Sau những
năm 1945, lúc đó tuổi còn nhỏ lại ở nhà quê, nhưng tôi đã lậm tiểu thuyết vì đã
đọc những truyên ngắn, truyện dài của những tác giả thời đó như Nguyễn Công
Hoan, Tchya, Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Triệu Luật, Ngọc Giao, Thanh Châu, Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao đăng trong Tiểu Thuyết Thứ Bảy của nhà xuất bản
Tân Dân, phát hành từ Hà Nội.
Nguyên do vì
sau khi tôi đã đỗ văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, phải ở nhà chăng bầy dê gần chục
con, phải ở ngoài cánh đồng trông chừng dê cho khỏi bị chó cắn và không cho
chúng đi ăn vào những đám ruộng, người ta có trồng đậu hay bắp hoặc đi vào nhà
người ta ăn những cây trái họ trồng, giống dê thứ chi cũng ăn trừ lá trầu thì
cay và lá lúa thì nhám. Vì thường chỉ có một mình buồn, nên tôi đem theo tập
san Tiểu Thuyết Thứ Bảy của chú tôi đã mua để đọc giải trí.
Vì tiểu thuyết
lãng mạn nên chuyện tình cảm của tôi bi lãng mạn, tôi có tình yêu đầu đời vào
những năm 1951 hoặc 1952, ngày nay tôi không nhớ và tôi đã theo học Văn Chương ở
Đại Học, cũng như có những tác phẩm khảo cứu về Văn Chương.
Ngày nay đã
già, do vậy tôi muốn gom lại những bài viết của mình về chuyện tình cảm để làm
kỷ niệm. Trước tiên là chuyện:
Thư Tình Mực Tím
So là tên cô gái út của thầy giáo Chính, thầy vừa mới được tỉnh
thâu dụng để bổ về trường. Làng tôi cũng như một số làng khác có trường học,
trường gồm một dãi ba lớp học, và một căn nhỏ dành cho Trưởng giáo ở. Hầu hết
các trường đều được xây gạch, tô tường, quét vôi màu vàng và lợp mái bằng ngói
móc đỏ.
Mỗi lớp có một
dãi bàn dài ngồi được từ sáu đến tám học trò. Bàn đóng bằng gỗ dầu hay gỗ
sao dầy, trên mặt bàn có một tấm ván phẳng chạy dài suốt mặt bàn, bề ngang chừng
sáu phân, trên đó người móc những lõm tròn, sâu vài ly để cho học trò để bình mực
và những lõm hình chữ nhật hai đầu hình bán nguyệt ngang chừng bốn phân, dài gần
hai tấc, cho học trò để bút chì, bút mực, phần còn lại của mặt bàn là tấm ván
dài suốt, bề ngang chừng ba tấc, hơi nghiêng về phía học trò, dưới mặt bàn cũng
là tấm ván, phía trước là tấm ván cao chừng một tấc, hai đầu cuối cùng là hai tấm
ván, có sáu chân, tất cả tạo thành cái bàn có ngăn cho học trò để sách vở,
lại có tấm ván dài khác cũng dầy chừng hai phân có sáu chân, cao chừng nửa thước
để làm cái băng ngồi, bàn và băng ngồi được đóng ghép chung lại nhờ ba thanh
ngang và hai thanh dọc nằm trên nền gạch, tạo thành cái bàn học rất nặng, học
trò không thể đùa nghịch vô tình làm cho nó hư hỏng.
Từ năm 1945,
trường làng tôi đã bị bỏ hoang, Trưởng giáo gia nhập Thanh Niên Tiền Phong, còn
hai thầy giáo khác nghe nói cùng bỏ trường về quê của họ.
Nhà tôi gần
trường, ông thân tôi là hương chức làng, vì thời cuộc năm đó, tất cả hương chức
đều đứng chung đơn từ chức, nhưng các thầy giáo trước khi đi, họ đem chìa khóa
lớp học giao cho ông thân tôi giữ. Có vài lần, ông thân tôi đưa người quen đi
thăm lớp học, tôi được đi theo nên thấy trên tường có những bức tranh nào là cảnh
bến tàu Sàigòn, cảnh một buổi chợ ở vùng quê, cảnh tiễn đưa ở sân ga xe lửa …,
trong tủ có vài món thủ công của học trò như cái cộ, cái trục, cái cày… có thứ
làm bằng tre, có thứ bằng gỗ.
Có lúc anh
tôi cùng người bạn lấy trường mở lớp dạy tư, dạy được vài tháng anh tôi bỏ trường,
bỏ nhà lên Sàigòn lập thân, còn bạn của anh tôi cũng lên Sàigòn lập thân một thời
gian rồi trở về quê, sắm ghe máy theo kinh rạch miền Tây, hành nghề “bán thuốc
sơn đông mãi võ”.
Theo đó, một
người bà con lối xóm lấy trường, mở lớp dạy tư, học trò theo học cũng bộn. Vì
thầy giáo dạy tư ấy thứ Hai, dạy cho những con, em trong xóm nên học trò gọi thầy
là anh Hai, là chú Hai, là bác Hai trừ vài ba đứa ở xứ khác theo cha mẹ tản cư
đến, nên gọi đúng là Thầy. Tôi gọi là chú Hai.
Năm đó, chú
Hai tổ chức đưa một số học sinh xuống tỉnh đi thi, chú mướn một chiếc ghe, thuê
một người chèo ghe ấy, chú đưa một số học sinh đi thi, tôi có người quen, nên
đi xe đò xuống tỉnh, ở nhà người quen đi thi. Sau kỳ thi đó, chú xin được Ty tiểu
học tỉnh, làm Thầy giáo lãnh lương nhà nước, được bổ dụng dạy tại trường làng
cùng lúc với Thầy giáo Chính, do đó trường có hai thầy cùng dạy ở bước đầu.
Thầy giáo
Chính, nghe nói quê ở Chợ Mới, Thầy đến nhận việc đem theo cả gia đình với chiếc
ghe nhỏ có mui mái vòm, lợp lá. Gia đình Thầy có hai con trai và ba con gái, những
con Thầy là anh Quân, anh Quan, chị Liệt, chị Tuyết đều lớn tuổi, không còn đi
học nữa. anh Quân với anh Quan hằng ngày mỗi người ôm một chồng chiếu sáng đi
bán, đến chiều tối mới về. Chị Liệt, chị Tuyết ở nhà giúp thím giáo đi chợ, nấu
ăn. Chỉ có cô con gái út tên So chừng mười một, mười hai tuổi nên còn đi học.
Hai anh con trai vóc dáng bình thường, chỉ có mấy cô con gái nước da trắng,
gương mặt đẹp, nhưng cô con gái út thì đẹp hơn hết, nước da đà trắng hơn hai chị,
miệng nhỏ, môi lại đỏ như son, mũi thon nhỏ, đô mắt tròn và đen. Họ ăn uống
trên ghe, đậu ở bến sông của chú Hai, là bạn đồng nghiệp, là người quen duy nhất
của Thầy Chính, mỗi bữa họ ăn uống trên ghe, tối một số ngủ ở ghe, một số tá
túc nơi nhà chú Hai.
Lúc tôi còn
nhỏ nhà tôi và nhà chú Hai cách nhau chỉ một căn nhà khác, mấy căn nhà là bà
con, họ hàng nên không có hàng rào, đi qua đi lại thông thương, khi tôi lên năm
tuổi cha tôi mới dọn về nhà mới, cách trường vài chục thước, cách nhà cũ để lại
cho chú tôi ở chừng ba trăm thước, nên tôi vẫn thường về nhà cũ, chơi với mấy
thằng con chú tôi và con của chú Hai, nhờ đó tôi được biết gia đình Thầy giáo
Chính.
Chú Hai làm
Trưởng giáo, dạy lớp trên, có hai trình độ khác nhau, tôi chưa có bằng Sơ học học
với chú, có bằng Sơ học rồi cũng ngồi lại lớp học với chú, trong lớp cả con
trai với con gái học chung, cô So học lớp nầy.
Thầy giáo
Chính dạy lớp vở lòng, lớp học của Thầy đông học trò, tiếng ê a, tiếng thầy gõ
roi lên bảng vang dậy cả ngày, tôi không học với Thầy ngày nào, nên không rõ
tánh tình của Thầy ra sao, nhưng theo phán đoán Thầy giáo Chính trầm tĩnh hơn
chú Hai.
Tôi nhớ, có
lần thằng Bê là dân tản cư, có ghe gia đình hắn đậu ở bến sông trường bên kia
sông, nhưng trường đó không có thầy dạy, nên hắn ngày ngày phải qua học với chú
Hai. Vì nhà nghèo, hắn đi học mang theo thùng kẹo kéo, ra chơi hắn ra sân bán
cho học trò để kiếm tiền cho gia đình, hắn kém thông minh, ban đêm tôi thường
nghe hắn học bài từ bên kia sông dội đến nhà tôi bên nầy sông, cách nhau không
dưới năm mươi thước, vậy mà sáng ra chú Hai gọi hắn trả bài, hắn không thuộc,
có lần chú giận quá vớ ngay cái dùi trống trên bàn thầy giáo, đánh vào lưng hắn
mấy cái như chú thường đánh cái trống của trường đặt bên cạnh bàn của chú.
Một lần khác
chú giận thằng Đơn vì tội không thuộc cửu chương, chú đánh bằng cây thước kẻ
hàng gỗ mun có cẩn thau ở bốn góc, thằng Đơn bị tét gò má. Giờ ra chơi, hắn nhờ
tôi về nhà lấy cho hắn chút muối bọt, đắp vào chỗ bị thương cho tan máu bầm. Thầy
giáo xưa trên bực cha mẹ, vì xã hội tôn trọng đạo thánh hiền đã dạy: “Quân Sư
Phụ”.
Chú Hai là
Trưởng giáo, có nhà cửa nên nhường căn phòng Trưởng giáo ở trường cho gia đình
thầy giáo Chính ở, lúc nầy tôi đã thôi học, hằng ngày không còn gặp cô So ở
trong lớp nữa, tuy là cùng xóm, đi qua đi lại còn gặp nhau, nhưng không có chuyện
trò như lúc còn cùng lớp, cùng trường.
Tôi cũng
không có chơi thân với các anh, các chị của So nên tôi không thể đến trường để
gặp So trò chuyện, có những lúc tôi chợt nhớ khuôn mặt đẹp của So, giọng nói nhỏ
nhẹ ngọt ngào, tôi nghĩ như trong tiểu thuyết đã đọc được, để biết rằng tôi đã
yêu So.
Tuổi trẻ
luôn có những vụn dại, vì thầm yêu, trộm nhớ cho nên tôi muốn cho So biết rằng
tôi yêu nàng, nhưng không có dịp để nói, mà chắc như có dịp cùng không dám nói,
nên tôi đã viết thư bày tỏ tấm lòng của tôi với So, rồi tôi nhờ chú út Thửng là
người thường lui tới trường, có khi giúp công việc nặng nhọc mà anh Quân hay
anh Quan thường không có ở nhà. Tôi tin chú sẽ không đọc thư, tôi gọi bằng chú
vì là bà con, nhưng chú chỉ lớn hơn tôi một tuổi, không được thông minh, vì thời
cuộc nên bị thất học, chú chỉ biết đọc được mặt chữ thôi, tôi cẩn thận dặn dò
chú:
- Thư tôi gửi
cho cô So, đưa tận tay cô So, đừng cho ai thấy nghe.
Chú lấy thư
bỏ vào túi áo, cười đáp gọn:
- Ừ ! Đừng
lo tao đâu có ngu mậy !
Mặc dù vậy,
tôi tin chú nhưng rất hồi hộp, nghĩ chẳng may bị chị cô ta bắt gặp, hoặc cô ta
không yêu tôi, rồi đem lá thư đầy lời yêu thương ấy cho người khác đọc, họ sẽ
bêu xấu tôi thì sao ?!!
Ngày hôm sau
chú Thửng đến nhà, gặp tôi chú cười trên nét mặt bảo:
- Ăn xoài
chín cây không ? Đi theo tao !
Tôi biết nhà
chú có mấy cây xoài, đang mùa xoài, nhưng xoài chín cây chỉ là cái cớ, để kéo
tôi ra khỏi nhà. Theo chú ra tới cổng, chú móc túi đưa cho tôi lá thư, nói nhỏ
vừa đủ nghe:
- Nó đưa cho
mầy lá thư đây !
Tôi hỏi
thêm:
- Có dặn gì
nữa không chú út ?
- Không chỉ
có vậy. Thôi tao dìa nghe.
Chú út Thửng
về rồi, tôi đi vào nhà lòng hồi hộp từng giây phút, lo nghĩ mình có được cô
nàng yêu thương không đây ?
Nhà trước
không có ai, cha tôi đi khỏi, còn mẹ tôi với hai chị đang lo cơm nước bữa trưa
trong bếp, tôi lấy quyển thơ Lục Vân Tiên mở ra bỏ thư của nàng vào rồi leo lên
võng nằm đọc thư của nàng viết mực tím trên tờ giấy học trò.
Anh Thanh,
Từ lâu em
nghĩ rằng anh chỉ để ý tới em cũng như mấy cô gái khác trong lớp, trong trường
nhưng bây giờ em mới được biết anh yêu em. Em mừng vô cùng, anh Thanh biết
không ? Vì em cũng yêu anh.
Trong nhà,
trừ ba má em với anh Quân và anh Quan, còn chị Liệt và chị Tuyết thỉnh thoảng lại
nói về gia đình anh cho nên em cũng nghĩ đến anh, vài hôm mà em không trông thấy
anh đi qua nhà em cũng nhớ hình bóng anh, em nghĩ đó là chúng ta đã có thần
giao cách cảm, nên thương nghĩ đến nhau.
Kể từ hôm
nay, anh biết rằng em cũng yêu anh, nhưng anh yêu em thì để trong lòng, đừng
nói với ai nghe anh, bạn của em hay của anh mà biết chúng sẽ cười mình đó nghe
anh.
Em không có
thì giờ, thư nầy viết vài dòng đáp lại thư anh, xin anh hiểu cho lòng em luôn
luôn yêu anh, nghĩ đến anh.
Người yêu của
anh.
S.
Đọc xong thư
của So, lòng tôi mừng vô cùng, bởi vì tôi được biết cô nàng cũng yêu tôi, tình
yêu của tôi được đáp trả. Tôi đem lá thư của nàng giấu kín để không cho ai tìm
thấy.
Vài tháng sau, So đi học trường huyện, nàng và tôi không thường xuyên gặp nhau từ đó. Tôi nghĩ rằng So đẹp, lại đi học chỗ xa lạ sẽ có nhiều chàng thanh niên khác đeo đuổi. Người ta nói “xa mặt cách long”, một ngày nào đó tôi sẽ mất So. Nghĩ như thế lòng buồn vô hạn.
Rồi vài
tháng sau, thân phụ tôi qua đời, tôi được gửi theo người chú ở tỉnh đi học lại,
vài năm sau tôi rời tỉnh lên Sàigòn vào trường lớn, mặc dù Sàigòn đô hội nhưng
hình ảnh So không phai nhạt trong lòng, tôi vẫn yêu So mỗi khi nhớ tới nàng.
Còn thân phụ nàng, xin được đổi về dạy ở trường học gần nhà, nơi bến đò Bà Vệ,
thuộc quận Chợ Mới. Do đó, gia đình nàng dời hết về quê.
Năm đó, năm
đầu tiên học ở Sàigòn, nghỉ Tết tôi về quê, rủ người bạn đạp xe đi thăm thầy
giáo Chính, thật ra đối với tôi là đi thăm để gặp lại So. Mặc dù cả hai đều
không biết đường đi mà cũng không biết rõ địa chỉ vậy mà cũng đi. Từ chợ Xã
Búng đi qua Thuận Giang, vòng xuống chùa Tây An, qua đò rồi đi qua Chợ Thủ, hỏi
thăm người ta, không ai biết Thầy giáo Chính cả. Đi từ đứng bóng cho tới xế chiều,
không tìm ra manh mối, thế là chúng tôi quay trở về. Lúc từ bến đò Bà Vệ đạp xe
một đổi, thời may gặp anh Quan đi với mấy người bạn. Gặp nhau mừng không thể tưởng,
anh Quan chỉ cho chúng tôi nhà anh ngay bến đò Bà Vệ phía bên kia, thế là chúng
tôi trở lại gặp gia đình Thầy giáo Chính. Thầy giữ chúng tôi ngủ lại nhà Thầy,
hôm sau ăn sáng rồi Thầy mới cho chúng tôi về. Gặp lại So thì có gặp, nhưng tôi
không có cơ hội nói chuyện với nàng, trông So lại đẹp hơn xưa, là một nữ sinh
thùy mị, dễ cảm mến hơn những ngày còn trẻ. Lần gặp nhau đó cũng làm cho tôi
khuây khỏa nổi nhớ trong lòng, cho dù So có còn yêu tôi nữa hay không.
Bẵng đi một
thời gian, tôi được tin So theo học Cao Đẳng Sư Phạm ở tỉnh, rồi cũng xin trở về
quê dạy học. Sau đó, lập gia đình với một đồng nghiệp, cả 2 cùng dạy học tại
Trường Long Kiến, huyện Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên.
Ba mươi năm sau, biết bao vật đổi sao dời, lần đầu tiên tôi có công tác đi ngang qua nhà Thầy giáo Chính, nghĩ tới người xưa, tôi ghé lại thăm.
Gặp thím
giáo, thím chỉ lên bàn thờ cho biết Thầy mất vừa mới mãn tang. Tôi xin phép thắp
cho Thầy một nén nhang tưởng đến người xưa là bạn cố tri của thân phụ tôi.
Trong lúc
thím giáo và tôi còn trò chuyện thì cô giáo So đến thăm mẹ, có hai con trai
cùng đi theo, nhìn ba mẹ con, tôi đoán biết chắc là ở gần đó chớ chẳng xa. So
cũng như tôi chỉ nhìn nhau mà không nói chi, trong lòng tôi một tình yêu xa xưa
ùa về, tôi vẫn rung động như ngày xưa.
Phải chăng
có mẹ và con ở đó, nên So bỏ đi ra ngoài. Thím giáo và tôi còn tiếp tục thăm hỏi
nhau vài câu rồi tôi xin phép cáo từ.
Từ nhà thím
giáo, tôi phải đi con đường nhỏ để ra lộ lớn, tôi thấy So đứng tựa cửa sau nhà
người khác, để ý nhìn kỷ thấy nàng mặc quần hàng đen, áo bà ba màu vàng sậm,
tóc cắt ngắn chỉ uốn dợn, nét mặt vẫn đẹp không cần trang điểm, phảng phất chút
buồn, mặc dù đó là thời buổi khó khăn, củi quế gạo châu, vải khúc thời bao cấp,
nhưng cũng chứng tỏ gia đình nàng sống được ấm no, chắc là hạnh phúc. Tôi đi
ngang qua, chúng tôi không ai chào ai, không ai nói lời nào. Đó là lần cuối cùng
tôi gặp nàng, cách nay cũng đã tròn ba mươi năm rồi.
Cách nay năm
năm, chị tôi qua điện thoại, bỗng dưng cho tôi biết So đã mất rồi. Tình yêu của
tôi và So chỉ có chúng tôi biết. Sao chị tôi vô tình cho tôi một cái tin không
vui. Bới đóng tro tàn ấy làm cho tôi vô vàng nhớ tới So, tôi tự trách mình sao
lần gặp cuối cùng ba mươi năm trước, không hỏi han, không nói với So tiếng nào
? Bây giờ muốn nói “Anh vẫn còn yêu em” không thể nói với nàng. So đã khép đôi
mắt nhìn đời, vĩnh viễn nằm yên dưới lòng đất lạnh. Chắc gì mối tình xưa, mối
tình đầu được khép kín ? Ít ra nó vẫn còn sống động ở trong tôi, nhất là mỗi lần
nhớ tới So, nhớ tới những dòng mực tím tình đầu viết trên trang giấy học trò
ngày xưa.
9-III-2015
Kế tiếp là
truyện:
Dưới tàng cây trứng cá
Hắn quay xe
lại chạy đuổi theo, vì thấy cô nàng ngồi phía sau xe của một thanh niên khác
đang chạy ngược chiều, cô nàng mặc bộ áo dài trắng, nhìn thấy hắn với ánh mắt lộ
vẻ mừng rỡ ngạc nhiên và mời gọi.
Cho nên hắn
mới chạy theo, qua khỏi hai ngã tư, khi hắn đuổi theo kịp chàng trai đã thả cô
nàng xuống tự lúc nào, hắn không thấy bóng dáng anh ta, chỉ thấy cô nàng đứng đợi
hắn bên vệ đường.
Hắn hỏi trỏng,
giọng thân mật:
- Em đi chơi
về hả ?
Cô nàng
không trả lời. Hỏi lại:
- Anh có rảnh
không ? Mình đi chơi chút đi!
- Vậy thì mời
em lên xe. Em muốn đi đâu ?
- Đâu cũng
được, chừng 15 phút thôi, vì em phải về nhà.
- Vậy chúng
ta lên phi trường nghe ?
- Tùy anh!
Chờ cho cô
nàng lên ngồi xong, hắn cho xe chạy trở lại hướng về phi trường, chưa đầy 5
phút đã tới công viên nhỏ vắng vẻ trước phi trường. Hắn dựng chiếc xe, cạnh một
chiếc băng đá dưới tàng cây trứng cá.
Khi cả hai
ngồi xuống, hắn mở lời:
- Sao lâu
quá, không thấy em ở căn nhà cũ.
- Em không
còn ở với chị, em về đây ở nhà ông bác đi học cho tiện.
- Em tên chi
? Anh chưa được biết.
- Dạ em tên
Trúc, còn anh ?
- Anh tên
Thanh
- Em không
tin, đó là tên anh.
- Tại sao
Trúc không tin anh ?
- Vì có người
nói cho em biết anh tên khác, không phải tên Thanh.
Thanh đứng
lên, móc ví từ túi sau, lấy Thẻ sinh viên đưa cho Trúc, rồi ngồi xuống. Trúc
nhìn vào tấm thẻ rồi mỉm cười nói:
- Bây giờ em
tin anh nói thật.
Thanh hỏi
Trúc trong khi nhận lại cái thẻ:
- Lần sau
anh muốn gặp Trúc, tìm em ở đâu ?
- Nơi em đứng
lúc nảy, đi thêm vài bước có con hẻm, nhà bác em trong đó, nhưng không tiện, để
ngày nghỉ, em sẽ đến thăm anh. Giờ anh làm ơn đưa em về! Về trễ bác em mắng
cho.
Thanh đưa
tay, nắm lấy bàn tay trái của Trúc, kéo Trúc lại gần, Trúc ngã người vào Thanh,
Thanh nhìn xuống gương mặt tròn, đôi mắt đen to vừa kịp khép lại, đôi môi đỏ tựa
son, thanh cuối xuống tay trái nâng đầu, tay mặt choàng qua thân Trúc, đặt lên
môi nàng, cả hai trao nhau một chiếc hôn nồng thắm.
Buổi chiều vạt
nắng nghiêng dọi qua tàng cây trứng cá, ánh sáng êm dịu. Không một chiếc phi cơ
lên xuống, không người đưa đón. Phi trường im vắng.
***
Một hôm đang
chạy xe xuống phố, hai chiều xe tấp nập. Thanh nghe tiếng ai gọi bên kia dòng
xe ngược chiều. Chàng dừng xe nhìn thấy Trúc cũng vừa quay xe lại, cập xe sát
Thanh, nàng nói nhanh:
- Em không
còn ở với bác em nữa, em dọn về quê rồi. Em xuống đây với nhỏ bạn, nó bỏ em về
trước, em không có tiền trong người, định về chị xin, may quá gặp anh dọc đường,
có tiền cho em vay đủ tiền xe đi về, hôm nào em xuống trả lại. Hoặc có dịp đi
qua, ghé thăm em ở cạnh Trường Mầm Non Họa Mi, hỏi xe ôm ai cũng biết.
Thanh móc ví
lấy ra tờ bạc chẵn đưa cho Trúc. Nàng cầm lấy, chỉ nói cám ơn rồi rồ ga cho xe
vọt thẳng.
Tháng sau,
Thanh có việc đi đến quê Trúc, đến nhà trọ gặp một thanh niên tuổi đôi mươi,
Thanh hỏi chàng thanh niên, mới biết Trúc không còn ở trọ nữa. Thanh hỏi địa chỉ
mới, chàng thanh niên chần chừ một chút như để tìm cách nhớ địa chỉ, hay để chọn
lựa cách hướng dẫn cho Thanh dễ tìm, cuối cùng chàng thanh niên bước ra khỏi
nhà, chỉ cho Thanh biết:
- Anh theo
con đường này đi tới cây đèn xanh đèn đỏ, quẹo tay trái rồi hỏi thăm người ta
Lò heo, tới đó anh hỏi nhà họa sĩ Đức, cô Trúc đang ở đó.
Thanh cám ơn
người thanh niên rồi đi theo cách anh ta chỉ dẫn, trong khi đi tìm Thanh tự hỏi
tại sao Trúc không ở nhà trọ nữa, tại sao lại ở nhà họa sĩ Đức? Cuối cùng Thanh
bước vào nhà họa sĩ Đức, đó là căn nhà một gian, lợp tôn không có gác, hơi thiếu
ánh sáng, mặc dù cửa cái và cửa sổ mở.
Mới bước
vào, Thanh nhìn không rõ vì căn phòng hơi lờ mờ, có kê một bộ ván gõ chiếm gần
hết căn phòng trước, ngăn phía sau là tấm vách ván có chừa lối ra vào, có màn
che màu xanh nhạt, nên không thấy bên trong, bên trên bộ ván có treo chiếc
võng, có người đàn ông nằm trên chiếc võng đong đưa, quay mặt ra cửa. Thanh lên
tiếng:
- Xin cho hỏi
có phải nhà họa sĩ Đức không ?
Tiếng người
đàn ông trên võng, gọi to, giọng rổn rảng:
- Ba à ! Có
ai tìm thằng Đức nè con.
Có tiếng “Dạ”
từ bên trong vọng ra, rồi một bàn tay vén màn Trúc hiện ra ở đó, với một bộ quần
áo ngủ màu hường, như hai người xa lạ, nhưng hỏi nhanh như để xác định cho
đúng:
- Ông tìm
anh Đức có việc chi không ?
Thanh bị bất
ngờ, nhưng phản ứng nhanh chóng đóng cho xuôi màn kịch, trước mắt người đàn ông
nằm trên võng:
- Dạ
thưa cô không có việc chi. Nhân tiện từ thành phố lên đây, ghé thăm anh Đức
thôi.
Thanh bị đuổi
ngay:
- Vậy thì
ông về đi, anh Đức không có nhà !
- Chào ông !
Chào cô!
Thanh rời khỏi
căn nhà của họa sĩ Đức, lòng vướng bận cập mắt tròn đen xoáy sâu vào lòng,
không hiểu chuyện gì đã xảy ra với đôi mắt đó.
***
Một hôm theo
dự lớp cuối giờ ở giảng đường ra, nghe tiếng gọi của Ngữ ở quán cà phê vỉa hè gần
trường, sau khi Thanh gọi cà phê xong, Ngữ kể cho Thanh nghe về Trúc, Ngữ thích
Hà Linh Trúc từ lâu, vì nhà Ngữ và Trúc đối diện nhau, nhưng Trúc lại yêu
Thanh, nàng làm những bài thơ nói về mối tình thầm lặng nầy, có những buổi sáng
nàng dõi mắt trông theo khi Thanh đi ngang qua, hoặc những buổi tối khi Thanh
đi chơi về.
Lần Trúc hạnh
phúc nhất, đó là nụ hôn đầu tiên ở trong công viên vào buổi chiều tại phi trường.
Sau đó, Trúc về quê đi làm, ở trọ chung với những người bạn, Trúc bị những người
bạn này dụ dỗ bắt cóc nhốt một nơi, chúng biết họa sĩ Đức đem lòng yêu Trúc nên
nhắn tin cho Đức, muốn cứu Trúc, chúng buộc Đức phải lấy Trúc làm vợ.
Họa sĩ Đức
biết Trúc bị bọn giang hồ cưỡng hiếp, đang nguy hiểm tánh mạng với bọn chúng,
vì yêu Trúc nên Đức bằng lòng điều kiện chúng đặt ra. Nhờ đó, Trúc được giải
thoát. Cho nên khi Trúc gặp Thanh, liền đuổi thẳng Thanh về để tránh chạm mặt với
Đức.
Thanh nâng
ly cà phê lên uống, nghe thấy nó đắng một cách kỳ lạ, nhìn kỷ vào ly cà phê
hình ảnh của Trúc nằm trong vòng tay Thanh ngày nào dưới tàng cây trứng cá lung
linh hiện ra đôi môi đỏ mọng.
22-62014
Thương hoài ngàn năm
*
Phương nhờ
tôi làm phù rể cho đám cưới của hắn, tôi nhận lời ngay, một là để giúp bạn hai
là có dịp ngắm nhìn hay làm quen với vài người đẹp.
Ở nhà quê,
thông thường người ta chọn một phù rể là một người còn trẻ đã có vợ con, đi đứng
chỉnh tề, nói năng lễ phép, làm đúng thủ tục. Lần đầu tiên, tôi bị một anh bạn
bắt tôi phải làm phù rể cho anh cưới vợ ở vùng Bà Điểm, tôi từ chối nhưng anh bảo:
Cậu cứ làm,
có anh bên cạnh, anh sẽ nhắc tuồng cho cậu, miễn là cậu phải bình tĩnh trước
các ông bà già khăn đen áo dài, chỉnh chệ ngồi ở bàn giữa, hoặc các cô gái quê của
“mười tám thôn vườn trầu”.
Tôi đành phải
nghe theo lời anh bạn, quả nhiên tôi làm tròn vai trò phù rể của đám cưới đó,
sau nầy có vài người bạn khác nhờ, tôi có kinh nghiệm và tự tin, không cần đến
người nhắc tuồng, tôi ứng xử tùy theo tình huống, rồi mọi việc cũng suông sẻ.
Ngày xưa, trong đám tiệc người ta hay bắt lỗi bắt phải, để tỏ ra họ nhà trai
hay nhà gái có người tinh thông chữ nghĩa, am hiểu phép tắc của đạo thánh hiền
hoặc giữ tròn nề nếp gia phong.
Về hai cô
phù dâu, thường người ta chọn hai phù dâu có nhan sắc kém hơn cô dâu, nhờ vậy
cô dâu sẽ nổi bật vẻ đẹp. Trường hợp đám cưới bạn tôi cũng không có ngoại lệ, một
cô phù dâu nước da trắng, tóc dài mặt xương, sắc đẹp chỉ trung bình, một cô phù
dâu nước da bánh mật, tóc cắt vừa chấm vai, miệng nhỏ, mũi cao, trông dáng điệu
có vẻ thùy mị hơn cô kia.
Tiệc tan,
khách mời đã ra về hết, chú rể nhờ tôi phụ giúp mang quà cáp về nhà, cô phù dâu
nước da bánh mật cũng được nhờ phụ giúp, nhờ đó tôi được biết cô ta tên là Thu
Cúc.
Khi mọi việc
xong xuôi hết ở nhà hàng, cô dâu và chú rể lại nhờ tôi:
- Cám ơn
Thanh đã giúp cả ngày nay, bây giờ còn chuyện nhờ sau cùng, bạn làm ơn lấy Taxi
đưa Thu Cúc về nhà ở ngã tư Bình Thạnh dùm, vì bây giờ đã khuya, khu đó lại vắng
vẻ nữa, làm ơn thì làm ơn cho trót nghe.
Thế là tôi lấy
Taxi và đưa Thu Cúc về nhà ở gần cầu Băng Ky, đúng như bạn tôi nói, đó là khu
ít người qua lại ban đêm. Đến nhà, Thu Cúc bảo xe dừng, tôi dặn tài xế chờ tôi
quay về, rồi tôi đưa Thu Cúc đến cửa nhà nàng. Người nhà mở cửa, đó là một phụ
nữ lớn hơn Thu Cúc vài tuổi, tôi đoán có lẽ là chị của cô ta, để cho phải phép,
người phụ nữ mời tôi vào nhà, nhưng tôi lấy lý do xe Taxi đang chờ đợi, nên xin
phép cáo từ. Trên đường về, hình ảnh Thu Cúc vẫn còn vương vấn trong tôi.
Sau đó, vợ
chồng Phương mời cả phù dâu và phù rể đi ăn sáng ở nhà hàng Thanh Thế, nói là để
cám ơn chúng tôi, nhưng cũng là để nới rộng giao hảo và thắt chặt tình bạn bè.
Dịp nầy, tôi được biết vợ của bạn tôi và Thu Cúc là bạn học cùng lớp, ở một
ngôi trường danh tiếng tại thủ đô.
Rồi tôi đến
nhà thăm Thu Cúc, sau vài lần quen biết, nàng nhờ tôi giúp giải những bài toán
khó, do đó tôi dành mỗi tuần vài đêm đến nhà nàng kèm thêm môn toán. Gần nhau
lâu ngày, tình yêu đã nảy nở tự nhiên. Một hôm vào ngày nghỉ, nhân tiện có dịp
đi ngang qua nhà, tôi ghé lại thăm Thu Cúc, nhưng nàng không có ở nhà, người cô
nàng cho biết, nàng theo bạn học trong lớp đi sinh hoạt đến chiều tối mới về.
Thời gian đó, tôi nghe phong phanh có phong trào “CTY” phát sinh trong trường
nàng. CTY có nghĩa là Cho Tình Yêu, là phong trào để ủy lạo chiến sĩ đang chiến
đấu ngày đêm gian khổ ở chiến trường.
Từ đó, tôi lấy
lý do bận học thi ra trường, nên xa lánh Thu Cúc từ từ. Năm sau, tôi ra trường
lên dạy ở Cao nguyên, rồi lập gia đình với cựu nữ sinh cùng trường với Thu Cúc.
Đám cưới của
tôi, tôi không mời cũng không báo tin, nhưng trong tiệc cưới bỗng nhiên Thu Cúc
hiện ra với bộ quần áo toàn trắng, riêng trên chiếc áo dài thêu điểm rơi rớt
vài cái hoa cúc vàng, tiến đến bên chúng tôi đang đứng chào đón khách mời, sau cái
gật đầu chào, nàng bình tĩnh nói:
- Tối hôm
qua, em tưởng anh có về nhà trọ cũ, nên mang quà đến tặng, không gặp anh, em đã
gửi quà lại đó, anh chịu khó trở lại nhà cũ nhận quà của em.
- Cám ơn
Cúc. Mời Cúc vào trong có vợ chồng Phương và Hồng đã đến dự.
- Cám ơn anh
chị! Em phải về ! Như anh biết ở chỗ em vắng vẻ, lại không có ai đưa đi, nên em
xin phép về trước. Chúc anh chị hạnh phúc.
- Dù sao thì
Cúc cũng đã đến rồi! Xin vui lòng dự tiệc chung vui với chúng tôi.
- Xin lỗi
anh. Dự tiệc mà nửa chừng về không phải phép với khách tại bàn. Cho nên xin
phép anh chị.
Nói xong Thu
Cúc quay lui, tôi phải đưa nàng đến cửa thang máy và nói:
- Xin lỗi
Cúc.
Nàng đáp lại,
giọng xúc động:
- Không
dám!... Chào anh.
Hôm sau, tôi
trở lại nhà trọ cũ, nhận được gói quà gọn nhẹ, tôi mang về nhà cùng vợ tôi mở
ra, trong đó có một đĩa nhạc Thương hoài ngàn năm với giọng hát của Ca sĩ
Phương Dung và một tập Album bìa đỏ, lật ra ngay tờ đầu với hai hàng chữ của
Thu Cúc viết rất bay bướm:
Thương hoài ngàn năm.
Em… tin rằng đó là tình của anh với chị.
Nhà tôi xem
xong im lặng, tôi chỉ nghe đĩa hát ấy có một lần, sau nầy không biết nó ở đâu,
mặc dù tôi rất muốn giữ nó làm kỷ niệm, còn quyển Album tôi dán ảnh tiệc cưới,
nên nó vẫn còn.
Năm sau, từ
Cao nguyên về, phi cơ đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, lúc ra đi ngang qua
phòng chờ đợi, trông thấy Cúc ngồi đó, chào nhau xong tôi hỏi:
- Cúc đợi
máy bay đi đâu ?
- Dạ ! Em
xin được chân dạy học trên Phước Long, nên hôm nay đi lên đó !
Từ đó, tôi
không gặp lại Thu Cúc nữa. Cuối năm 1974, nghe tin Phước Long mất, rồi biến cố
30 tháng 4 năm 1975, kẻ ở lại người ra đi, kẻ vượt biên người vượt biển, sau
bao nhiêu vật đổi sao dời, thỉnh thoảng mang quyển Album tiệc cưới ra xem, những
hình ảnh người thân, bạn bè làm cho tôi chạnh nhớ tới Thu Cúc, với dòng chữ đầy
ấp tâm tình “Thương hoài ngàn năm”.
19-III-2015
Kế tiếp
rút ra từ tập Truyện của tôi:
Trường Tôi bấy giờ là Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng
Trong năm học cuối đó, một hôm vợ họa sĩ Phạm Thăng, đi làm ở Sở Vệ
Sinh về, chị nói với tôi :
- Chú Sáu à ! Ðể chị giới thiệu cho chú một cô, đẹp và dễ thương,
cùng làm sở với chị, nếu hạp chú có thể tiến tới hôn nhân.
Tôi ở trọ nhà họa sĩ Phạm Thăng, anh chị xem tôi như ruột
thịt, nghe chị nói tôi nghĩ mình cũng không phải tệ, không làm quen với mấy cô
được hay sao mà phải đợi có người giới thiệu. Nhưng nghĩ lại có gặp mặt cô nào
đó thì cũng có hại chi đâu. Thế là hai hôm sau ngày Thứ Năm tôi đến Sở Vệ Sinh
ở đường Hiền Vương, cô ta có buổi tu nghiệp tôi không gặp được. Hai hôm sau tôi
trở lại mới gặp, từ buổi gặp mặt đầu tiên đó, nhen nhúm trong tôi một cảm tình,
sau đó tôi đến thăm chơi ở nhà, tôi biết nàng là học sinh Gia Long.
Tôi nhớ lại, năm xưa thời cụ Ðộ làm Hiệu Trưởng, có anh Tốt cầu thủ
bóng tròn của trường, không hiểu vì sao lại phóng uế bên bờ rào của Trường Nữ
Trung Học Gia Long, bị cảnh sát bắt giải tòa về tội ‘’ Công Xúc Tu Sĩ ‘’.
Thầy Phan Hữu Tạt nói : Cụ Phạm Xuân Ðộ Hiệu Trưởng Cao Thắng với bà Nguyễn Thị
Hội Hiệu Trưởng Gia Long có chuyện gây cấn nên : ‘’ Trâu bò húc nhau, ruồi
muỗi chết ‘’.
Học sinh còn thường kháo nhau, cho là nữ sinh Gia Long chỉ để ý đến
học sinh Petrus Ký, còn nữ sinh Trưng Vương chỉ để ý tới học sinh Chu Văn An,
cho nên tôi cũng còn bị ám ảnh : Vói cho được nữ sinh Gia Long không phải dễ.
Chính vì vậy, tôi tự nhủ phải chinh phục cho được người đẹp, mà quả thật tôi đã
được, đó là nhà tôi ngày nay.
Cho phép tôi được cám ơn nhà tôi, người đã khuyến khích, an ủi tôi
nhiều mặt, lúc thành công cũng như khi thất bại, những dòng ghi nầy nếu không
có nhà tôi như nguồn cảm hứng thúc dục, chắc tôi cũng chẳng ghi chép được dòng
nào. Nhạc mẫu tôi, học Trường Áo Tím, nhà tôi học Trường Gia Long, con gái út
của tôi học Trường Nguyễn Thị Minh Khai, 3 thế hệ có ba tên gọi khác nhau,
nhưng cũng chỉ là một Trường Nữ Trung Học danh tiếng ở miền Nam
Cũng như những trường khác là Petrus Ký, Gia Long, Bác Ái, Marie
Curie... Trường Cao Thắng cũng có cái đồng hồ thật to, đặt trên lầu của dãi
Xưởng, đối điện với văn phòng, một số phòng học cũng có thể nhìn thấy, nó đặc
biệt là đứng ngoài đường cũng như ở trong sân trường đều có thể nhìn thấy giờ
giấc trên chiếc đồng hồ nầy.
Trường tôi, Trường Kỹ Thuật Cao Thắng, Trường Máy, Trường Bách
Nghệ, nhiều người học ở đó, mỗi người có kỷ niệm khác nhau, nơi đó Tôn Ðức
Thắng, Nguyễn Văn Thiệu những người làm nên lịch sử đã từng theo học, công với
tội còn để nghìn sau, với tôi cũng như nhiều người khác đã là học sinh của
Trường Cao Thắng, sẽ không quên được những kỷ niệm về trường học của mình, nó
còn gắn liền với chợ Bến Thành với đường Lê Lợi. Ðó là trung tâm, là nơi buôn
bán sầm quất của thủ đô miền Nam. Xin mượn thơ của Nguyễn Du để diễn tả nơi ấy
:
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm .
Louisville, ngày 31 tháng 3 năm 2001
Tiếp
theo là truyện:
Cành Hồng Valentine
Vào một ngày, tôi bất
chợt nhận được từ một người bạn gửi qua điện thư cho tôi một đóa hoa hồng, tôi
gửi lại lời cám ơn như những ngày Tết hay Giáng sinh, nhận được những cánh
thiệp, những lời chúc mừng.
Hai tuần lễ sau, tôi lại
nhận được điện thư của ấy gửi lời trách phiền, tôi đã vô tình hay cố ý không
quan tâm tới những đóa hoa hồng kia, bấy giờ tôi mới chợt hiểu ra, đó là những
đóa hoa hồng bày tỏ tình cảm trong dịp lễ Valentine, còn được gọi là “lễ tình
yêu”.
Người gửi cho tôi những
đóa hoa hồng kia là một người đàn bà, cũng như tôi tuổi đã ngoài năm mươi, đối
với tôi đó là một phụ nữ, tôi đã có dịp quen từ gần ba mươi năm trước.
Năm đó, tôi ở Sàigòn thi
rớt Tú Tài 1, còn nàng ở Huế vừa thi đậu bằng nầy, một người bạn quen với cả
hai đã giới thiệu chúng tôi quen nhau. Hai năm sau, tôi vào Đại học, vào dịp
Hè, có dịp ra thăm Huế với bạn của tôi, nàng vẫn đang học Đại học, bạn tôi và nàng
đưa tôi đi viếng chùa Linh Mụ, đi thăm họ hàng của nàng ở Kim Long và vài nơi ở
đất thần kinh, non nước, cung điện hữu tình, ba chúng tôi trở thành những người
bạn thân thiết.
Năm sau, tôi có dịp trở
ra Huế, nàng đã đi làm cho một phái bộ Mỹ ở Huế, rồi nàng có dịp vào Sàigòn
công tác, nhân ngày nghỉ tôi đưa nàng đi xem ciné ở rạp Văn Hoa Tân Định, một
là rạp vừa mới tân trang lại, hai là đang chiếu phim “Giả từ vũ khí”, phim tình
cảm của nhà văn Ernst Hemingway, nội dung về chuyện tình trong thế chiến thứ
nhất giữa Federic Henry, một người Mỹ tình nguyện lái xe cứu thương cho quân
đội Ý và cô y tá Catherine Barkley.
Henry gặp Catherine
Barkley và mối tình của họ chớm nở. Trong thời gian phục vụ trên mặt trận
Italia, Henry bị thương vào đầu gối do đạn pháo nên anh được chuyển tới một
bệnh viện ở Milano. Sự phát triển mối tình của Henry và Catherine khi họ sống
bên nhau tại Milano trong mùa Hè. Henry ngày càng yêu Catherine, rồi đến khi
anh lành vết thương, Catherine đã có thai 3 tháng. Henry trở về đơn vị của
mình, nhưng chẳng bao lâu sau thì quân Đức phá vỡ mặt trận Ý khiến quân Ý tháo
chạy hỗn loạn. Sau khi bị tụt lại đằng sau, Henry cố bắt kịp đơn vị, nhưng anh
lại bị hiến binh Ý bắt giữ và mang đi xử tử, vì bị buộc tội "phản
bội". May mắn là Henry trốn thoát được bằng cách nhảy xuống sông.
Catherine và Henry đoàn tụ và bỏ trốn đến Thụy Sỹ bằng cách chèo thuyền qua
biên giới. Cuối cùng Henry và Catherine sống cuộc đời bình lặng tại vùng núi,
cho tới khi Catherine sinh con. Sau một cơn sanh nở dài và khó nhọc, con trai
của họ chết trong bụng mẹ, còn Catherine thì bị băng huyết mà chết, bỏ lại
Henry một mình ngậm ngùi quay về nhà trọ trong cơn mưa tầm tã.
Ngày đó, từ ngoài sáng
bước vào rạp tối, tôi phải nắm tay nàng, bước từng bước lên thang lầu và chọn
chỗ đưa nàng vào. Màn ảnh bắt đầu chiếu phim. Đó là một phim tình cảm rất hay
nhưng ngồi gần bên người đẹp, hạnh phúc ấy xâm chiếm tôi, còn đâu để thưởng
thức phong cảnh và những tình tiết gây nhiều cảm xúc. Cho đến nay tôi chỉ còn
nhớ mang máng cảnh Henry và Catherine bơi xuồng vượt thoát.
Năm nào đó, vào sinh nhật
của tôi, từ Huế nàng gửi vào cho tôi một quyển tiểu thuyết Hai mươi bốn giờ
trong đời người đàn bà của Stefan Zweig do Tràng Thiên dịch, một chuyện
tình cảm thật lãng mạn.
Thuở đó ít nhất tôi đã có
lần đề nghị với Hương Lan cùng nhau tìm hiểu để đi đến hôn nhân, nhưng chắc
nàng đang với tay cao hơn, nàng tảng lờ đề nghị của tôi, rồi vài năm sau, tôi
được tin nàng lên xe hoa với một nhà giáo tốt nghiệp từ trường Sư Phạm Qui
Nhơn. Đám cưới của họ tổ chức tại Huế, tôi gửi điện tín chúc mừng.
Sau năm 1975, tôi được
biết Hương Lan là một nhân viên cơ quan của Mỹ, cho nên cả gia đình nàng được
di tản sang Mỹ, trong những ngày miền Nam bị bức tử.
Cho đến 1990, tôi mới
được đi Mỹ theo diện HO, sau đó lại anh bạn của tôi cho nàng địa chỉ điện thư
của tôi, từ đó chúng tôi thường xuyên liên lạc, thăm hỏi nhau qua điện thư và
mùa Valentine năm 2000, Hương Lan đã gửi cho tôi một đóa hoa hồng, tôi không
dám nghĩ đó là tình nàng đã gửi cho tôi, bởi vì chúng tôi đều luống tuổi, mỗi
người sống có gia đình riêng của mình.
Suy nghĩ như thế, nhưng
con tim có lý lẽ riêng của nó, có những góc khuất lấp, khi có ngọn lửa tình yêu
nó cũng bùng lên, khó kềm hảm được, do đó Hương Lan và tôi đã nối lại mối tình
xưa. Trong một lần trao đổi, tôi đã hỏi Hương Lan vì sao ngày xưa, nàng đã
không nhận đề nghị của tôi, để xây dựng một tình yêu từ đó. Nàng trả lời trong
điện thư:
… Có chớ, em có gửi cho
anh một lá thư, nhưng không hiểu sao thư chẳng hồi âm, em đợi, em chờ, có hôm
đi trên cầu Tràng Tiền, nhìn xuống dòng sông thấy nước chảy qua cầu, em tự hỏi
có phải những tình cảm của chúng ta như dòng nước kia, trôi xuôi ra biển, nhìn
lên trời thấy những đám mây trắng trôi về Nam, ước chi em là đám mây trôi nổi
về Nam để được gặp anh, nói với anh vài lời là em cũng muốn thế … nhưng em
trông đợi vẫn chỉ là trông đợi.
Chắc anh nhớ mấy câu thơ
cuối trong bài Ngập Ngừng của thi sĩ Hồ Dzếnh
…………………..
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Ðời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thư viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa...
Đó cũng là cái duyên của
chúng ta, thế thôi…
Em,
Hương Lan của anh
Điện thư đôi ba ngày
chúng tôi gửi cho nhau, lời càng ngày càng ngọt ngào, êm đẹp, tình càng ngày
càng nồng thắm hơn.
Năm sau, tôi được mời
tham dự một cuộc họp tại thành phố nàng ở, tôi gửi điện thư báo, ngày giờ và
chuyến bay tôi sẽ đến, nàng đề nghị sẽ lái xe đón tôi ở phi trường, mặc dù giờ
tôi đến nơi là chuyến bay chót trong ngày nên gần nửa đêm, sẽ đưa tôi về nhà
nàng nghỉ qua đêm, rồi hôm sau đến nơi dự họp, nàng cho biết đã bao nhiêu năm
rồi chưa gặp mặt, dịp nầy gặp nhau tay bắt mặt mừng cho thỏa tấm lòng nàng mong
đợi.
Còn hai ngày nửa lên
đường, tôi đã dệt mộng khi gặp nhau sẽ ôm nàng trong vòng tay và khẻ nói bên
tai nàng “Anh rất yêu em”.
Nhưng chẳng may, tai họa
giáng xuống chúng tôi, nhà tôi đã đọc được tất cả những điện thư chúng tôi gửi cho
nhau. Tôi tưởng rằng mình đã xóa hết, nhưng không ngờ nó vẫn còn lưu giữ, chắc
thằng con tôi đã tìm thấy và âm thầm in ra rồi trao cho mẹ nó, nhà tôi chỉ nói
nhẹ nhàng nhưng cương quyết:
- Em sẽ không đi với anh,
nếu anh muốn thì cứ đi để gặp Hương Lan. Ngày trước, nếu cô ta yêu anh, cô ta
đã không đi lấy chồng. Ngày nay, nếu cô ta thật tình yêu anh, cô ta bỏ chồng
đi, em sẵn sàng nhường anh cho cô ấy.
Giữa con tim và lý trí,
gia đình và cá nhân tôi phải chọn lựa một con đường, không thể khác hơn, tôi
gửi cho nàng một điện thư:
Hương Lan thân yêu,
Nhà anh đã đọc được
Email, đã biết mọi chuyện. Xin lỗi cho anh gửi tới em lời Sayonara
Từ nay, Thanh không còn
là của em nữa, xin hãy quên hết và tha thứ cho anh mọi lỗi lầm đã gây ra.
Anh.
Ngay đó, tôi liền nhận
được điện thư hồi âm:
Sao anh nói là anh đã xóa
hết email rồi. Cớ sự thế nầy, lỗi của anh hay của em? Nhưng chắc từ nay chúng
xa xa nhau vĩnh viễn.
Em không dám trách phiền,
hờn giận anh, chỉ xin hiểu cho nổi đau của một người khi mất tình yêu.
Em của anh mãi mãi.
Hương Lan
Ngay sau đó, tôi khóa bỏ
email của Aol, đến nay đã trên mười năm trôi qua, mỗi lần Valentine đến, gợi
tôi nhớ đến người xưa, không rõ rồi nàng đã ra sao.
14-II-2015
Và chuyện sau cùng:
A Dậu
Nhà tôi cách ngôi trường
làng có bốn căn nhà khác, đó là những căn nhà của bác tám Toán, ông bảy Đời,
ông năm Phận, anh xã Chênh, những căn nhà kia đều là cột tre, vách lá. Riêng có
nhà anh xã Lý Quốc Chênh là cột gỗ thao lao, vách đóng bổ kho, mái lợp ngói
móc. Nhà của cha tôi tuy cột gỗ, nhưng vách lá mái lá, vì ở vùng nước nổi nên
mấy căn nhà trên là nhà sàn, trừ nhà ông bảy Đời nền đất như nhiều căn nhà
khác.
Khi đi học vở lòng, tôi
theo chú qua bên kia sông học trường làng khác, do chú tôi làng trưởng giáo,
rồi chiến tranh xảy ra chú tôi bỏ trường về tỉnh, trường gần nhà các thầy giáo
theo Thanh Niên Tiền Phong bỏ trường, bỏ lớp cho nên tôi bị thất học vài năm.
Sau đó, một người cháu
gọi ông Phủ là ông cố, vốn là con của một thầy giáo dạy ở trường tỉnh, lấy ngôi
trường làng mở lớp dạy tư, tôi theo học lớp học nầy, nhưng thầy giáo ấy tôi chỉ
gọi là Chú Hai, chớ không bao giờ gọi là thầy, vì chú ấy với cha tôi đều là
cháu cố của ông Phủ, lại nữa trước kia khi tôi lên ba, lên bốn nhà chú cách nhà
tôi chỉ có một căn nhà khác.
Đến giờ ra chơi của học
trò vào buổi sáng hay buổi chiều, chú Hai thường hay đến nhà tôi uống nước trà,
bàn chuyện thời sự với cha tôi. Vài năm sau, tôi với vài học trò của chú, cùng
đi thi tại trường tỉnh, năm đó tôi đậu bằng Sơ đẳng Tiểu học.
Rồi chú ấy xin được làm
thầy giáo, ở tỉnh lại phân bổ thêm một người thầy giáo nữa, thế là trường làng
tôi có hai thầy dạy học trò, thay vì tôi được xuống tỉnh học, nhưng vì nhà
không đủ sức nuôi, nên cha mẹ tôi cho tôi tới trường đi học một buổi sáng, buổi
chiều ở nhà phụ giúp việc nhà, chờ thuận tiện cho tôi xuống tỉnh học tiếp.
Trường có thêm thầy giáo,
hơn nữa học trò đi học khỏi phải đóng tiền, nên nhiều phụ huynh cho con em tới
trường, cô tôi có đứa cháu ngoại cũng được mẹ cháu cho tới trường, nó rủ thêm
một đứa bạn cùng xóm đi học, bạn của nó là con của chú chệt ở sát cạnh nhà cô
tôi, chú ấy ai cũng gọi là chú chệt Soạn, còn tôi gọi là chú Tư vì là hàng xóm
của cô tôi.
Chú Tư và thím tư, người
không quen biết mới nhìn biết ngay là khách trú, chú cũng như thím, không rõ từ
đâu tới, mua đất đai và cất nhà bên cạnh nhà cô tôi, nói tiếng Việt rành nhưng
giọng còn lơ lớ, chú thím có 2 cô con gái, cô gái lớn chắc hơn tôi bốn năm
tuổi, tên là A Muối, tôi gọi là chị Muối, cô gái kế nhỏ hơn tôi một vài tuổi,
tên là A Dậu, chắc cả hai sinh ra tại Việt Nam, nên nói tiếng Việt chẳng khác
chi người Việt.
Cháu tôi ở nhà bà ngoại
là cô tôi, nhà cô ấy và chú thím Tư ở đầu cù lao, gần ngôi chợ làng, từ đó cách
trường học chừng bốn cây số ngàn.
Trường học thầy giáo dạy
ngày hai buổi, nhiều học trò nhà ở xa trường, đi học phải mang theo thức ăn,
buổi trưa ăn cơm tại trường, còn cháu tôi và A Dậu đến nhà tôi ăn trưa, có khi
leo lên võng đưa kẻo kịt rồi ngủ trưa một giấc, cho đến khi nghe tiếng trống
trường báo hiệu giờ học buổi chiều, hai cô bé mới thức dậy vội vàng rửa mặt, ôm
vở tới trường.
Vào những dịp Tết hay có
giỗ quảy ở nhà cô tôi, tôi thường đến dự, khi chị Muối được gia đình gả đi lấy
chồng, A Dậu không còn đi học nữa, nên sang nhà cô tôi phụ giúp nấu nướng hay
dọn mâm cỗ, tôi vẫn được gặp A Dậu trông cô xinh đẹp và thùy mị, e lệ mỗi khi
chạm mặt tôi.
Một lần vào dịp Tết, tôi
đi chúc Tết cô tôi, A Dậu cũng sang phụ dọn ăn, nhân khi không có ai, A Dậu
đang cầm mỗi tay một dĩa thức ăn, mang đến cho tôi để tôi mang ra dọn ở bàn,
khi A Dậu đến gần tôi liền vịn hai vai A Dậu và đặt lên gò má ửng hồng của nàng
một cái hôn, A Dậu phản ứng nhẹ nhàng:
- Đừng anh!
Rồi tôi đi học và xa gia
đình. Mấy năm sau, nghe nói A Dậu đã lập gia đình, nhiều năm sau nữa chú thím
Tư Soạn mất, đất nhà của chú bán cho người khác, từ đó tôi không nghe ai nói về
chị Muối và A Dậu. Rồi cô tôi cũng mất, mỗi khi về quê tôi không có nhiều thì
giờ để đi thăm con cháu của cô tôi, tuy nhiên thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ tới A
Dậu, hình ảnh cô xẩm nhỏ duyên dáng ở trong lòng tôi.
Gần đây, trong một dịp về
quê, tôi phải đi phà qua sông để thăm gia đình người em cô cậu, lúc mới bước
xuống phà tôi thấy một người đàn bà trộng tuổi, nhìn tôi không e ngại, khi tôi
đứng yên chỗ, phà từ từ rời bến, người đàn bà ấy bước đến bên tôi hỏi:
- Xin lỗi! Anh có phải là
anh của chị Út Lan không ?
Tôi ngạc nhiên, không trả
lời ngay, nhìn người đàn bà để moi trong trí xem có gặp bà ta lần nào chưa ? Bà
ta tuy có tuổi, nhưng dáng người thon gọn, mặc một bộ bà ba vải đắt tiền màu
nhã, tóc cắt ngắn chấm vai, uốn dợn cho tôi đoán ngay bà ta người đứng đắn, gia
đình khá giả ở thôn quê, là ai ? Tôi đành chịu, nhưng đoán biết vai vế nhỏ hơn,
nên tôi đáp lời:
- Dạ phải! Tôi là anh của
Út Lan. Nhưng xin lỗi cô là ai ? Biết tôi mà tôi chưa nhận ra được cô !
Cô ta không mừng khi biết
rõ tôi, lại có cử chỉ và giọng nói hờn trách:
- Phải rồi ! Anh không
nhớ em cũng phải !
- Xin lỗi ! Cho tôi hỏi
lại lần nữa, cô là ai ?
Cô ta ngập ngừng đáp:
- Em … là .. A Dậu đây !
Tôi không còn bình tỉnh,
đưa cả hai tay nắm vai cô ta, nói to:
- A Dậu!
Tiếng gọi của tôi làm cho
vài người đứng gần, ngạc nhiên nhìn về phía chúng tôi, tôi lấy lại bình tỉnh,
bỏ tay khỏi hai vai A Dậu nói:
- Không ngờ hôm nay lại
được gặp cô !
- Em cũng vậy !
- Giờ cô đi đâu ?
- Em mới được tin, thằng
con út của em nằm ở bệnh viện dưới tỉnh, nên em liền phải đi xuống đó thăm nó.
- Tôi đi với cô nghe ?
- Chi vậy anh ?
- Lâu ngày mới gặp, để có
thì giờ nói chuyện nhiều hơn.
- Hồi đó em chờ đợi anh,
từ khi em có gia đình em vẫn thầm mong có ngày gặp lại, nhưng nhà em đã bán, cô
anh bà Tám đã mất, từ đó em nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại, không ngờ hôm nay em
còn được gặp anh.
A Dậu nói đến đó, phà cập
bến, mọi người rộn rịp lên bờ. Tôi đi theo A Dậu, chưa kịp nói thêm điều chi,
cô đã lên tới đường rồi bước lên chiếc xe đò. Khi tôi lên bờ, xe từ từ lăn
bánh, tôi kịp nhìn thấy A Dậu đã ngồi trong xe, nhìn lại vẫy tay chào.
Tôi đứng bên vệ đường ở
bến phà nhìn theo xe, một câu hỏi tự dưng nổi lên xâm chiếm tâm hồn tôi: Sao
dung ruổi gặp lại A Dậu làm chi, khuấy động mặt hồ sau mấy mươi năm yên tĩnh ?!
10-II-2015
Còn nhớ chuyện xưa ?
Nhà tôi cách xa trường học chừng 200m, đi qua đi
lại trường thường gặp cô gái con của thầy giáo, rồi vì nhiễm tiểu thuyết, tôi
biết yêu cô gái ấy và đã viết là thư đầu tiên bằng mực tím trên giấy học trò để
tỏ tình với cô ta, hôm sau cô ta gửi thư lại trả lời cũng đã yêu tôi và dặn
tôi; “Yêu em thì để bụng, đừng nói cho ai biết, kẻo chúng chê cười” Tôi đã giữ
kín chuyện nầy và dấu mất luôn lá thư kia.
Nhưng chuyện đó còn không bằng chuyện tôi đã lớn
rồi, đã có gia đình từ lâu, tôi sang Mỹ từ đầu thập niên 1990, giữa thập niên
nầy tôi đi làm cho một hãng kỹ nghệ ở Mỹ, có lúc tôi làm ở xưởng, có lúc tôi
làm ở văn phòng, sử dụng máy tính để thiết kế máy móc, dụng cụ chỉ đường cho
giao thông của ngành hỏa xa.
Dĩ nhiên trong văn phòng có nhiều nữ nhân viên,
họ phụ trách về hành chánh, chúng tôi thỉnh thoảng tổ chức ăn trưa chung, mọi
người góp thức ăn, nước uống rồi ngồi quay quần bàn ăn, vừa ăn vừa chuyện trò,
dĩ nhiên là Anh văn của tôi không lưu loát, mặc dù thời Trung học trường tôi
bắt buộc học 2 sinh ngữ, mỗi sinh ngữ 2 hay 4 giờ, nhưng 2 năm cuối lớp 11 và
12 chỉ học 1 sinh ngữ, tôi bị chọn Anh văn rồi lên Cao đẳng chỉ học toàn sách
Anh Văn và cũng chỉ học sinh ngữ tiếng Anh, vì trường đó do Mỹ viện trợ.
Năm 2009 tôi về hưu vì đủ tuổi hưu 66, công ty
tôi làm thời đó, cứ mỗi năm có 1 ngày họ đãi công nhân ăn buổi trưa gọi là
Cook-out, vì hôm đó công nhân không phải mang thức ăn theo, công ty đặt thức
ăn, nước uống do nhà hàng mang đến, ngày nầy họ mời những người đã về hưu tới
dự, có khi họ tổ chức rút thưởng, hoặc tiền hoặc hiện vật như cái Radio, máy
ảnh …
Có lần sau khi tiệc tàn, tôi và anh Trưởng phòng
chụp ảnh kỷ niệm thì cô Shawn tự nhiên bước vào chụp chung với chúng tôi cũng
là kỷ niệm khó quên.
Năm sau đó, cô cũng cùng tôi chụp chung tấm ảnh
kỷ niệm,
Và một lần khác nữa.
Khi người chủ công ty đột tử, tôi có đi dự đám
tang ông ta, Shawn cùng chồng và cô con gái cùng đi dự, từ đó cho đến sau nầy
mỗi lần công ty tổ chức Cook-Out có mời thì tôi đi dự, nhưng không thấy người
chồng cũng như Shawn đi dự, có thể gia đình cô ta đã chuyển đi tiểu bang khác.
Đối với tôi Shawn đã để lại trong tôi những cảm
tình đặc biệt.
866426032024
Tính sổ cuối năm.
Tôi
nghĩ đã viết xong bài, bỗng nhiên nhớ đến một chuyện phải viết thêm. Khóa
1 A Dật Đa có hai khoá sinh tên Mai, bây giờ tôi không nhớ họ của hai khóa sinh
ấy, nhưng có một cô da trắng, mặt tròn trông phúc hậu các cô đặt cho biệt danh
là Mai trắng để phân biệt với cô Mai khác, người dong dỏng cao, da bánh
mật, có nét sắc sảo là Mai đen. Có lẽ Mai trắng nghỉ nửa chừng, còn Mai đen
tham dự đến cuối khóa, Nhưng cả hai, tôi đều không gặp lại sau thời gian Pháp
nạn 1963.
Đến
khoảng năm 1970, hay sau đó vài năm, tại nhà chị Đoàn Thị Kim Cúc ở sau Tổng Vụ Thanh Niên, một
hôm tôi tới thăm chị và các em Phú, Quỳ, Trâm, Phượng, Phước. Nhưng hôm ấy các
em đi học hay đi chơi cả, chị Cúc nói với tôi:
"-
Tông à ! Hồi đó Mai ở A Dật Đa đi làm việc ở Cần Thơ về ghé thăm chi, Mai có
đưa cho chị một số tiền và nói rằng em còn đi học, lại đi sinh hoạt nhiều
khi tốn kém, Mai có chút tiền dư không cần dùng, nhờ chị đưa cho em, để khi cần
cho sinh hoạt, em có mà chi dụng. Chị giữ tiền ấy một thời gian mấy tháng, sau
đó Mai về ghé thăm, chị trao lại tiền ấy cho Mai và nói là em gửi lời cám
ơn Mai, nhưng em có đủ tiền xài rồi, không cần thêm nữa."
Tôi chỉ
ngồi nghe chị Cúc nói, không hỏi lời nào vì tôi bị xúc động, nếu tôi hỏi chắc
chị đã có sẵn câu trả lời, bởi vì chị đã im lặng giữ kín đến khoảng
10 năm sau chị mới nói cho tôi nghe, chắc không phải chị quên, chị cố ý đó. Nay
tôi muốn hỏi chị Mai trắng hay Mai đen, nhưng mà chị đã giữ kín nó đến thiên
thu rồi. Tôi tự an ủi mình Mai nào cũng là Mai của A Dật Đa, có một nghĩa cử,
một tấm lòng với Trưởng của mình.
866428012005
Tôi vẫn còn
2 chuyện tình cảm nữa, một chuyện tình cảm với cô gái bên cạnh nhà, đêm đêm ngồi
nơi bậc thềm trước nhà chuyện trò, dần dần sinh tình cảm tuổi học trò, thời còn
đi học ở cái thành phố nhỏ tỉnh Châu Đốc. Về sau chúng tôi đã lập gia đình, yên
bề gia thất từ lâu rồi. Đôi lần chúng tôi gặp nhau nơi thành phố Long Xuyên,
xem nhau như là bạn một thời tuổi trẻ.
Và một cồ
gái nữa. Gần như cả gia đình nàng từ bà mẹ cho đến các chị các em, đều xem tôi
với nàng là một cập nhân tình, chúng tôi đã nhiều lần đi xem phim ở Đại Nam,
Eden, Rex … Hàng tuần tôi dùng cơm ở nhà nàng đôi ba lần. Đưa đón nàng đi làm ở
quán cơm thuộc Bộ Xã hội, xí nghiệp may quần áo Quân Nhu ở đường Thi Sách, Quận
Nhất, Sàigòn, một đôi khi tôi ngủ lại nhà nàng. Nhưng chúng tôi không có duyên
nợ với nhau. Đến 28-4-1975, trước khi nàng lên phi cơ di tản sang Mỹ, do khi đó
nàng đang làm cho sở Mỹ, nàng có gọi điện thoại đến văn phòng tôi để chào từ biệt,
nhưng tiếc thay lúc đó tôi không có tại văn phòng, chỉ nghe người thư ký chuyển
lời lại.
Sau nầy tôi
sang Mỹ, có gặp lại cô nàng vài lần và có một lần đến nhà, gặp cả chồng nàng,
chúng tôi trò chuyện với nhau như người trong gia đình, vì trước đó mẹ nàng nhận
tôi là con nuôi. Trong gia đình ai cũng gọi bà là Mẹ, chỉ có tôi theo người miền
Nam được gọi là Má. Một hôm má nói với tôi:
- Khi nào
con muốn lập gia đình thì nói cho má biết nghe !
Nghe xong
tôi chỉ biết lễ phép trả lời:
- Dạ
Nhưng
chuyện đó không có xảy ra, vì khi tôi lập gia đình cả nhà nàng không ai biết,
do trước đó nàng và tôi đã chia tay nhau, tôi đã không còn đến gia đình nàng nữa.
Ngày nay
thì nàng đã mất mới vài năm, để lại trong lòng chúng tôi một cuộc tình không trọn
vẹn. Tôi đã lập gia đình, còn nàng đã bước một bước khi mới sang Mỹ, sau nầy bước
thêm bước nữa, sống cho đến cuối đời.
866408092024
No comments:
Post a Comment