Mấy hôm nay tôi suy nghĩ nên viết hay không chuyện tình cảm của tôi, phải thành thật mà nói có thể tôi đã bị nhiễm Tiểu thuyết Thứ Bảy, thứ tiểu thuyết lãng mạn thời tiền chiến tôi đã được đọc từ nhỏ, từ những năm 1950, do trong nhà có những quyển Tiểu Thuyết Thứ Bảy của chú tôi là một thầy giáo trường làng Bình Mỹ, quận Châu Phú tỉnh Châu Đốc, chú tôi mua báo tháng từ Hà Nội gửi vào, để đọc giải trí ở nhà quê. Trường Bình Mỹ nằm bên kia Xép Năng Gù, nhà chú tôi bên nầy sông, mỗi ngày bơi xuồng qua bên kia sông dạy học, cha tôi cho anh kế và tôi theo học trường của chú dạy.
Khi chiến
tranh xảy ra năm 1945, các thầy giáo làng bỏ trường theo Thanh Niên Tiền Phong
chống Pháp hoặc về tỉnh dạy ở trường tỉnh, chú tôi chọn trường hợp thứ hai, bỏ
trường, bỏ cả sách vở ở trường, chú nhờ anh tôi cũng là học trò của chú mang hết
sách vở về nhà tôi. Cô tôi, ở chung nhà với cha mẹ tôi giữ lại bộ Tiểu Thuyết Thứ Bảy để đọc. Vì các Thầy
giáo bỏ trường, nên tôi bị thất học từ đó rồi đi chăn bầy dê nhà, mỗi ngày lấy
theo một tập Tiểu Thuyết Thứ Bảy để đọc,
đó là nguyên do tôi bị nhiễm nó.
Cha mẹ tôi cố
gắng cho anh kế tôi xuống Long Xuyên, gửi ở nhà người quen để được đi học trường
tỉnh, ngôi trường gần nhà anh lớn của tôi và một người bạn lấy để mở lớp dạy tư,
dạy được vài tháng vì vấn đề an ninh thời đó, anh bỏ đi lên Sàigon không biết
anh làm mướn làm thuê chi đó một thời gian, rồi chú tôi lên Sàigòn giới thiệu
cho anh tôi vào làm ở nhà thuốc Nhành Mai số 36 Sabouraine, sau đổi thành Tạ
Thu Thâu, nằm ở cửa Đông chợ Bến Thành, nay là đường Lưu Văn Lang.
Sau khi anh
tôi bỏ làng đi rồi, một người hàng xóm là chú Hai Nguyễn Hoa Hẩu, lấy một lớp của
trường mở lớp dạy tư, tôi được đi học với chú. Chú hai Hẩu là con của ông thầy
giáo hồi hưu Nguyễn Văn Đe, ông tốt nghiệp từ Ecole Normal Saigon, xưa là giáo
viên Trường tỉnh Sa Đéc, sau đổi về dạy ở trường tỉnh Long Xuyên, rồi về hưu. Lúc
tôi đi học ở trường làng Bình Mỹ, thỉnh thoảng ông sang sông đến trường chú tôi,
chú tôi mang ghế ra mé hiên trước lớp học cho ông vừa phơi nắng sáng vừa đọc báo,
ông Bảy Đe gọi ông Phủ Nguyễn Hà Thanh là ông cố, cha tôi cũng gọi ông Phủ nầy
là ông cố, vì ông Phủ là cha nuôi của ông ngoại cha tôi. Hồi nhỏ, bà Nội tôi gửi
chú tôi ở nhà ông Bảy Đe đi học trường tỉnh, lấy được bằng cấp Primaire thời đó,
nên sau nầy chú tôi được sự giúp đỡ của gia đình ông Tri huyện Phạm Ngọc Thố, là
thân phụ của ông Phạm Ngọc Đa ở Châu Đốc, nên chú tôi là Huỳnh Bá Nhệ theo nghiệp
thầy giáo sau nầy.
Năm 1950, chú
Hai Hẩu tổ chức đưa học trò của mình xuống tỉnh thi bằng Sơ Đẳng Tiểu Học. Ai
không có thân nhân ở tỉnh thì chú Hai thuê một chiếc ghe có mui, đem theo cà ràng,
gạo, củi, nước mắm rồi thuê người chèo ghe, nấu ăn, chú đưa học trò xuống tỉnh
dự thi, ai có thân nhân như Huỳnh Hữu Tâm, con chú Chín của tôi và tôi xuống tỉnh
ở nhà anh Nguyễn Vạn An, là anh một mẹ khác cha của Tâm, anh An đang làm Police
tại tỉnh được cấp căn phố để gia đình anh ở.
Ngày đó, chúng
tôi thi tại trường Nam Tiểu học, trong một lớp cột gỗ, vách lá, phía sau lớp là
cái mương lục bình, qua khỏi đó là Trường Trung Học Thoại Ngọc Hầu, hình như mới
thành lập nên chỉ có vài lớp học. Thi xong tôi ở chờ 2 hay 3 hôm sau nghe kết
quả, tôi không nghe có tên mình, mà nghe có xướng danh Huỳnh Hữu Tâm, như thế tôi
cho Tâm đậu còn tôi rớt, nên tôi buồn quá, ra bến xe lẳng lặng leo lên xe đò đi
về. Vài hôm sau, anh tôi về cho biết Huỳnh Hữu Tâm rớt còn tôi đậu, tôi không
nhớ có ai đậu trong chuyến đi thi đó hay không.
Năm đó, chú
Nguyễn Hoa Hẩu xin và được làm giáo viên, Ty Tiểu Học Long Xuyên lại bổ thêm một
thầy giáo. Đó là thầy Nguyễn Văn Chính, người ở Long Kiến quận Chợ Mới đến làm
thầy giáo ở Trường làng tôi. Có tên là Trường Bình Thủy.
Thầy giáo Chính,
đến làng tôi đưa cả gia đình theo gồm có vợ thầy, hai anh con trai anh Quân,
anh Quan và 3 cô con gái chị Liệt, chị Tuyết và cô So, cô So chừng 7, 8 tuổi hớt
tóc như con trai, nước da trắng, môi đỏ như thoa son, đẹp và dễ thương.
Trường khai
giảng lại niên học 1950-1951 có hai thầy giáo là chú Nguyễn Hoa Hẩu dạy lớp Tư
và lớp Ba, thầy giáo Chính dạy lớp Năm. Xưa thời Pháp trường làng xây cất gần
giống nhau, mái ngói móc, lót gạch Tàu, tường xây tô, quét vôi màu vàng, có 3 lớp
học và một căn phụ, để dành cho Trưởng giáo ở. Chú Hai có nhà nên căn phụ gia đình
thầy giáo Chính ở và thầy lấy thêm 1 phòng học để ở.
Khi nghe tôi
nói thi rớt, cha tôi không rầy la chi hết và khi nghe anh tôi nói tôi thi đậu,
cha tôi cũng không tỏ vẻ mừng, nhưng có vẻ suy nghĩ, sau nầy tôi mới biết, cha
mẹ tôi đều buồn cho tôi vì 2 anh tôi đều được đi học trường tỉnh Long Xuyên, còn
tôi vì thời buổi khó khăn, anh kế tôi đang ở tỉnh học, nên không thể cho tôi xuống
tỉnh theo học lớp Nhì.
Cha má tôi
cho tôi ngồi học lại lớp Ba của chú Hai, để cho tôi khỏi quên bài vở, chờ khi có
tiền sẽ cho tôi xuống tỉnh học lớp Nhì. Năm sau, tôi vẫn đi học với chú Hai nhưng
chỉ học 1 buổi sáng, buổi chiều ở nhà chăn bầy dê chừng 5, 7 con để lấy sữa uống.
Rồi sau đó tôi không còn đi học nữa vì tôi đã lớn mà nhà vẫn không có tiền cho
tôi xuống tỉnh học.
Trong thời
gian nầy, tôi bị nhiễm Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
nên đã biết yêu cô So, tôi đã viết “Thư tình mực tím” và đã được cô ta đáp lại
tình yêu đầu đời của tôi. Trong thư cô ta, tôi nhớ nằm lòng cô ta dặn tôi “yêu
em thì để bụng, hãy giấu kín, đừng cho ai biết hết nghe anh”.
Sau đó vào năm
1956, thầy giáo Chính đổi về Trường Long Kiển, gia đình cô dọn về cất nhà tại bến
đò Bà Vệ. Tết năm 1957, Tâm và tôi có đi thăm gia đình nàng, khi đó còn đi học,
sau theo học Trường Cao Đẳng Sư Phạm Long Xuyên ra trường được bổ đi dạy học có
lẽ ở Trường Long Kiến. Vào thập niên 1980, tôi có dịp đi công tác ở Quận Chợ Mới,
nên có ghé thăm thím giáo Chính, nhơn dịp nầy có gặp lại So, So đã lập gia đình
có 2 con trai chừng 7, 8 tuổi. Chúng tôi chỉ gặt đầu chào nhau, nhưng không ai
nói với ai lời nào. Chừng 10 năm gần đây tôi được tin So đã mãn phần.
Năm 1954, lần
lượt cha mẹ tôi mãn phần, tôi được gia đình gửi cho chú Tám là thầy giáo ở Châu
Đốc, ăn ở trong nhà chú để học lớp Nhì, lớp Nhất, rồi thi đậu được chú cho lên
Sàigòn theo học Trường Trung Học kỹ Thuật Cao Thắng từ năm 1956.
Lúc ở Châu Đốc,
bên cạnh căn phố của chú tôi, có cô gái tên Tư là cháu của chủ nhà, hai vợ chồng
chủ nhà không con, nên nuôi dạy Tư như là con gái, Tư cũng là học trò của chú tôi.
Đêm đêm chúng tôi thường ngồi ở bặc thềm trước nhà trò chuyện và lâu ngày nãy
sinh tình cảm là chuyện thường tình.
Khi tôi lên lớp
Nhất trường tỉnh Châu Đốc, vì tôi sinh năm 1941, nên năm 1956, tôi được 15 là
quá tuổi thi vào lớp Đệ Thất Phổ Thông, nên Bác và chú tôi ở quê làm cho tôi Thế
Vì Khai Sanh, khai tôi sinh năm 1943, nên tôi có đủ tuổi thi vào lớp Đệ Thất và
tôi đã đỗ vào Trung Học Thủ Khoa Nghĩa niên học 1956-1957 thứ hạng 51, mặc dù
thi đỗ rồi, chú tôi vẫn cho tôi đi lên Sàigòn thi vào Trường Kỹ Thuật Cao Thắng.
Chú nói với tôi đi học nghề “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, theo tôi được đi
Sàigòn thi là vui rồi, đậu hay không, không cần thiết vì tôi đã đậu vào Thủ
Khoa Nghĩa, cầm chắc trong tay là được đi học tiếp Trung Học. Thật ra, tại Châu
Đốc thời đó, những thầy giáo dạy có tiếng giỏi là thầy Phương, thầy Huệ, thầy Tính mà tôi đã
học với Thầy Tính, lớp tôi năm đó có em của ông Tỉnh Trưởng và nhiều con em của
Thầy giáo cùng học với Thầy, ngay Châu Minh Quyền con của Thầy cũng cùng học với
tôi trong lớp của Thầy, năm đó tôi đứng hạng nhứt lớp.
Đi thi vào
Trung học Thủ Khoa Nghĩa tôi làm trật cả 2 bài Toán đố, thi vào Kỹ Thuật Cao Thắng
tôi chỉ làm trúng có một bài Toán vậy mà tôi thi đậu hạng 132 trên 250 học sinh
trúng tuyển và vượt qua 3 ngàn thí sinh dự thi.
Chú tôi cho
tôi lên Sàigòn học, mặc dù chú còn phải nuôi 6 người con của chú, nên tôi chăm
chỉ học và không có chuyện tình cảm lăng nhăng, mặc dù có lúc tôi ở trong khuôn
viên Nha Kỹ Thuật, do ông Giám Đốc Trần Văn Bạch kỷ sư cầu cống ở Pháp về, trước
đó ông từng làm Bộ Trưởng, ông có lòng nhân cho những học sinh nghèo, hiếu học
nhà ở xa được trú ngụ trong khuôn viên, tự nấu ăn hay ăn cơm tháng ở ngoài.
Trong khuôn
viên của Trường thời đó có những Trường dùng chung một cơ sở là dãi mấy lớp học
nào là Trường Kỹ sư Công nghệ, Trường Quốc Gia Âm Nhạc, về sau có Trường Nữ Công
Gia Chánh do bà Nữ phu nhân của ông Giám thị Tập Cao Thắng làm Hiệu Trưởng, Trường Quốc Gia Thương
Mại do giáo sư Phan Hữu Tạt làm Hiệu Trưởng, trường nào cũng có nữ sinh, nhưng lúc
đó tôi chỉ thích học và tìm hiểu những mới lạ của Thủ đô Sàigòn nó được mệnh
danh là Hòn ngọc viền đông mà.
Rồi tôi quen
với anh Nguyễn Quang Vui, người Huế, cùng ngụ trong khuôn viên Nha Kỹ Thuật,
anh học Trường Quốc Gia Âm Nhạc, rồi tôi và Nguyễn Ngọc Giao tự Giáp nhờ anh đưa
tôi đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Giác Minh. Gia Đình Giác Minh lúc đó sinh hoạt
tại chùa Kim Cương nằm trong con hẽm đường Trương Tấn Bửu nay là Trần Quang Diệu,
nó cũng thông ra đường Nguyễn Huỳnh Đức nay là đường Huỳnh Văn Bánh.
Chùa Kim Cương
ngày đó do Đại Đức Thích Chính Tiến Trụ trì, kiêm Gia Trưởng Gia Đình Phật Tử Giác
Minh, anh Nguyễn Văn Thục Làm Liên Đoàn Trưởng, anh Nguyễn Tín làm Liên Đoàn Phó,
Huynh Trưởng có chị Đào Thị Thành, chị Phương, chị Thủy, chị Tố, anh Phan Huy
Thanh, anh Nguyễn Quang Vui, anh Dũng anh Minh, đơn vị đang sinh hoạt có các đoàn
Thiếu Niên, Thiếu Nữ, Nam Oanh Vũ, Nữ Oanh Vũ, tổng cộng có chừng 60 thành viên.
Lúc anh Giao và tôi đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Giác Minh đang trong thời kỳ
chấn chỉnh tổ chức lại.
Sau đó, tôi
được từ đoàn sinh Đoàn Thiếu Niên trở thành Đoàn sinh Đoàn Nam Phật Tử La Hầu
La do anh Tâm Quang Phan Huy Thanh làm Đoàn Trưởng, rồi Thầy Chính Tiến được bầu
làm Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam trụ sở tại Chùa Giác
Minh 578 Phan Thanh Giản thuộc Quận 3 Sàigòn, Thầy Chính Tiến phải về chùa Giác
Minh làm việc, nên đơn vị Gia Đình phải di chuyển về đây. Đây cũng là nơi mà
Gia Đình Phật Tử Giác Minh được thành lập từ tháng 10 năm 1955 do Thầy Thích Thanh
Cát thành lập và làm Gia Trưởng.
Đến năm
1959, Thầy Chính Tiến mời được bác Nguyễn Đức Lợi chủ sự Phòng Vật Liệu Tổng
Nha Bưu Điện, nguyên là Gia Trưởng ở Hà Nội làm Gia Trưởng thay Thầy, sau đó
anh Nguyễn Văn Thục thôi giữ chức Liên Đoàn Trưởng, anh Nguyễn Quang Vui thay
thế, cũng trong thời gian trước đó, anh Nguyễn Tín, anh Phan Huy Thanh, anh Dũng,
anh Minh, chị Tố, chị Phương ngưng sinh hoạt. Anh Vui đã tổ chức lại, anh Nguyễn
Đình Thống làm Liên Đoàn Phó, giao cho anh Trúc Hải Phan Văn Bưởi làm Đoàn Trưởng
Đoàn Nam Phật Tử La Hầu La, nhờ anh Liên Phú và chị Cung Thị Lan Phương là
Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử Chánh Đạo sinh hoạt tại Chùa Xá Lợi sang làm Đoàn
Trưởng Thiếu Niên và Thiếu Nữ. Bổ nhiệm Lê Xuân Thiệu Đoàn Trưởngvà Nguyễn Địch Thái Đoàn Phó Đoàn
Nam Oanh Vũ, chị Nguyễn Thị Ngân làm Đoàn Trưởng Đoàn Nữ Oanh Vũ. Sau đó anh Liên
Phú ngưng sinh hoạt, tôi được đề bạt làm Đoàn Trưởng Đoàn Thiếu Niên.
Khoảng đầu năm
1960, anh Nguyễn Quang Vui đột ngột rời bỏ chức vụ Liên Đoàn Trưởng, đáng lẽ
anh Nguyễn Đình Thống lên thay, nhưng anh Thống cương quyết từ chối, đẩy chức vụ
nầy sang cho tôi, tôi đành phải nhận.
Một thời gian ngắn sau đó, chị Cung Thị Lan Phương ngưng sinh hoạt với Đoàn Thiếu Nữ, tôi phải đãm nhiệm điều khiển đoàn một thời gian ngắn rồi Thầy Chính Tiến mời được chị Đoàn Thị Kim Cúc làm Đoàn Trưởng, xưa kia ở Huế, chị có sinh hoạt Hướng Đạo, nhưng về Gia Đình Phật Tử chị không có sinh hoạt, do đó tôi phải cố vấn chị nhiều vấn đề.
Anh Nguyễn
Quang Vui tuy nghỉ sinh hoạt ở Giác Minh, nhưng anh được thầy Đức Nhuận chấp
thuận cho anh thành lập Ban Hướng Dẫn GĐPT thuộc Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại
Miền Nam. Năm 1960 Ban Hướng Dẫn nầy được hình thành do Thầy Chính Tiến làm Trưởng
Ban, Bác Nguyễn Đức Lợi làm Phó Ban, Anh Văn Tâm Sỹ làm Tổng Thư Ký, anh Nguyễn
Quang Vui là Ủy viên Nghiên Huấn, chị Đoàn Thị Kim Cúc làm Thủ Quỹ …
Do anh Vui và
tôi có sự bất đồng ý kiến về sinh hoạt ở Ban Hướng Dẫn, nên tôi từ chức Liên Đoàn
Trưởng GĐPT Giác Minh cũng như Phó Tổng Thư Ký Ban Hướng Dẫn GĐPT/GHTGBVTMN,
sau đó anh Bạch Vọng Giang Liên Đoàn Trưởng GĐPT Minh Tâm sinh hoạt tại Chùa
Phước Hòa nghỉ sinh hoạt, do đó anh Tuệ Linh là Tổng Thư Ký Ban Hướng Dẫn GĐPT
thuộc Hội Việt Nam Phật Giáo tại Chùa Phước Hòa Sàigòn, mời tôi về GĐPT Minh Tâm
làm Liên Đoàn Phó Xử Lý Thường Vụ Liên Đoàn Trưởng.
Khi tôi sinh
hoạt tại đây chị Tuệ Tâm là Liên Đoàn Phó, chị Kim Dung là Đoàn Trưởng Thiếu Nữ,
chị Kha Tâm là Đoàn Phó, chị Thanh Minh là Đoàn Trưởng Nữ Oanh Vũ, Định, Khôi,
Minh Châu sau nầy là phu nhân anh Kỳ đều còn là đoàn sinh, cập song sinh Y, Như
là Oanh Vũ. Trước đó chị Tuyết Trinh là Liên Đoàn Trưởng GĐPT Giác Minh khi mới
thành lập.
Tôi không hiểu
Trưởng Tuệ Linh nghĩ chi, một hôm Trưởng nói với tôi: “ Cậu sang đây sinh hoạt,
bên ấy có nữ Huynh trưởng nào thân thiết cậu rủ sang đây sinh hoạt luôn”.
Lúc nầy
Huynh Trưởng Phan Cảnh Tuân và Nguyễn Hữu Huỳnh thành lập Đoàn Huynh Trưởng A Dục,
quy tụ Huynh Trưởng các GĐPT tại Thủ Đô, sau khi sinh hoạt buổi chiều, khoảng 6
giờ đến Đoàn Quán GĐPT Chánh Đạo tại Chùa Xá Lợi sinh hoạt tập trung chủ yếu là
học Phật Pháp với Thầy Thiện Châu, nguyên trụ trì chùa Linh Sơn Đà Lạt, thầy về
Sàigòn học Anh Văn để đi du học. Đoàn A Dục có 2 Đội và 2 chúng, tôi được anh em
bầu làm Đội Trưởng Đội Kiền Trắc, Giáng Sinh năm 1960 Đoàn có đi tham quan Đà Lạt,
trú ngụ tại Chùa Linh Sơn.
Năm 1961,
anh Vui rủ tôi trở lại sinh hoạt với các
GĐPT họ Giác, nên tôi rời khỏi GĐPT Minh Tâm, trở lại sinh hoạt trong Ban Hướng
Dẫn GĐPT/GHTGBVTMN. Một hôm có lẽ vào sáng Chủ nhật, tôi đến nhà chị Đoàn Thị
Kim Cúc, lúc đó chị là chị kết nghĩa với anh Trúc Hải, Nguyễn Khánh Thuận, Lê
Xuân Thiệu, tôi và sau nầy có chị Hồng Loan, chị Yến Như là phu nhân của Bạch
Hoa Mai đã ly dị. Hôm đó có cô Lê Thị Dung đến nhà chị Cúc để thăm các em Quỳ,
Trâm, Phượng là đoàn sinh của cô ta. Dung ra về một lúc sau chừng 10, 15 phút tôi
mới ra về, khi tôi đạp xe đến Công Trường Dân Chủ, tôi thấy cô Dung mặc chiếc áo
trắng có hoa đỏ chen lẫn với lá đen, nhưng bỗng nhiên mắt tôi nhòa đi tôi thấy
hoa đỏ là một đốm máu tươi, thân hình nhỏ đạp chiếc xe. Tôi cảm thấy thương nàng
và bắt đầu yêu Dung từ đó. Mặc dù trước đó tôi quen biết hầu hết các nữ Huynh Trưởng sinh hoạt ở Thủ đô Sàigòn, nhưng thật tình mà nói tôi không để ý đến ai cả từ Đoàn Huynh Trưởng A Dục cho đến Trường Đào tạo Huynh Trưởng A Dật Đa.
Thỉnh thoảng
tôi đến nhà Dung nằm trên đường Lý Thái Tổ, ngoài đầu hẽm có hiệu kem Cẩm Bình,
ngoài Dung ra còn có Trà, Thái và Hà cùng đi sinh hoạt ở GĐPT Giác Minh.
Năm 1963, thân
phụ Dung bệnh già, người nhà nghĩ ông sẽ mất trong đêm nên yêu cầu tôi đêm đó ở
lại. Gia đình Dung có anh trai lớn là anh Toản, nhưng anh không sinh sống tại
nhà, mặc dù anh vẫn ở Sàigòn. Đây là lần đầu tiên tôi ở lại nhà Dung qua đêm.
Quả như dự đoán đêm đó thân phụ Dung qua đời, trước khi ông qua đời, tôi phải bế
ông từ trên gác xuống nhà lúc ấy ông đã quá yếu, chừng 1 giờ sau ông trút hơi
thở cuối cùng, có lẽ lúc ấy chừng 3 giờ sáng. Rồi từ đó, tôi đến nhà Dung có hôm
dùng cơm tối với gia đình. Sau đó mẹ Dung nhận tôi làm con nuôi, trong nhà ai cũng
gọi bà bằng Mợ, riêng tôi người Nam được gọi bà là Má.
Nghĩa mẫu có
nói với tôi một câu, khó quên, nhưng tôi không thực hiện được: “Khi nào con muốn
lấy vợ, nói cho má biết”.
Còn Dung, năm
1964, đi học lớp huấn luyện cán bộ của Bộ Xã Hội rồi đi làm quản lý “quán cơm xã
hội”, sau chuyển qua làm cho Quân Nhu ở Gò Vấp rồi chuyển về Đường Thi Sách,
sau cùng đi làm cho sở Mỹ, lúc nầy chúng tôi chia tay nhau. Đó là một buổi tối
tại quán chè Hiển Khánh, trên đường Phan Đình Phùng, có cả chị Kim, năm đó có
thể là năm 1965.
Tháng rồi được
tin Dung mất, tôi nhớ trước khi rời Việt Nam vào tháng Tư năm 1975, Dung có gọi
phone tới văn phòng của tôi, nhưng khi đó tôi đi ra ngoài uống cà-phê, lức trở
lại văn phòng được anh nhân viên văn phòng báo lại. Năm nào đó vào thập niên
1990, tôi có sang Viginia, được Khiết hoặc Phú đưa tôi đến nhà Dung, Dung gọi điện
thoại cho tôi nói chuyện với chị Kim, còn anh Nguyễn Hữu Hiệu phu quân của Dung
đưa tôi đi xem đền thờ Mẫu xây trong khuôn viên nhà Dung. Năm 1999, Dung có dự Đại
Hội Lưỡng niên của Ái Hữu GĐPT Vĩnh Nghiêm Hải Ngoại, tổ chức tại chùa Giác
Minh thuộc thành phố Palo Alto miền Bắc California. Có lẽ đó là lần sau cùng tôi
gặp Dung.
Lại được tin
cô Đặng Thị Kim Đoan đã mãn phần, tin nầy làm nhiều người ngạc nhiên vì người báo
tin là Mộng Hương ở Canada, lại ghi là Nguyễn Kim Đoan, tôi đoán là Kim Đoan có
gia đình, phu quân của Đoan họ Nguyễn mà đúng vậy là anh Nguyễn Hải Triều. Đúng
ra tôi chỉ biết mặt Đoan, biết Đoan là chị của Đặng Đình Khiết, biết Đoan là Đặng
Thị Kim Đoan, không biết Đoan bao nhiêu tuổi, không biết Đoan là ca sĩ.
Chỉ biết ngày
xưa thỉnh thoảng Đoan đến chùa Giác Minh để gặp các em của Đoan là Oanh Vũ Đặng
Đình Khiết, Đặng Thị Kim Trang, Đặng Đình Chính, Đặng Thị Kim Hạnh và Đặng Thị
Kim Kiểm. Đoan không phải đưa các em đi chùa, vì nhà các em ở gần khu chung cư
Phan Chu Trinh trên đường Chi Lăng nay là đường Phan Đăng Lưu. đi đến chùa Giác
Minh hoặc trở về đều đi bằng Cyclo máy.
Tôi thỉnh
thoảng có gặp Đoan ở khu nhà anh Thu, nhưng tôi không nhớ trước hay sau 1975,
xem Cáo Phó thấy có ghi Đoan là ca sĩ Kiều Loan, nhưng chắc một điều là Đoan không
có chân trong Ban Hoa Niên của anh Thu, vì các anh chị trong Ban Hoa Niên tôi
thường gặp ở nhà anh Thu trước 1975, nào là anh Dũng, anh Liên, anh Ân, chị
Mai. Anh Ân nhà ở Hố Nai cùng tôi làm phù rễ cho anh Thu cuới chị Lê Xuân Mai và
tôi có tấm ảnh chụp chung với các anh, chị nhân ngày tân hôn của anh Liên cùng cô
Quy em gái anh Thu.
Được đọc
bài viết Nguyễn Hải Triều, Một Ðời Chiến Sĩ Dọc Ngang của Nguyễn Thừa Bình, tôi
mới biết Kim Đoan là Ca sĩ Kiều Loan trình diễn ở phòng trà tại Đà Nẵng
trước 1975.
Một người phụ nữ khác cũng hay đến chùa Giác Minh đó là cô Tâm chị của Nguyễn Hữu Lộc và Nguyễn Thị Tuyết Mai, cũng như Kim Đoan, cô Tâm không có đi sinh hoạt GĐPT chỉ thỉnh thoảng đến chùa đưa đón em, nhưng tôi nhớ tới cô Tâm vì cô là người thu tiền tại nhà sách Khai Trí Sàigòn, tôi học ở Cao Thắng thường ra đó đọc sách khi đến lớp mà không có thầy dạy, được nghỉ vài giờ, nên thường ra đường Le Lợi xem “Nam thanh nừ tú” dạo phố, chúng tôi gọi là rửa mắt, hoặc vào các nhà sách Khia Trí, Lê Phan, Tự Lực đọc sách, gọi là “xem sách cọp”, ngoài ra tôi còn liên lạc với ông Khai Trí để ký bán bản quyền sách, hoặc gặp ông để nhận tiền.
Sau nầy ông bị chánh sách của nhà nước cộng sản về “Bài trừ Văn Hóa” hay đánh “Tư sản mại bản”, ông mất hết nhà sách và những nhà kho sách, có một em học sinh của tôi tên Mười, mẹ em ấy có bà con chi với ông Khai Trí, có lần cho tôi biết: “Khắp Sàigòn - Chợ Lớn, ông Khai Trí có chừng 20 căn nhà kho chứa sách, lệnh cho có 2 ngày để kê khai, làm sao ông ấy kê khai hết, nên bị tịch thu sạch”. Sau đó, tôi biết ông Khai Trí vẫn còn 2 căn nhà để ở nằm trên Đường Điện Biên Phủ. Sau đó gia đình ông Khai Trí đi Mỹ, rồi ông trở lại Việt Nam, ông có viết những tác phẩm sau đây:
- Thơ tình VN
và thế giới chọn lọc .
- Quê em mến yêu .
- Làm con nên nhớ .
- Chánh tả cho người miền nam .
- Huế mến yêu .
- Những bài thơ hay trong văn chương Việt Nam
Tôi thích hình ảnh ông Khai Trí chở vợ trên chiếc xe đạp ở Hồ Con Rùa năm 1983, hình ảnh giản dị và hạnh phúc.
Khác với hình ảnh ông bà đang ngồi ở Tòa soạn báo Thiếu Nhi trước 1975:
Và hình ảnh đầy đủ gia đình ông
Khai Trí Nguyễn Văn Trương:
Gia đình ông Khai Trí gồm 8
người con, trong đó có 4 trai, 4 gái.
Sở dĩ tôi viết về ông Khai Trí vì ông là Cố Vấn Hội Cựu Sinh Viên Các Trường Kỹ Thuật Việt Nam trước 1975, TT. Nguyễn Văn Thiệu là Hội viên Danh dự, Đề Đốc Trần Văn Chơn Hội Trưởng Danh dự, Đại Tá Trần Văn Lịch Giám Đốc Hải Quân Công Xưởng là Hội Trưởng trong nhiệm kỳ sau cùng năm 1974-1975. Còn tôi có chân hội viên từ năm 1970.
Từ trái: Nguyễn Văn Lịch, Chung Tấn Can, Lâm Ngươn
Tánh, Trân Văn Chơn, Đoàn Ngọc Bích, Trần Văn Phấn.
866404102023
No comments:
Post a Comment