đồng hồ treo trên cây cột, gần bộ ván
má tôi nằm, anh lấy tay rờ rồi nói:
- Đúng mười giờ
!
Có ai đó hướng
dẫn, chị em tôi ra chánh điện đốt hương, lễ Phật và cầu nguyện cho mẹ tôi được
siêu thoát.
Từ đó cho đến
5 giờ sáng không ai ngủ, mọi người đều thức, đến 5 giờ anh Năm tôi và tôi ra
Long Xuyên, anh Năm tôi về nhà lo hậu sự cho má tôi,
còn tôi đi lên Châu Đốc báo tin cho chú tôi biết má tôi đã mất. Tôi không gặp
chú vì chú đi dạy, nên báo cho thím biết rồi tôi đi về.
Về tới nhà, thấy
má tôi được đặt nằm ở bộ ván phía dưới, chớ không đặt ở bộ ván giữa nhà, trên
người má tôi có đắp cái mền, trên cái mền đó chỗ ngực má tôi đặt một nãi chuối
lá Xiêm, ngoài sân mấy chú thợ mộc bà con đang rà lại cái hòm gỗ mới nhắc về, mấy
cô, thím đang gắp rút may áo quần tang chế.
Một lúc sau chú
Tám tôi về, Dượng Tư tôi từ Thị Đam xuống, Cô Dượng Sáu tôi từ Hang Tra ra, Cô
Năm tôi nhà ở trên chợ làng xuống. Dì Ba, Dì Năm, Mợ Hai tôi từ Phú Hòa lên. Nói
chung là thân tộc có mặt đầy đủ. Lễ phát tang bắt đầu khoảng 11 giờ trưa. Đến
khoảng hơn 4 giờ chiều thì Di quan, vì là mùa nước nổi, nên quan tài mẹ tôi được
đưa đi bằng chiếc xuồng có 2 người bơi, trên xuồng chỉ có anh Năm tôi ngồi phía
trước quan tài, bưng một cái khay, trong khai có đặt lư hương, bình hoa và cái
chung cúng nước. Xuồng chỡ quan tài bơi trên sông, còn những thân tộc đều đi bộ,
từ nhà đến nghĩa trang gia đình không xa hơn 1 cây số. Nghĩa trang gia đình nằm
trong khu đất có vườn cây dầu, là khu đất cao, nên không bị nước ngập.
Chôn cất má tôi
xong, về tới nhà thì khách khứa đã về hết, chỉ còn bác Hai tôi nhà gần đó nên bác
ở lại, chỉ chỗ cho anh Ba và anh Năm tôi đặt bàn thờ tang cho má tôi. Cũng căn
nhà đó, chỉ vắng một người thấy nó như quạnh hiu, trống trơn mênh mông. Khuya đó
chừng 5 giờ sáng, tôi được đưa sang sông, đón xe anh Ba Tịnh chạy, để lên Châu Đốc,
trở lại trường học.
Tôi nhớ sau
khi cha tôi mất, một hôm tôi làm lỗi chi đó, bây giờ tôi quên chỉ nhớ má tôi cầm
roi, gọi tôi rồi bảo:
- Vô nhà nằm
xuống, má phải đánh con mấy roi về chuyện nầy !
Nghe vậy, tôi
bỏ chạy trốn má tôi, tránh bị trận đòn đó.
Sau nầy cho đến
nay, tôi luôn ân hận vì đã không nghe lời mẹ, không nằm xuống chịu đòn cho mẹ đánh,
thật là bất hiếu.
Từ nhỏ cho đến
lớn, má tôi chưa hề đánh tôi bạt tay hay roi nào hết. Bị đòn là cha tôi đánh, ông
đánh không muốn ai can, không muốn nghe tiếng khóc. Càng khóc càng bị đòn nhiều
hơn, ai can ngăn cũng bị đòn nhiều hơn. Cho nên mỗi lần anh em tôi bị đòn. Má và
cô tôi có mặt ở nhà thì tránh đi chỗ khác, không bao giờ can ngăn.
Chuyện tôi chạy
trốn để khỏi bị má đánh đòn, tôi cho là mình nhỏ dại làm điều bất hiếu, sau đó
có muốn để cho má đánh đòn cũng không được vì má đã mất rồi.
Tôi nhớ có đọc
ở đâu đó về câu chuyện: Có một người đàn ông trung niên, thỉnh thoảng bị mẹ
bắt nằm xuống mẹ đánh đòn vì làm lỗi. Người đó không hề khóc, nhận roi vọt cho
vừa lòng mẹ. Một hôm anh ta bị mẹ đánh đòn, chịu đòn xong, anh ta khóc. Bà mẹ lấy
làm lạ, hỏi con:
- Sao hôm nay
mẹ đánh đòn con, đau lắm hay là oan ức mà con khóc ?
Anh ta vừa khọc
vừa trả lời:
- Không phải vậy
đâu mẹ ! Con bị đòn là đáng tội như những lần trước con cam chịu. Nhưng lần nầy
con khóc, vì roi vọt của mẹ nhẹ hơn những lần trước, con nghĩ mẹ không được khỏe
vì tuổi đã già, nên con khóc vì thương cho mẹ đó!
Tôi cứ nghĩ đó
là một trong Nhị Thập Tứ Hiếu, nhưng có thì giờ xem lại thì không phải, trong sách
nầy chỉ có Truyện 17 như sau:
Lão Lai Tử là người ở nước Sở, sinh vào đời Xuân Thu, đã 70 tuổi mà cha mẹ vẫn còn
sống, ông thờ cha mẹ rất có hiếu. Không muốn cha mẹ thấy con già nua mà lo
buồn, ông thường mặc áo sặc sỡ, rồi tay múa miệng hát trước mắt cha mẹ.
Lại có khi bưng nước hầu cha mẹ, ông giả vờ trợt té rồi ngồi khóc oa oa trước
mặt cha mẹ như trẻ nít mới lên năm lên ba vậy. Cha mẹ vui cười trước trò ngộ
nghĩnh của con mình.
Thế nên có thơ rằng:
Hý Vũ học Kiều sy
Xuân phong động thái y
Song thân khai khẩu tiếu,
Hỷ sắc mãn đình vi.
Diễn nghĩa:
Chơi đùa như con trẻ,
Gió xuân động áo hoa.
Cha mẹ già ưa thích,
Niềm vui rộn cửa nhà.
Còn việc má tôi nằm dưỡng bệnh trong chùa, theo sự suy đoán của tôi ngày nay như sau: Phía trước Chùa là con lộ, qua khỏi con lộ là con rạch Bờ Ao, Bao quanh chùa 2 trong 3 cạnh còn lại là đất của Dì Ba và Mợ Ba tôi, cả 2 miếng đất đó xưa kia là của ông Cố ngoại tôi. Có lẽ ngày xưa ông bà cố tôi cho người nào đó cất một cái Am, về sau trở thành Chùa, mẹ tôi lúc nhỏ đã quy y tại chùa nầy và chính vì thế mà mẹ tôi được nằm trong chùa dưỡng bệnh, nghe kinh. Mẹ tôi được Chùa đối xử như là con cháu của một thí chủ
Tôi nghe cô tôi kể lại, Bà Nội mất quàng lại 7 ngày, gia đình sắp xếp, mỗi ngày có 1 thông gia đi viếng tang, dịp nầy mỗi thông gia tế một con heo. Đến cha tôi mất buổi chiều hôm trước, trưa hôm sau chôn cất. Má tôi mất tối hôm trước, chiều hôm sau chôn cất.
Bà nội tôi
là cháu nội của quan phủ hồi hưu, cháu họ của ông Dương Văn Hóa, người lập làng
Bình Lâm, Tổng Định Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Long Xuyên, nay là làng Bình Thủy huyện Châu Phú tỉnh An
Giang, có con làm thầy giáo, nên muốn làm đám tang rỡ ràng, đưa quan tài đi bằng
nhà giàng, mượn của ông bá hộ Phạm Phú Quí, dinh thự của ông ta bên khia sông. Đám
tang có giàn nhạc lễ và học trò lễ.
Có lẽ sau nầy,
gia đình thấm nhuần đạo Phật, sợ tội phước, nhân quả, nên đám tang không còn làm
rình rang. Người chết trong 3 ngày thì cứ chôn cất không cần coi ngày tốt, xấu.
866412-5-2023
No comments:
Post a Comment