Pages

Thursday, April 25, 2019

Ngày rời cố đô Huế


Hôm qua 3 thành viên đã đáp chuyến bay về Sàigòn, vì họ có công việc phải làm đó là Hải Đoan, Thanh và Nga. Chúng tôi còn lại có Quân, Đà, Laura, Tiên, nhà tôi và tôi.

Hôm nay, 22-4-2019 sáng sớm tôi đi ra sông Hương ngồi uống cà phê vỉa hè, có những người già cũng như trung niên đi bộ thể thao, có những người đi bộ xong, quay quần bên bàn cà-phê thưởng thức những giọt đắng và trao đổi nhau những câu chuyện buồn vui.


Tôi lấy một cái ghế, ngồi nhìn ra sông Hương, gọi ly cà phê sữa, thả hồn nhìn trên cầu Tràng Tiền xe cộ qua lại, nhìn bên kia sông, ẩn sau hàng cây xanh là chợ Đông Ba.


Tưởng cũng nên nói về câu Ca dao:

Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp,
Thương nhau rồi xin kịp về mau.
Kẻo mai tê bóng xế qua cầu,
Bạn còn thương bạn, biết gửi sầu về nơi mô ?

Với cầu, sàn nối từ móng nọ sang móng kia gọi là nhịp. Vậy cầu Tràng Tiền có 6 nhịp, mỗi bên có phần hình vòng cung gọi là Vài. Như vậy thực tế Cầu Tràng Tiền chỉ có 6 nhịp và có đến 12 Vài. Nhưng do người ta đặt Ca dao, thay đổi chỗ cho được đúng vần đúng điệu.

Buổi sáng thật thanh bình trên bờ sông Hương, dùng xong ly cà phê, tôi đứng lên theo đường đi bộ dọc bờ sông trở về khách sạn, nhìn về phía Cồn Hến thấy có người chèo thuyền buỗi sáng thật quá nên thơ.


Sáng nay chúng tôi cùng đi trên chuyến xe 7 chỗ, do Quân chủ động hướng dẫn, trước tiên là đi đến Vĩ Dạ, do đường đang sửa chữa, nên chúng tôi chỉ đến một đoạn ngắn, nhìn ngôi nhà xưa với những hàng cau, để nhớ đến Hàn Mạc Tử, viết về mối tình si tiểu thư Hoàng Thị Kim Cúc, sau nầy chị là Tổng Giám Thị Trường Đồng Khánh.


Hoàng Thị Kim Cúc

Bài thơ nhiều người đã biết Ðây Thôn Vĩ Dạ :

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay,
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ?

Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo anh trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.


Năm 1941, Chị Hoàng Thị Kim Cúc có bài thơ cảm tác Ở Đây Thôn Vỹ Dạ:

Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm.
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ!
Một mình một cõi với nước mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây.
Hồn anh lẫn khuất tận mô xa,
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa đời phức tạp ấy
Ai biết tình ai vẫn đậm đà!!

(H.H. thôn nữ)

Xin mời đọc chi tiết tại  https://kontumquetoi.com/2017/04/21/la-truc-che-ngang-mat-chu-diengai-hue-thoi-tien-chien-phan-thanh-tam/


Người ta cũng nhắc đến Mộng Cầm, tôi nhớ có đọc bài báo viết về Mộng Cầm, có đăng cả ảnh, thi sĩ Mộng Cầm mất vào ngày 23-7-2007 tại Phan Thiết.  

                                        Ảnh bà Mộng Cầm chụp vào năm 1990

Quân thích ghi kỷ niệm tại ngôi nhà xưa ở Vĩ Dạ.


Rời thôn Vĩ Dạ, chúng tôi đi tham quan cầu ngói Thanh Toàn. Tại đây có nhiều du khách ngoại quốc hơn là du khách Việt.


Cầu ngói Thanh Toàn bắt ngang qua con rạch, có thể đi bộ. Hay đi xe đạp, để đi phương tiện khác người ta xây một cây cầu khác cách đó chừng 4 hay 5 mươi thước.


Chúng tôi thuê xuồng, cứ 3 người 1 chiếc, sau khi xuống xuồng, trước tiên người ta thả một mẻ lưới rồi bơi xuồng chui qua cầu, ra một con rạch lớn hơn một chút. Người bơi xuồng, bơi một đoạn rồi bơi trở lui cho chúng tôi chụp ảnh có cái Vó, sau đó chui qua cầu thu lưới để bắt cá, có nhiều cá mắc lưới, cá chỉ lớn chừng 2 ngón tay, cá mắc lưới cả thảy chừng chục con. Quân cho tiền, yêu cầu họ thả cá chớ không nên bắt chúng.


Lên bờ, chúng tôi giải khát nước mía, nơi đây có ngôi chợ làng buôn bán khá rộn rịp. Chúng tôi mua 2 bộ bình trà, một bộ có cả cái khay bằng tre. Quân, Laura, Tiên thích ngồi nghe một chị bán hàng ngâm thơ. Trước đó Quân cho tôi biết chị ta là nhà thơ, tôi hỏi tên Quân không nhớ, bảo lên mạng tìm thì có. Đố ai tìm được khi chúng ta không biết nhà thơ tên chi. Tôi hỏi chị ta, chị ta bảo ủng hộ mua hàng đi thì biết ngay. Tôi có đứng từ cửa hàng bán ấm chén, nghe chị ta ngâm thơ nhưng cũng chẳng rõ chị ta là thi sĩ với nghệ danh là chi.


Sau khi nghe ngâm thơ và mua vài vật kỷ niệm xong, chúng tôi ra xe đi đến chùa Diệu Đế, hiện nay chùa đang trùng tu ngôi Chánh điện vài năm nữa mới xong.


Thấy Laura và Tiên chụp ảnh bên cạnh cây vả, tôi hỏi một chị làm bếp đứng gần đó hái một trái ăn, chị lấy dao gọt vỏ, xẻ ra làm mấy miếng và lấy muối cho tôi dung, nhưng chị cho biết trái nầy già ăn sẽ chát.


Có một thầy có lẽ là thầy trụ trì, bảo tôi: “Anh hái trái non ăn ngon hơn”. Thế là chị khi nảy hái cho tôi vài trái non, tôi lấy một trái ăn để nhớ tới năm 1965, đi với phái đoàn BHDTW GĐPTVN có cả Thầy Minh Châu, anh Trần Quang Thuận và các anh Võ Đình Cường, Cao Chánh Hựu, Lê Cao Phan, Lữ Hồ, Lương Hoàng Chuẩn, Nguyễn Khắc Từ…

Lúc tham quan chùa Thiên Mụ anh Trần Quang Thuận xin phép Ôn Đôn Hậu mở cửa Tháp, nhờ đó tôi đã leo lên đến tầng tận cùng, nghe nói xưa kia thờ tượng Phật bằng vàng trên đó. Hơn nữa lúc ra phía hông chùa, thấy anh Thuận đang ăn sống trái chi xanh xanh, hỏi anh, anh bảo: “Trái vả, bẻ một trái ăn cho biết hỷ ! Xuống bếp xin muối, chấm muối như anh đây mới ngon.”

Những người tôi nêu tên trên, ngày nay không còn nữa, hoặc đã cao đăng Phật quốc hoặc cát bụi trở về cát bụi từ lâu rồi.
 

Rời Diệu Đế, chúng tôi đến chùa Từ Vân. Thầy trụ trì Thích Vân Pháp và anh Quân đã quen biết nhau từ một chuyến du lịch, tham quan chùa chiền ở Miến Điện hay Tích Lan trước đó.


Chúng tôi vào chùa lễ Phật, rồi sang hậu liêu, Thầy Trụ trì đang thọ trai, nên chúng tôi được thị giả mời sang phòng khách uống trà. Sau khi thọ trai xong, Thầy Vân Pháp sang tiếp nhóm chúng tôi rất thân tình. Thầy đem hộp bánh chocola ra mời, mọi người không dám chối từ.


Thấy ngồi đã lâu, hơn nửa vào giờ trưa nên chúng tôi cáo từ. Mọi người được mời chụp tấm ảnh kỷ niệm với Thầy cạnh bức tranh thư pháp.


Nghĩ rằng còn chút thì giờ, nên tôi đề nghị đi viếng chùa Tường Vân, mọi người đều đồng ý, mặc dù đã quá ngọ. Cho nên đến chùa, chỉ viếng cảnh chớ không thể vào Chánh điện lễ Phật. Tôi đi tìm và gặp Tháp của Hòa Thượng Chơn Thiện, Thầy là người chủ xướng, tôi tham gia vào thành lập Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, nếu tôi nhớ không lầm, ngày 12 tháng Giêng năm 1965, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Viện Đại Học Vạn Thầy, ngay sau buổi lễ, thầy Chơn Thiện biết tôi là bạn với anh của Thầy là Nguyễn Văn Quýnh, nên Thầy mời tôi tham gia, tôi mời anh Nguyễn Đình Nam cùng tham gia, sau khi liên danh chúng tôi đắc cử, Luật sư Trần Tiến Tự làm Chủ tịch, Thầy Chơn Thiện, Phó Ngoại vụ, tôi Phó Nội vụ, anh Trần Thiện Bật Tổng Thư Ký, anh Nguyễn Đình Nam Phó TTK, chị Nguyễn Thị Nghĩa Thủ quỷ.


Mấy năm trước tôi đã biết tin Thầy viên tịch, nay ra Huế thăm lại Tường Vân, thấy được công trình xây dựng chùa rất hoành tráng, tôi đã tìm thấy tháp của Thầy. Trước kia tôi biết thế danh thầy là Nguyễn Hội, sinh năm 1942, pháp hiệu Chơn Thiện, nay mới biết thêm Pháp danh Thầy là Tâm Ngộ, nên phía sau lưng bia mộ của Thầy có một chữ Ngộ.


Vì buổi trưa chư Tăng nghỉ trưa, không thấy ai cả, nên mọi người ra về. Khi ra tới xe đậu trong sân chùa, tôi chợt nhớ, phía tay phải của chùa có ngôi nhà khá lớn, cửa mở và gian bên cạnh cũng mở cửa, nên tôi trở vào, bước lên các bậc thang, đi qua khoảng sân, bước vào trong gian chính, tôi thấy có một bàn thờ khá lớn, treo độc tấm ảnh màu của Hòa Thượng Chơn Thiện. Không thể gọi là Tổ đường, có thể gọi là điện thờ Hòa Thượng Chơn Thiện.

Trước bàn thờ có một bộ ván, hai bên là 2 hàng pháp khí, trước bộ ván có chuông và mõ.


Tôi nghĩ, có thể trước đây là phòng làm việc hay phòng khách của Hòa Thượng. Tôi bước qua bên cạnh, là một căn phòng nhỏ, có lẽ là phòng của thị giả của Thầy. Dù rằng không thể vào Chánh điện lễ Phật, nhưng đã viếng được tháp, bia mộ và điện thờ Hòa Thượng, nên tôi ra xe.

Đã quá trưa, nên chúng tôi đi luôn đến nhà hàng chay Thiền Tâm dùng cơm trưa.
 

Trời hôm nay cũng khá oi bức, sau khi dùng cơm xong chúng tôi về khách sạn nghỉ ngơi, để 16 gìờ 30 trả phòng, ra phi trường Phú Bài đáp chuyến bay 18 giờ 30 về Sàigòn.

Về khách sạn nghỉ một lúc, nhìn đồng hồ đã 15 giờ, tôi nghĩ sao mình không đến Từ Đàm thăm lại chốn xưa ? Vào tháng Giêng năm 1964 chúng tôi ra Huế với Phái đoàn Huynh Trưởng Thủ Đô, năm đó chúng tôi ngụ tại chùa Linh Phong, thăm viếng Từ Đàm, Từ Hiếu, Diệu Đế, Thiên Mụ, Ba La Mật …

Tôi gợi ý, nhà tôi đồng ý thế là chúng tôi gọi Taxi đi tới Từ Đàm, mới vào sân chụp tấm ảnh chùa, tháp và cây Bồ đề, có một cô Phật tử chỉ cho nhà tôi biết trên lầu chỗ Hòa Thượng Thích Trí Quang ở. Thế là chúng tôi lên lầu, cô ta lại theo lên hướng dẫn chúng tôi nhờ một thầy đang tưới lan, nhờ thầy ấy giúp cho vào thăm Hòa Thượng. Thầy ấy cũng sốt sắn đi tìm Thị giả báo cho biết chúng tôi muốn thăm viếng Hòa Thượng. Vị tăng nầy bảo cho tôi biết thăm được hay không là do Thị giả.


Khi Thị giả mở cửa phòng ra hỏi tôi có việc chi cần gặp Hòa Thượng. Tôi cho biết trước đây khi Hòa Thượng ở Quảng Hương Già Lam, Gia Định giáo sư Nguyễn Văn Hai nguyên Phó Viện trưởng Viện Đại Học Huế có nhờ tôi đến thăm sức khỏe Hòa Thượng, nay nhân tôi từ Sàigòn ra đây muốn thăm sức khỏe của Hòa Thượng.

Thị giả hỏi:

- Có phải Hồng Dương Nguyễn Văn Hai không ?

- Dạ phải.

Thị giả ôn tồn nói với tôi:

- Xin lỗi ! Do Hòa Thượng bị bệnh mất ngủ, nay ngài đang ngủ, tôi không thể đánh thức ngài dậy. Tôi đưa hai đạo hữu vào nhìn Hoà Thượng đang ngủ mà thôi.

Tôi hỏi xin chụp ảnh. Thị giả từ chối bảo không nên. Ngay lúc đó, Thị giả hướng dẫn chúng tôi tới cửa phòng ngủ của Hòa Thượng, nhẹ nhàng Thị giả mở cửa, ra dấu cho chúng tôi bước vào. Tôi nhìn thấy Hòa Thượng nằm trên cái giường, ngài năm nghiêng tay trái, đấp toàn thân một cái chăn, trừ có mặt và bàn tay trái ngài đưa ngang mặt, tay phải trong chăn, đầu trùm chiếc mũ nâu. Trông sắc mặt ngài hơi gầy, da mặt hơi xanh hay vì trong phòng không được sáng, nên thấy như thế.

Tôi lễ xong ngài một lễ, Thị giả ra dấu chỉ xá mà thôi, nên tôi xá đủ ba xá rồi đứng lên, nhà tôi cũng xá xong ba xá, thế là chúng tôi rời khỏi phòng để Hòa Thượng nghỉ.


Sau đó, chúng tôi qua Chánh điện lễ Phật, vừa lễ xong tôi gặp Nguyễn Thanh Chi là cựu học sinh Phan Đình Phùng, chúng tôi chụp ảnh, trao đổi vài câu rồi tôi rời Chánh điện. Sau đó, Thanh Chi ra sân gặp chúng tôi cho biết trước đây có đi Từ thiện, được Phạm Thị Minh Nguyệt cựu học sinh Nguyễn Trường Tộ đưa đến viếng thăm chùa nầy. Rồi chúng tôi chia tay, vì tôi còn ít giờ để ra phi trường.


Về đến khách sạn, chúng tôi còn 10, 15 phút kiểm tra lại hành lý, giấy tờ rồi xuống phòng Lễ tân trả phòng. Sau đó chúng tôi lấy Taxi ra phi trường, còn Quân buổi trưa lúc 15 giờ đã có xe rước đi về Đà Nẵng, để sáng hôm sau về Sàigòn, nghe đâu về Đà Nẵng anh mãi mê tham quan, chụp ảnh nên trễ chuyến. Nhưng cũng về đến Sàigòn trong buổi sáng hôm đó.

Chúng tôi không ai ký gửi hành lý, xuống máy bay rồi, chúng tôi chờ một lúc không thấy Đà, Laura và Tiên đâu cả. Ra ngoài nhà ga tại cửa Ra chúng tôi chờ một lúc cũng không thấy ai cả, nên chúng tôi đành ra về không có chia tay vào giờ chót.

Chuyến đi Huế lần nầy, trước tiên tôi nghĩ cho nhà tôi biết thêm Huế, mặc dù vài năm trước chúng tôi đã có một chuyến du lịch tham quan Đà Nẵng, Huế, động Phong Nha, Thiên Đường ở Quãng Bình. Riêng Huế có tham quan Đại Nội, viếng thăm chùa Thiên Mụ, buổi tối xuống thuyền nghe ca Huế trên sông Hương.


Lần nầy nhà tôi được viếng Từ Đàm, Từ Hiếu, Từ Vân, Tường Vân, Diệu Đế nhất là được viếng thăm Hòa Thượng Trí Quang, Thiền sư Nhất Hạnh mọi chuyện đều là duyên. Có đủ nhân duyên thì thành tựu. Tôi hiểu vì sao không được chụp ảnh quý ngài. 

Vì giới làm thơ ngày trước ai cũng thuộc 2 câu thơ cổ:

      美人自古如名將
   不許人間見白頭

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

Tạm dịch :

Người đẹp từ xưa như tướng giỏi
Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu.


Xem thêm hình ảnh tại:



8664250419



No comments:

Post a Comment