(1932-20 )
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng 3
năm 1932 tại quận 1, Sài Gòn nhưng nguyên quán của ông ở Lợi Thuận, Bến Cầu,
Tây Ninh. Thuở bé, do điều kiện gia đình, ông học ở nhà dưới sự hướng dẫn của
thầy học. Sau ông theo học bậc trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao.
Năm 1945, chính quyền
Pháp đóng cửa trường Huỳnh Khương Ninh. Năm 1946, gia đình gửi ông vào trường
Thiếu sinh quân Việt Nam ở Vũng Tàu, khi đấy ông mới 14 tuổi.
Thời gian tại trường
Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc của Học
viện Âm nhạc Quốc gia Pháp sang giảng dạy. Chỉ sau một thời gian ngắn sau, ông
trở thành một thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng
nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như
Thiếu sinh quân hành khúc, Tạm biệt mùa
hè...
Sau khi tốt nghiệp
trường Thiếu sinh quân Vũng Tàu, ông nhập ngũ chính thức vào Quân đội Quốc gia
Việt Nam. Năm 1951, ông được cử theo học khóa 4 trường Võ bị Sĩ quan Vũng Tàu
và tốt nghiệp thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy vào năm 1952. Năm sau, ông được cử
đi học khóa huấn luyện "Ðại đội trưởng" tại trường Võ bị Ðà Lạt. Năm
1954, ông được gửi ra Hà Nội theo học khóa "Tiểu đoàn trưởng" tại
trường chiến thuật Hà Nội. Ra trường, ông nhận chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn trọng pháo 553, trở thành Tiểu đoàn trưởng trẻ nhất của Quân đội Quốc gia
Việt Nam khi mới 24 tuổi.
Sau Hiệp định Genève,
1954, ông chuyển vào Nam, phục vụ tại Phân khu Đồng Tháp Mười với chức vụ Trung
úy Trưởng phòng Hành quân. Thời gian này, ông còn kiêm nhiệm chức Trưởng phòng
3 (Tác chiến) của Phân khu, dưới quyền Đại tá Nguyễn Văn Là, tham gia Chiến
dịch Thoại Ngọc Hầu 1956. Bấy giờ, tướng Dương Văn Minh là Tư lệnh chiến dịch,
từng đến bắt tay ông tỏ lòng ngưỡng mộ. Bức ảnh chụp tướng Minh bắt tay ông đã
được in trên trang nhất của báo Chiến sĩ Cộng hòa. Ông thăng đến chức
đại tá trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau sự kiện 30 tháng
4, 1975, Nguyễn Văn Đông bị đi học tập cải tạo 10 năm và ngừng sáng tác từ đó.
Ông đủ điều kiện đi Mỹ, nhưng do bệnh tật, không muốn bỏ mình nơi xứ người, nên
rút đơn diện HO. Sau nhờ có bệnh viện nước ngoài tại Tp. HCM có bác sĩ giỏi
chữa trị nên khỏi bệnh. Hiện ông sống tại Phú Nhuận, Tp. HCM cùng gia đình.
Nguyễn Văn Đông từng
nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc ở Sài Gòn trước 30 tháng 4 năm 1975.
Trong thập niên 1950, Nguyễn Văn Đông nổi tiếng khi là Truởng Đoàn văn nghệ Vì
Dân với thành phần ca nhạc sĩ tên tuổi như Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Thu
Hồ, Quách Đàm, Minh Diệu, Khánh Ngọc và các nghệ sĩ danh tiếng như Kim Cương,
Vân Hùng, Ba Vân, Bảy Xê, Trần Văn Trạch, diễn viên điện ảnh Trang Thiên Kim...
Ông đã tổ chức và điều khiển các chương trình đại nhạc hội tại Sài Gòn và khắp
các tỉnh của Việt Nam Cộng hòa.
Từ năm 1958, Nguyễn
Văn Đông là trưởng ban ca nhạc Tiếng Thời Gian của Đài Phát thanh Sài Gòn, gồm
những danh ca, nhạc sĩ danh tiếng như Lệ Thanh, Hà Thanh, Minh Diệu, Khánh
Ngọc, Mạnh Phát, Thu Hồ, Quách Đàm, Anh Ngọc... Năm sau ông là trưởng ban tổ
chức Đại hội thi đua Văn nghệ toàn quốc ở cấp quốc gia, đã huy tụ trên 40 đoàn
văn nghệ đại diện cho cả miền Nam cùng tranh giải suốt 15 ngày đêm tại Sài Gòn.
Ông cũng từng nhận giải âm nhạc quốc gia, một giải thường do Đệ nhất phu nhân
Trần Lệ Xuân trao tặng.
Nguyễn Văn Đông còn
là giám đốc hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, cộng tác với những nhạc
sĩ tên tuổi như Lê Văn Thiện, Văn Phụng, Nghiêm Phú Phi, Y Vân... Hai cơ sở của
ông cho ra đời nhiều chương trình tân nhạc cũng như cổ nhạc gồm các vở tuồng và
cải lương. Chính Nguyễn Văn Đông là người đã tiên phong thực hiện album riêng
cho từng ca sĩ mà trước đó chưa từng ai làm. Ông đã thực hiện loạt băng nhạc
Sơn Ca nổi tiếng trong đó có Khánh Ly với băng nhạc Sơn Ca 7, Thái Thanh và ban
Thăng Long - Sơn Ca 10, Lệ Thu - Sơn Ca 9, Phương Dung - Sơn Ca 5 và 11, Giao
Linh - Sơn Ca 6, Sơn Ca - Sơn Ca 8... và một số album riêng cho Trịnh Công Sơn.
Nhiều sáng tác của
Nguyễn Văn Đông viết về chủ đề người lính miền Nam thời đó. Nhạc phẩm Phiên
gác đêm xuân được ông viết vào đêm 30 Tết năm 1956 khi gác phiên ở khu 9
Đồng Tháp Mười. Chiều mưa biên giới ra đời năm 1956 và nổi tiếng qua
tiếng hát của Trần Văn Trạch. Chiều mưa biên giới và Mấy dặm sơn khê
đã từng gây cho ông nhiều khó khăn khi bị Bộ Thông tin Việt Nam Cộng hòa ra
quyết định cấm phổ biến vì lý do phản chiến vào năm 1961. "Khúc tình ca
hàng hàng lớp lớp" nổi tiếng qua tiếng hát của Hà Thanh nhưng thường bị
nhầm với nhạc phẩm Khúc tình Kinh Kha của Phạm Duy. Hà Thanh cũng chính
là ca sĩ trình bày thành công nhất các nhạc phẩm của ông.
Nguyễn Văn Đông còn
có nhiều bút danh khác như Phượng Linh, Phương Hà trên một số
nhạc phẩm tình cảm như Khi đã yêu, Thầm kín, Niềm đau dĩ vãng,
Nhớ một chiều xuân... Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh,
ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng, cải lương nổi tiếng ở
miền Nam trước năm 1975 như Nửa đời hương phấn, Đoạn tuyệt, Tiếng
hạc trong trăng, Mưa rừng...
Trong bài: Chinh chiến một thời trong những tình khúc của Nguyễn Văn Đông. Tác giả Bích Huyền viết:
Với những tình khúc Nguyễn Văn Đông, hình ảnh
và tâm tư người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa rất là rõ nét, mặc dù ông không mô
tả rõ ràng. Chất thơ trong lời, trong nhạc của Nguyễn Văn Đông bàng bạc,phảng
phất rất thơ mộng nhưng lại là một cái gì rất thưc. Nhạc Nguyễn Văn Đông bay
bổng nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Lời hát diễm lệ bay bướm nhưng không cao xa.
Những nỗi niềm thương nhớ, những gặp gỡ ly tan, những hy vọng đợi chờ, những
đớn đau hạnh phúc ... trong nhạc Nguyễn Văn Đông rất gần gũi với cuộc sống và
tâm hồn của nhiều người, mọi tầng lớp trong xã hội. Người ta nghe nhạc Nguyễn
Văn Đông bằng trái tim và bằng cả tâm hồn ...
Ca khúc:
- Anh
- Anh trước, tôi sau
- Bà mẹ hai con
- Bài ca hạnh phúc
- Bến đò biên giới
- Bông hồng cài áo trắng
- Chiều mưa biên giới
- Chúc tết (Đông Phương Tử)
- Chuyện tình hoa pensée
- Cuốn theo chiều gió
- Cung thương ngày cũ (đồng sáng tác với Mạnh Phát)
- Dáng xuân xưa
- Đêm buồn (đồng sáng tác với Lam Phương)
- Đêm thánh huy hoàng
- Đôi bờ thương nhớ
- Đồng Tháp duyên gì (bút hiệu Vì Dân viết chung với Minh Kỳ)
- Hải ngoại thương ca
- Hiến dâng
- Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp
- Khúc xuân ca
- Lá thư người lính chiến
- Lời hứa ban đầu (Phương Hà)
- Màu xanh Noel (Phương Hà)
- Mấy dặm sơn khê
- Mùa sao sang
- Ngày mai anh về
- Ngày vui pháo nhuộm đường
- Người tình yêu dấu
- Nguyện cầu trên bến ngàn năm
- Nếu có em bên anh
- Nhớ một chiều xuân
- Nhớ người viễn xứ (đồng sáng tác với Lâm Tuyền)
- Núi và gió
- Phiên gác đêm xuân
- Sắc hoa màu nhớ (Vì Dân)
- Thu hoài cảm
- Tình cố hương
- Tình đầu xót xa
- Trái tim Việt Nam
- Truông mây
- Về mái nhà xưa
- Vô thường
- Việt Nam hôm nay (Phương Hà)
- Xa người mình yêu (Phương Hà)
- Xin chúa thấu lòng con
- Bóng nhỏ giáo đường (Phượng Linh)
- Cay đắng tình đời (Phượng Linh)
- Chiếc bóng công viên (Phượng Linh)
- Cô nữ sinh Gia Long (Phượng Linh)
- Dạ sầu (Phượng Linh)
- Đoàn chim cánh sắt (đồng sáng tác với Ngọc Sơn)
- Đom đóm (Phượng Linh)
- Đoạn tuyệt (Phượng Linh)
- Giáo đường chiều chủ nhật (Phượng Linh)
- Khi đã yêu (Phượng Linh)
- Lời giã biệt (Phượng Linh)
- Mây chiều (Phượng Linh & Mây Tần)
- Nỗi buồn duyên kiếp (Phượng Linh)
- Niềm đau dĩ vãng (Phượng Linh)
- Thầm kín (Bẽ bàng) (Phượng Linh)
- Thương muộn (Phượng Linh)
- Thương về mùa đông biên giới (Phượng Linh)
- Tình người ngoại đạo (Phượng Linh)
- Xin đừng trách anh (Phượng Linh)
- Anh trước, tôi sau
- Bà mẹ hai con
- Bài ca hạnh phúc
- Bến đò biên giới
- Bông hồng cài áo trắng
- Chiều mưa biên giới
- Chúc tết (Đông Phương Tử)
- Chuyện tình hoa pensée
- Cuốn theo chiều gió
- Cung thương ngày cũ (đồng sáng tác với Mạnh Phát)
- Dáng xuân xưa
- Đêm buồn (đồng sáng tác với Lam Phương)
- Đêm thánh huy hoàng
- Đôi bờ thương nhớ
- Đồng Tháp duyên gì (bút hiệu Vì Dân viết chung với Minh Kỳ)
- Hải ngoại thương ca
- Hiến dâng
- Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp
- Khúc xuân ca
- Lá thư người lính chiến
- Lời hứa ban đầu (Phương Hà)
- Màu xanh Noel (Phương Hà)
- Mấy dặm sơn khê
- Mùa sao sang
- Ngày mai anh về
- Ngày vui pháo nhuộm đường
- Người tình yêu dấu
- Nguyện cầu trên bến ngàn năm
- Nếu có em bên anh
- Nhớ một chiều xuân
- Nhớ người viễn xứ (đồng sáng tác với Lâm Tuyền)
- Núi và gió
- Phiên gác đêm xuân
- Sắc hoa màu nhớ (Vì Dân)
- Thu hoài cảm
- Tình cố hương
- Tình đầu xót xa
- Trái tim Việt Nam
- Truông mây
- Về mái nhà xưa
- Vô thường
- Việt Nam hôm nay (Phương Hà)
- Xa người mình yêu (Phương Hà)
- Xin chúa thấu lòng con
- Bóng nhỏ giáo đường (Phượng Linh)
- Cay đắng tình đời (Phượng Linh)
- Chiếc bóng công viên (Phượng Linh)
- Cô nữ sinh Gia Long (Phượng Linh)
- Dạ sầu (Phượng Linh)
- Đoàn chim cánh sắt (đồng sáng tác với Ngọc Sơn)
- Đom đóm (Phượng Linh)
- Đoạn tuyệt (Phượng Linh)
- Giáo đường chiều chủ nhật (Phượng Linh)
- Khi đã yêu (Phượng Linh)
- Lời giã biệt (Phượng Linh)
- Mây chiều (Phượng Linh & Mây Tần)
- Nỗi buồn duyên kiếp (Phượng Linh)
- Niềm đau dĩ vãng (Phượng Linh)
- Thầm kín (Bẽ bàng) (Phượng Linh)
- Thương muộn (Phượng Linh)
- Thương về mùa đông biên giới (Phượng Linh)
- Tình người ngoại đạo (Phượng Linh)
- Xin đừng trách anh (Phượng Linh)
Soạn lời Việt:
- Ave Maria (Franz Schubert)
- Đêm thánh vô cùng ("Stille Nacht" của Franz Xaver Gruber)
- Hồi chuông nửa đêm ("The One Horse Open Sleigh", tức "Jingle Bells", của James Pierpont)
- Đêm thánh vô cùng ("Stille Nacht" của Franz Xaver Gruber)
- Hồi chuông nửa đêm ("The One Horse Open Sleigh", tức "Jingle Bells", của James Pierpont)
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Văn Đông Web: Wikipedia
- Bích Huyền Chinh chiến một thời trong những tình khúc của Nguyễn Văn Đông Web: hocxa.com
Ca khúc Chiều mưa biên
giới do danh ca Thanh Tuyền trình bày
https://www.youtube.com/watch?v=siEcXZwRZLQ
Đoàn Văn Nghệ Vì Dân do Nguyễn Văn Đông
làm Trưởng Đoàn đi trình diễn ở vùng Đồng Tháp năm 1959
làm Trưởng Đoàn đi trình diễn ở vùng Đồng Tháp năm 1959
No comments:
Post a Comment