Pages

Thursday, May 26, 2016

Trần Văn Khê




(1921-2015)
Nhạc sĩ Trần Văn Khê tên khai sinh là Trần Quang Khê sinh ngày 24 tháng 7 năm 1921 tại làng Đông Hòa, tổng Thuận Bình, tỉnh Mỹ Tho nay là huyện Châu Thành, Tiền Giang trong một gia đình có bốn đời làm nhạc sĩ, nên từ nhỏ ông đã làm quen với nhạc cổ truyền. Năm lên 6 tuổi ông đã được cô Ba Viện và cậu Năm Khương dạy đàn kìm, đàn cò, đàn tranh, biết đàn những bản dễ như "Lưu Thuỷ", "Bình Bán vắn", "Kim Tiền", "Long Hổ Hội". Ông nội ông là Trần Quang Diệm tức Năm Diệm, cha ông là Trần Quang Chiêu  còn gọi là Bảy Triều, cô là Trần Ngọc Viện tức Cô Ba Viện, người đã sáng lập gánh cải lương Đồng Nữ ban, đều là những nghệ nhân âm nhạc cổ truyền nổi tiếng. Cụ cố ngoại ông là tướng quân Nguyễn Tri Phương. Ông ngoại ông là Nguyễn Tri Túc, cũng say mê âm nhạc, có ba người con đều theo nghiệp đờn ca. Một trong số đó Nguyễn Tri Khương, thầy dạy nhạc và nhà soạn tuồng cải lương nổi tiếng. Riêng mẹ ông là Nguyễn Thị Dành, cô Tám Dành, sớm tham gia cách mạng, gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1930 và bị thương rồi mất trong năm đó. Cha ông vì thương nhớ vợ nên qua đời năm 1931. Ông có một người anh họ ngoại, con ông Nguyễn Tri Lạc là nhạc sĩ Nguyễn Mỹ Ca.

Mồ côi từ rất sớm, mẹ mất năm 9 tuổi, cha mất năm 10 tuổi, nên ông cùng với hai em là Trần Văn Trạch, về sau là một ca sĩ nổi tiếng, có biệt danh Quái kiệt, Trần Ngọc Sương được cô Ba Viện nuôi nấng. Cô Ba Viện rất thương, cho anh em ông đi học võ, học đàn kìm.

Năm 1931, Trần Văn Khê đậu tiểu học, sang Tam Bình, Vĩnh Long nhờ người cô thứ năm nuôi. Đến đây Trần Văn Khê được học chữ Hán với nhà thơ Thượng Tân Thị. Trong kỳ sơ học năm 1934 tại Vĩnh Long được đậu sơ học có phần Hán Văn. Cả tỉnh chỉ có Trần Văn Khê và Nguyễn Trọng Danh được đậu bằng chữ Hán.

Năm 1934, ông được vào trường Trung học Trương Vĩnh Ký, được cấp học bổng. Học rất giỏi, năm 1938 ông được phần thưởng là một chuyến du lịch từ Sài Gòn đến Hà Nội, ghé qua Phan Thiết, Đà Nẵng, Nha Trang, Huế. Nhờ đậu tú tài phần nhất năm 1940, thủ khoa phần nhì năm 1941, ông được đô đốc Jean Decoux thưởng cho đi viếng cả nước Campuchia xem Chùa Vàng Chùa Bạc tại Nam Vang, viếng Đế Thiên Đế Thích. Khi về Việt Nam, nhờ thầy Phạm Thiều giới thiệu, ông được Đông Hồ tiếp đãi, dẫn đi chơi trong một tuần.

Thời gian này, ông cùng Lưu Hữu Phước, Võ Văn Quan lập dàn nhạc của trường, và dàn nhạc của học sinh trong câu lạc bộ học sinh mang tên là Scola Club của hội SAMIPIC. Ông là người chỉ huy hai dàn nhạc đó.

Năm 1942, Trần Văn Khê ra Hà Nội học y khoa. Tại đây, cùng với Huỳnh Văn Tiểng, Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Phan Huỳnh Tấng nay đổi thành Phạm Hữu Tùng, Nguyễn Thành Nguyên, hoạt động trong khuôn khổ của Tổng hội Sinh viên. Do thể hiện một trình độ cảm nhạc xuất sắc, ông được cử làm nhạc trưởng của giàn nhạc trường, nhân giới thiệu những bài hát của Lưu Hữu Phước. Ông còn tham gia phong trào "Truyền bá quốc ngữ" trong ban của GS Hoàng Xuân Hãn, "Truyền bá vệ sinh" của các sinh viên trường Thuốc, và cùng các bạn Lưu Hữu Phước, Mai Văn Bộ, Huỳnh Văn Tiểng tổ chức những chuyến "đi Hội đền Hùng", và đi viếng sông Bạch Đằng, Ải Chi Lăng, đền Hai Bà.

Năm 1943, ông cưới bà Nguyễn Thị Sương, và sau đó có nhiều sự kiện làm Trần Văn Khê phải xin thôi học để trở về miền Nam. Con trai ông là Trần Quang Hải, sinh năm 1944, sau này cũng là một nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam danh tiếng. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia kháng chiến một thời gian rồi về vùng Pháp kiểm soát cuối năm 1946.

Năm 1946, ông lánh nạn ở Tây Ninh nên sáng tác Đi chơi Chùa Hương, Thời gian Giận nhau là phổ thơ của Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu và Nguyễn Xuân Huy.

Năm 1949, ông sang Pháp du học. Hè năm 1951, ông thi đậu vào trường Chính trị Khoa giao dịch quốc tế. Cho đến năm 1958, ông theo học khoa nhạc học và chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự chỉ đạo của các Giáo sư Jacques Chailley, Emile Gaspardone và André Schaeffner. Tháng 6 năm 1958, ông đậu Tiến sĩ Văn khoa môn Nhạc học của Đại học Sorbonne. Luận văn của ông có tên: LaMusique vietnamienne traditionnelle (Âm nhạc truyền thống Việt Nam).

Năm 1960, bà Sương và ông ly dị, tuy nhiên sau này vẫn coi nhau là bạn. Sau đó ông có vkhác.

Từ năm 1963, ông dạy trong Trung tâm Nghiên cứu nhạc Đông phương, dưới sự bảo trợ của Viện Nhạc học Paris (Institut de Musicologie de Paris). Ông là thành viên của Viện Khoa học Pháp, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm châu Âu về Khoa học, Văn chương và Nghệ thuật cũng như nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế khác; là Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện quốc tế nghiên cứu âm nhạc bằng phương pháp đối chiếu của Đức (International Institute for Comparative Music Studies).
Ông đã đi 67 nước trên khắp thế giới để nói chuyện, giảng dạy về âm nhạc dân tộc Việt Nam.

Sau 50 năm nghiên cứu và giảng dạy ở Pháp, năm 2006, ông chính thức trở về sinh sống và tiếp tục sự nghiệp nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc dân tộc tại Việt Nam. Ông cũng là người đã hiến tặng cho Tp. HCM. 420 kiện hiện vật quý, trong đó có nhiều loại nhạc cụ dân tộc và tài liệu âm nhạc.

Năm 2009, ông là một trong những trí thức nổi tiếng ký vào thư phản đối dự án Boxit ở Tây Nguyên.
Sau một thời gian bị bệnh, ông qua đời vào khoảng hai giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 2015 tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, Tp. HCM. Thọ 84 tuổi.

Được các giải thưởng:

- Giải thưởng nhạc cụ dân tộc tại Liên hoan Thanh niên Budapest. Năm 1949.
- Huy chương bội tinh hạng nhứt của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
- Văn hoá bội tinh hạng nhứt của Bộ giáo dục Việt Nam Cộng hòa.
- Tiến sĩ âm nhạc danh dự (Docteur en musique, honoris causa) của Đại học Ottawa, Canada. Năm 1975.
- Giải thưởng âm nhạc của UNESCO ở Hội đồng Quốc tế Âm nhạc (Prix UNESCO - CIM de la Musique). Năm 1981.
- Officier de l'Ordre des Arts et des Lettres, Ministère de la Culture et de l'Information du Gouvernement français (Huy chương về Nghệ thuật và Văn chương của Bộ Văn hoá Pháp). Năm 1991.
- Cử vào Hàn lâm viện châu Âu về Khoa học, Văn chương, Nghệ thuật; viện sĩ thông tấn. Năm 1993.
- Huy chương Vì Văn hoá Dân tộc của Bộ Văn hoá Việt Nam. Năm 1998.
- Huân chương Lao động hạng nhất do Chủ tịch nước Trần Đức Lương cấp. Năm 1999.
- Giải thưởng Đào Tấn do Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc trao tặng. Năm 2005.
- Giải thưởng Phan Châu Trinh về nghiên cứu. Năm 2011

Ca khúc:

- Đi chơi Chùa Hương (1946)
- Giận nhau
- Thời gian
- Thống Nhứt
(1947, l
ời Mai Văn Bộ)
- Công nhân (1948, lời Nguyễn Văn Hiếu)
- Xuân khói lửa (1952)
- Mưa
- Đi cắm trại (1956)
- Mừng Chú Rể, Mừng cô dâu
(1957)
- Ôi đợi chở (ph
ổ nhạc thơ Mộng Trung)
- Ngủ đi em !
(như trên)
- Mai rừng
(như trên)
- Chỉ có một lần thôi
(như trên)
- Lòng Anh, Lòng Em (phổ  nhạc thơ của m
ột nữ sinh Đồng Khánh)
- Nàng Nhạc (1958, thơ của Nguyễn Văn Cổn)
- Nu na.. Nu nống (1962-1963, nhạc thiếu nhi)
- Chi chi… chành chành
(như trên)
- Rồng..Rắn  
(như trên)
- Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
(như trên)
- Con công hay múa
(như trên)
- Tự thuật (1988, ph
ổ nhạc theo bài thơ của tác giả tại Hawaii)
Tài liệu tham khảo:

- Trần Văn Khê Web: Wikipedia

Ca khúc Con công hay múa do Gs Trần Văn Khê và Câu Lạc Bộ Tiếng hát quê hương

https://www.youtube.com/watch?v=uoeaDBlKq4c

https://www.youtube.com/watch?v=uoeaDBlKq4c

No comments:

Post a Comment