Sáng hôm
nay Thứ Hai 25-3-2019, chúng tôi đi chiêm bái Phật tích ở Tỳ Xá Ly, trước tiên đi
chiêm bái nơi đức Phật ngồi thiền, lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho Hoàng
Hậu Ma Gia, nơi nầy hôm qua Đà và tôi đã đến Chiêm bái.
Sau đó chúng
tôi đi đến viếng nơi trú ngụ của tên cướp khét tiếng thời đức Phật, đó là
Angulimala, cũng gọi là Vô Não. Sự tích như sau:
Tại
xứ Kiều Tát La (Kosala), có một tướng cướp vô cùng hung bạo, tên là Vòng tay
đeo (Angulimala, Ươm quật đa la), còn gọi là kẻ vô tội (Ahimsaa) hay thường gọi
là kẻ Vô Não.
Thân
phụ là một quan đại thần triều vua xứ Kiều Tát La. Vô Não theo học tại Taxila,
một trung tâm nổi tiếng của xứ Kiều Tát La, bắc Ấn Ðộ. Là một học sinh giỏi, Vô
Não được các thầy giáo thương mến. Vì thế Vô Não bị các bạn đồng học ganh tỵ,
tìm cách ám hại. Cả tin lời nịnh bợ của học sinh, nhất là lời đâm thọc nói xấu
Vô Não, thầy giáo trở mặt thù ghét Vô Não. Một hôm, để thỏa mãn sự hiềm khích,
thầy giáo bắt Vô Não chuộc tội bằng cả ngàn ngón tay phải của con người. Ðể có
thể trở lại con đường học vấn, Vô Não đành theo lời thầy, vào rừng Jalini rèn
dao và đi giết người.
Lúc
đầu, mỗi khi chặt được một ngón tay của người nào, Vô Não đem treo ở cành cây.
Nhưng quạ diều ăn đã hết các ngón tay của Vô Não chặt được. Ðể khỏi bị mất mát,
Vô Não lấy dây xâu các ngón tay, kết thành vòng, đeo vào cổ. Tiếng hung dữ của
Vô Não được lan truyền, mọi người đều khiếp sợ. Khi Vô Não đến đâu, mọi người
đều tìm phương chạy trốn. Do đó, khi đã chặt được 999 ngón tay, Vô Não chạy
khắp nơi mà vẫn không thể giết thêm được một người nào để có đủ số ngón tay
phải nộp theo lời thầy phán.
Ðể
đem lại an lạc cho dân chúng, đồng thời để giúp Vô Não trở lại con đường lương
thiện. Ðức Phật vận sức thần thông đến trước mặt Vô Não. Khi thấy Phật đi đằng
trước. Vô Não rất mừng, vì sẽ không còn thiếu một ngón tay sau cùng, Vô Não vác
dao hăm hở đuổi theo Phật. Dù Phật đi rất khoan thai, nhưng Vô Não không thể
nào đuổi kịp. Khi đã mệt lã, Vô Não dừng lại và gọi lớn:"Này Ðạo Sĩ! Hãy
dừng chân" Phật từ tốn trả lời:"Dù đang đi, ta đã dừng chân. Còn nhà
người đã dừng chân hay chưa?" Không hiểu được ý Phật, Vô Não thấy Phật
đang đi mà lại nói đã dừng chân. Còn mình đã dừng chân, Phật lại hỏi đã dừng
chân hay chưa? Vô Não yêu cầu Phật giải thích, Phật nói:
"Này
Vô Não! Ta mãi mãi dừng chân. Ðối với chúng sinh ta không dùng bạo lực. Ðể trở
lại con người lương thiện, ngươi hãy dừng tay chớ giết đồng loại. Bởi thế, ta
nói: Ta đã dừng chân và yêu cầu ngươi cũng hãy dừng tay".
Dù
ác động đến đâu, lòng vẫn còn chút thiện hạnh, Vô Não cảm nhận được từ tâm của
Phật, muốn đưa mình ra khỏi con đường độc ác. Liền khi đó, Vô Não buông dao và
xin Phật được xuất gia. Dù đã là Tỳ kheo, lòng vẫn chưa hoàn toàn yên ổn, Vô
Não luôn luôn nghe văng vẳng bên tai tiếng than khóc của người do mình giết
hại. Một hôm, trên đường đi khất thực, Vô Não bị nhiều người ném đá, đánh đuổi,
lỗ đầu. Trở về hỏi Phật lý do, Phật cho biết, đó là hậu quả do ác nghiệp của Vô
Não đã gây ra từ trước. Một hôm khác, cũng trên đường đi khất thực, Vô Não gặp
một phụ nữ than khóc vì sinh con không được, yêu cầu Vô Não giúp đỡ. Không thể
giúp được, Vô Não liền trở về hỏi Phật phương thức. Phật bảo Vô Não hãy đến
trước người phụ nữ đau đẻ và nói lời này:
"Này bà chị! Từ khi tôi sinh trở lại trong hàng Thánh chúng, tôi không còn giết hại bất cứ một loài nào. Cầu mong lời nói này giúp bà chị hết đau đớn và sinh nở được mẹ tròn con vuông".
Học
thuộc lời Ðức Phật, Vô Não liền trở lại nơi phụ nữ đau đẻ và đọc lớn lời Ðức
Phật. Bỗng chốc, người phụ nữ hết đau và sinh con an toàn. Từ đó, ngày nay các
nước Phật giáo Nam truyền, người ta thường đọc lời của Vô Não để làm dịu cơn
đau đẻ cho người phụ nữ.
Về
sau, tinh tấn tu tập, Vô Não chứng A La Hán.
Nơi đây
có một kiến trúc, bên trong có hang, được cho là hang động của tên cướp Vô Não,
kiến trúc nầy vuông vức, xung quanh có rào sắt không cho khách tham quan vào, bên
ngoài có nơi xây một cột gạch hình trụ cao chừng 2,5 m, đường kính độ 1,5 m, cột
trụ nằy được nhiều khách thập phương dát vàng, nhiều đoàn tham quan tới đây đọc
kinh, nhiều khách thập phương chạm tay vào rồi đưa lên đầu mình hoặc để trán chạm
vào cột tháp chú nguyện.
Chúng
tôi đi nhiễu một vòng rồi đi sang dinh thự của ông Cấp Cô Độc cách đó chừng 50
m. Đây là kiến trúc dinh thự khá rộng lớn và phần còn lại chắc có trùng tu khá
cao.
Tôi
tự nghĩ, tên cướp sống rất gần với ông Cấp Cô Độc, đây là tên cuớp khá tàn ác,
còn ông Cấp Cô Độc giàu có, sao tên cướp đã giết hại 999 người, còn một người nữa
là đủ ngàn người, sẽ đem nộp theo lời dạy của sư phụ hắn. Sao hắn không đụng chạm gì đến ông Cấp Cô Độc.
Rời khỏi đây,
chúng tôi đến chiêm bái Phật tích Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên, cách đó chừng 1 km, vào
cổng phải mua vé.
Bảng sơ đồ
ghi những di tích như sau:
Kỳ thọ Cấp
Cô Độc viên, tức là vườn của ông Cấp Cô Độc cây của Thái tử Kỳ Đà, nguyên gốc
như sau, ông Cấp Cô Độc muốn tìm nơi dâng cúng đức Phật làm nơi thuyết pháp,
người thấy vườn của Thái tử Kỳ Đà ưng ý bèn hỏi mua.
Thái tử không
muốn bán, nên nói thách, trải vàng đến đâu thì bán đến đó, ông Cấp Cô Độc bèn về
nhà đem vàng đến trải đất. Thái tử Kỳ Đà bèn phải bán đất ấy cho ông Cấp Cô Độc,
nhưng trên đất còn những cây xanh, cây ấy thuộc Thái Tử, Thái Tử cũng dâng cúng
cho Phật, nên người sau gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc Viên.
Nơi đây đức
Phật đã an cư qua 25 mùa mưa, nơi đức Phật thuyết pháp có xây một cái tháp nhỏ,
nơi đây người ta thếp vàng, nhiều chư Tăng, đoàn khách tham quan tới đây tụng
kinh. Khu nầy có tu viện, có chùa, nay chỉ còn nền gạch như các Phật tích khác.
Đi qua khỏi
đây chừng 100 m, có một gốc Bồ Đề, có rào chung quanh, cây Bồ đề nầy già cỗi,
người ta phải dùng những thanh sắt nâng đỡ những cành thấp. Chung quanh tường rào,
người ta giăng cờ.
Cây nầy lá
rụng hết, đang nhú lá non, có vài trái bằng ngón tay út rụng trên nền, Đà nhặt
một trái hỏi tôi: “Trái nhỏ như thế nầy sao lại có hạt to vậy bác ?”. Tôi giải
thích cho Đà hiểu:
Trước kia
tôi vẫn hiểu lầm chuỗi Bồ Đề là lấy từ hạt cây Bồ Đề, nhưng không phải vậy. Trái
Bồ Đề như trái sung, bên trong không có hạt. Ở Châu Đốc có Bồ Đề đạo tràng, vài
chục năm trước, tôi đã nhặt trái bẻ ra mới khám phá điều nầy. Gọi hạt Bồ Đề cũng
như gọi tên Bồ Đề Tâm, tượng trưng cho sự cao quý nơi đức Phật thành đạo. Hạt ấy
ở vùng gần An Nhơn Gò Vấp cũng có cây có hạt nầy, nơi đây gọi là hạt kim cang.”
Có một chỗ,
có nền của 3 kiến trúc, bảo vệ cho biết một nền là nơi ở của La Hầu La, nền kia
là của người đánh xe cho Đức Phật. Tôi hỏi có phải Xa Nặc không ? Hắn gật đầu.
Chúng tôi đi giáp vòng tất cả các Tu viện và chùa trong khu nầy, nói chung là rất
rộng lớn, rộng lớn hơn tất cả các nơi khác.
Sau khi rời
nơi nầy, chúng tôi đi viếng chùa Tây Tạng đang xây dựng gần xong, khá đồ sộ.
Có tầng hầm
bên dưới, tầng trên là chánh điện đặt tượng Phật tĩnh tọa ở gian giữa, tầng trên
nữa vì bao quanh bằng ny long không rõ là tượng chi, nhưng cũng khá lớn, tầng
trên cùng treo quả chuông 500 kg, theo như Hải Đoan cho biết, chuông nầy do Phật
tử Việt Nam cúng, nhưng quanh chuông chỉ có chú đúc nổi không có chữ Việt Nam nào.
Chúng tôi
được người phụ trách đãi bánh ngọt, cà phê. Trước khi rời đây, nhóm chúng tôi có
cúng dường chùa, người phụ trách không nhận, đưa chúng tôi đến chánh điện tạm ở
dãi Tây lang, chúng tôi lễ được Phật tại đây, tượng Phật hay Bồ tát Quán Thế Âm
? Vì tượng đứng nhưng ở vị thế nghiêng người.
Sau đó chúng
tôi trở về khách sạn nghỉ ngơi rồi dùng cơm trưa. Dùng cơm xong trả phòng nhóm
chúng tôi đi về Lucknow. Từ khách sạn chúng tôi ở đi Lucknow 177 km.
Khởi hành
lúc 1 giờ, cho đến hơn 5 giờ, chúng tôi mới đến thành phố Lucknow, con đường nầy
có thu phí 2 đoạn nên đường khá tốt, hai bên đường vẫn thấy những khu chợ quê,
người dân nghèo khó dung phương tiện xe Tuktuk, xe gắn máy, xe đạp, xe lôi, xe
máy cày kéo rờ-mót chở mía đường.
Cánh đồng
chỉ trồng lúa mì và mía đường, đất rộng nhưng chia thành những đám ruộng nhỏ,
nhiều nơi người nhà nông vẫn cuốc đất, gặt, đập lúa và cấy lúa, nói chung là dùng
nhiều sức người.
Những ngày
qua chúng tôi ở thành phố nhỏ, nhà quê. Nay tới đây mới thấy nhiều phụ nữ chạy
xe gắn máy, lái xe hơi. Xe cộ đông đúc như Sàigòn, đường sá không được sạch,
nhiều con bò đi rong ngoài phố, chúng sống cạnh những bô rác để ăn rác.
Ngoài đường
vẫn thấy cảnh đàn ông “tè” bên đường, không nhiều lắm, cùng không phải là hiếm.
Buổi tối
chúng tôi đi đến một Center để ăn tối vì Lama muốn ăn ở Mc Donal, thành phố về đêm,
xe chạy bóp còi inh ỏi. Về lại khách sạn chúng tôi muốn thưởng thúc bia Ấn Độ,
nhờ nhân viên khách sạn mua, đợi gần 1 giờ mới có beer. Hình như ở Ấn Độ ít có
chỗ bán beer, quán nhậu. Quán bán trà hay cà-phê bên đường thì nhiều.
Lần đầu
tiên đi Ấn Độ, khám phá được nhiều điều lạ, xe chạy bên tay trái, nhưng chuyện
chạy ngược chiều là bình thường, các khách sạn đều có ổ cắm điện chuôi tròn hay
chuôi dẹp.
Nghe nói
chánh phủ Nhật có đến Ấn Độ, đề nghị giúp cho Ấn Độ cải thiện đời sống, chánh
phủ Ấn Độ cám ơn, cho biết người dân họ tuy nghèo khó, nhưng họ sống rất hạnh
phúc, không cần nâng cao đời sống văn minh hơn, ngược lại chánh phủ Ấn Độ hỏi có
muốn cải thiện cho đời sống người Nhật được hạnh phúc như người Ấn không ? Chánh
phủ Nhật cám ơn lại Ấn Độ. Hiểu đây là chuyện đùa cũng được mà là chuyện để suy
gẫm cũng nên.
866425032019
No comments:
Post a Comment