Pages

Tuesday, March 25, 2025

Sự thay đổi kỳ lạ

Mấy tuần trước, tôi thấy trong tinh thần tôi có sự thay đổi kỳ lạ và nó có ảnh hưởng đến thể xác. Tôi thấy hình như mình có sự lãng quên hoặc là do sự lãng quên của người già hay nói khác hơn là tiến trình của lão hóa hoặc là do bệnh Alzheimer, cả hai thứ tôi đều chưa có kinh nghiệm, nói đến kinh nghiệm là khi nào mình đã trải qua.

Do vậy, tôi cần phải học hỏi, học ở đâu ? Hỏi nơi nào ? Còn đâu nữa, hỏi Google hoặc là ChatGPT mà thôi. Rồi tôi nghi mình bị Alzheimer. Vấn đề chống lão hóa, tôi thường xuyên đi bộ thể dục, trừ mùa Đông khí trời lạnh không thể ra ngòai được thì đi trong Mall, nhưng từ khi ở Việt Nam tôi không thể đi bộ vì khu tôi ở bị người ta lấn chiếm lòng lề đường để buôn bán, không thể đi trên vỉa hè, ở Mỹ muốn đến Mall phải lái xe chừng 10 phút, cũng là trở ngại vì tôi từng gây tai nạn, phải bỏ một chiếc xe, nay không có xe riêng lái đi.

Tôi làm Website hay viết Blog là để cho bộ não phải làm việc, tôi nghĩ viết ngoài sự cảm xúc còn phải sử dụng trí não để nhớ chuyện nọ, chi tiết kia, không thể viết hàng ngày thì cũng vài ba hôm viết một bài để cho có bài vở đăng trên Blog.

Trong thời gian đó, tôi thấy đầu óc tôi hình như quên quên, nhớ nhớ chớ nó không yên ổn nhớ chuyện nọ chuyện kia. Có khi ngồi vào bàn ăn, nhìn món ăn biết đó là món mình đã ăn, nó ở trước mắt nhưng không biết tên gọi là chi.

Mọi ngày tôi vẫn sáng sớm sau khi thức giấc, dậy súc miệng, rửa mặt, pha cà-phê, pha trà, thay nước cúng Phật, cúng ông bà rồi ngồi thiền, xong thời công phu uống cà-phê, uống trà, ăn Oatmilk.

Bưổi trưa vào lúc 15 giờ tụng một thời kinh luân phiên hôm nay là Kinh A Di Đà, ngày mai là kinh Pháp Hoa phẩm thứ 25: Quán Thế Âm.

Từ ngày ở Việt Nam về vào 20-12-2024 cho đến nay tôi vẫn làm như thế, hôm qua tôi bổng nhớ ra là tôi đã quên bẵng đi tập thể dục: Phép vẫy tay.

và bài tập 12 thế Dịch Cân Kinh.


Tập Dịch Cân Kinh trước sân Thiếu Lâm Tự

Như vậy là trong suốt 3 tháng tôi đã quên mất việc tập luyện nầy, đó là lão hóa hay triệu chứng của Alzheimer ?

Lão hóa thì không sợ vì nó sẽ đi từ từ, ai cũng thế nhưng Alzheimer đáng sợ, vì có ngày mình sẽ tự hỏi mình : Tại sao tôi ở nơi nầy ? Đây là đâu ? Nhà mình ở đâu ? …

Hình như hôm qua, tôi bắt đầu phục hồi chút ít, tôi nhớ tới việc Tập Vẫy tay, và các thế Dịch Cân Kinh, nhưng không nhớ thế cuối cùng, tôi đang tìm lại nó ở trên Mạng, hy vọng sẽ được như ý.

866425032025






Thursday, March 20, 2025

KHÔNG THỂ XÓA TÊN SÀI GÒN

 Nguyễn Ngọc Huy

I/ NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA CỦA TÊN SAIGON.

Trong “Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị” của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là củi thổi, Gòn: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàigòn thì Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé.

Ðịnh nghĩa Sài Gòn của quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên Sài Gòn trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là Sài Gòn hiện nay thì trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận nhờ hai người Anh là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người này thuật lại thì Sài Gòn và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh phủ, còn Sài Gòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2). Vậy, Saigon và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàigòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm trung tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại quốc phát âm hơn Sài Gòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi Bến Nghé là Sàigòn, còn vùng trước đó gọi là Sài Gòn thì được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Ðằng Trong, cho là dường như đã có từ đời vua Gia Long.

Cũng theo quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên Sàigòn có nghĩa là củi gòn. Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức. Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885.

Sau ông Trương Vĩnh Ký, còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sài gòn Chợ Lớn hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sài gòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des kapokiers).

Thuyết về nguồn gốc tên Sài gòn của các học giả Việt Nam trên đây sau này đã bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn.

Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đã tìm được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng hậu la` con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn.

Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố.

Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l’ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo Việt Nam là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang).

Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sài Gòn Năm Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ XVII, đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn nước. Ðề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Ðông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồn. Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sài Gòn chính do Thầy Ngồn mà ra.

Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Saigon của ta và khi viết ra Hán văn thì họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống.

Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của tên Saigon:

Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi gòn.

Thuyết của ông Louis Malleret: Saigon do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây.

Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sài gòn do tiếng Thầy Ngồn tức là Ðề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. Còn về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàigòn sau khi tên này được dùng để chỉ đất Bến Nghé cũ.

Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thực sự, không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những người nêu ra các thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc:

1- Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thực sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau với người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kếo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào.

2- Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó.

3- Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v… Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé.

Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sàigòn không ổn.

Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sàigòn, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn

Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa.

Nhưng các cụ ngày xưa rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa.

Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả.

Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói thì tên Sàigòn do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ.

Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận:

Vào đầu thế kỷ XVII, nước Cambodia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đén năm 1623 lại để cho chúa Nguyễn đạt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sài Gòn, Chợ Lớn ngày nay.

Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mãi thạnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán gì nhiều.

Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán.

Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cambodia đã dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn thì vua Cam Bu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng gì? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này là Sài Gòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này.

Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người thì nói là Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn.

a- Nếu Prei Kor có nghĩa là Rừng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đặt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì.

b- Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được.

Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta có thể đưa ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đặt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều gòn và là nơi mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sài Gòn có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn, và phù hợp với tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự.

Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Saigon yêu dấu của chúng ta.

(Viết vào thập niên 80's).

Hình ảnh Sài Gòn xưa

Trích từ trang Việt Nam Quê Hương Tôi cùa Nguyễn Tấn Lộc :

http://nguyentl.free.fr

Vietsciences

22/09/2005 Nguyễn Ngọc Huy

 

Tuesday, March 18, 2025

Ca sĩ Mỹ Linh

Mấy hôm nay, do tôi được nghe ca sĩ Mỹ Linh hát trong Youtube bài Mùa xuân đó có em, tôi ái mộ giọng hát Mỹ Linh, nhà tôi cho biết Thu Hường hát bài đó cũng hay, nên tôi cũng đã nghe qua và tôi cũng nghe Quang Lập hát bài hát nầy, đáng nghe.

Do ái mộ, nên tôi tìm hiểu về ca sĩ Mỹ Linh, tên thật là Đỗ Mỹ Linh sinh ngày 19 tháng 8 năm 1975 tại Hà Nội thành hôn với nhạc sĩ Anh Quân năm 1998, họ có với nhau 2 người con là Trương Anh Duy và Trương Mỹ Anh và con riêng của Anh Quân là Anna Trương hay Trương Mỹ Hà.


Ca sĩ Mỹ Linh và chồng nhạc sĩ Anh Quân

Trương Anh Duy, Trương Mỹ Anh, Anh Quân, Anna Trương Mỹ Hà, Mỹ Linh

Vài tấm ảnh của Mỹ Linh:







Mời nghe ca khúc Mùa xuân đó có em



https://www.youtube.com/watch?v=jBqlkSh1Vho


Sunday, March 16, 2025

Tôi nghĩ mình bị Alzheimer ?

Chừng 2 năm nay, tôi nghi ngờ mình bị Alzheimer và đang ở giai đoạn nào ? Nên tôi lên mạng dùng ChatGPT tìm hiểu:

 Người bị alzheimer làm sao biết ở giai đoạn nào ?

ChatGPT said:

Bệnh Alzheimer có 7 giai đoạn theo thang đo của Tiến sĩ Barry Reisberg (thang Global Deterioration Scale – GDS). Dưới đây là cách nhận biết từng giai đoạn:

Giai đoạn 1: Không có suy giảm trí nhớ

  • Người bệnh hoàn toàn bình thường, không có dấu hiệu nào của Alzheimer.

Giai đoạn 2: Suy giảm trí nhớ rất nhẹ (giai đoạn tiền lâm sàng)

  • Hay quên những điều nhỏ nhặt như tên người quen, vị trí đồ vật.
  • Vẫn tự sinh hoạt bình thường, chưa ảnh hưởng đến cuộc sống.

Giai đoạn 3: Suy giảm trí nhớ nhẹ

  • Khó nhớ từ ngữ khi nói chuyện, quên tên người mới gặp.
  • Gặp khó khăn trong việc lập kế hoạch, tổ chức công việc.
  • Bắt đầu có dấu hiệu mất tập trung, làm việc chậm hơn trước.

Giai đoạn 4: Suy giảm trí nhớ trung bình

  • Gặp khó khăn khi thực hiện công việc phức tạp như quản lý tài chính, nấu ăn theo công thức.
  • Quên các sự kiện quan trọng trong đời.
  • Có thể bắt đầu thay đổi tâm trạng, trầm cảm hoặc thu mình.

Giai đoạn 5: Suy giảm trí nhớ khá nghiêm trọng

  • Cần hỗ trợ trong các hoạt động hàng ngày như chọn quần áo, ăn uống.
  • Quên địa chỉ, số điện thoại, có thể đi lạc.
  • Vẫn nhớ tên mình và người thân rất thân thiết.

Giai đoạn 6: Suy giảm trí nhớ nghiêm trọng

  • Cần giúp đỡ trong việc tắm rửa, vệ sinh cá nhân.
  • Nhận diện người thân bị hạn chế, có thể quên cả vợ/chồng, con cái.
  • Tâm trạng thay đổi thất thường, có thể bị hoang tưởng, kích động.

Giai đoạn 7: Suy giảm trí nhớ rất nghiêm trọng (giai đoạn cuối)

  • Mất khả năng giao tiếp, đi lại, nuốt thức ăn.
  • Hoàn toàn phụ thuộc vào người chăm sóc.

Không chủ quan, tôi nghĩ mình có thể đang ở giai đoạn 2 mà thôi. Nếu thế cũng đáng mừng.

Vì có hôm xem ảnh cũ chụp vào tháng 5 năm 1975, thấy có 29 người nhưng có 1 người tôi không nhớ tên người đó.

                    Giáo sư và nhân viên Trung Học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, tháng 5 năm 1975

Nhớ lại một sự kiện đi Chiêm bái Phật tích Ấn Độ năm 2019 cách nay đã 6 năm, có 6 người, hình ảnh những người đó hiện ra trong trí nhớ, nhưng tôi không thể nhớ tên của người mình muốn biết tên ! 


Tại Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ tháng 3 năm 2019

Chính vì vậy làm cho tôi nghi ngờ mình bị Alzheimer hơn là bị quên lãng.


Chiêm Chiêm bái Phật Tích tại Ấn Độ và Nepal năm 2019


                                                                                                                       866416032025






Friday, March 14, 2025

Những hình ảnh xưa

 



Học lớp Nhứt E với Thầy Châu Văn Tính ở Trường Nam Châu Đốc 1956

Lớp Đệ Thất E Niên khóa 1956-1957 Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng Sàigòn

Lớp Đệ Nhị A Niên khóa 1961-1962 Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng Sàigòn

          Lớp Đệ Nhị A Niên khóa 1961-1962 Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng Sàigòn

Tiệc tống cựu nghênh tân Hiệu Trưởng THKT Nguyễn Trường Tộ năm 1974

Tiệc tống cựu nghênh tân Hiệu Trưởng THKT Nguyễn Trường Tộ năm 1974

Các Tân Khoa Cử Nhân Văn Học VN, Anh Văn, Báo chí năm 1973

Các Tân khoa Cử nhân Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1973

Tiệc mừng Tân Khoa Cử Nhân năm 1973 tại nhà Lý Trương Quang

Tư Quỳnh Đại Diện Ủy Ban Quân Quản Tp. HCM nhận bàn giao Trường THKT NTT & TTCN PĐP

Bửu Cầu bạn đồng ngũ khóa 27 Thủ Đức hội ngộ tại chùa Linh Phong Đà Lạt
(cùng Trung đội 39 với Trần Văn Nhựt)

Ngày mới sang Louisville 10-4-1991

HT. Thích Tâm Châu tại Louisville

Sư Bà Hải Triều Âm tại Đại Ninh, Lâm Đồng

HT. Thích Minh Châu phát bằng Cử Nhân Văn Học Việt Nam VĐH Vạn Hạnh
HT. Thích Thanh Từ tại tịnh thất Đà Lạt

HT. Tuệ Sỹ tại Thi Ngạn Am, Già Lam Gia Định

Sư Bà Huệ Giác, Cô Tám, Cô Hương Nhũ, Cô Ba Bình Đại và Sư Tâm Giới từ VN sang thăm

Cùng Pauline con riêng của Chị Hai tôi tham quan cung điện Verseille ở ngoại ô Paris năm 2017

Đi chùa Nam Thiên ở Sydney, Úc 2018

 
Lumbini thuộc Nepal, nơi đức Phật đản sinh 624 TTL, tham quan năm 2019

Đi chùa Thái ở Florida 2019

 
866414032025







Thursday, March 13, 2025

Chuyện hôm nay

Hôm nay tôi xem ảnh cũ có ảnh cháu gái con anh Hai tôi chụp trước Nhà Hát Lớn Tp. HCM, ảnh chụp chung với toàn thể giáo sư và nhân viên trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ sau khi bàn giao cho Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh khoảng ngày 10 tháng 5 năm 1975.


Giáo sư và nhân viên nhà trường khoảng ngày 10-5-1975

Về con gái của anh Hai tôi, năm 2012 tôi sang Pháp 1 tháng, tôi có ý kiến muốn đi thăm cháu, anh hứa sẽ xem thời tiết rồi đưa tôi đi, nhưng cuối cùng anh không có đưa tôi đi, rồi sau đó năm 2015 cháu mất ở quê nhà Avignon miền Đông Nam nước Pháp, trước khi mất cháu hiến thân cho khoa học, cháu mất rồi tôi vẫn chưa gặp cháu lần nào.

Hình chụp không nhớ năm nào khoảng thập niên 2000, trước Nhà hát lớn Sàigòn

Có thể tôi đã bị Alzheimer, nhưng tôi không thể biết mình đang ở giai đoạn nào hay thời điểm nào ? Hôm qua tôi nhớ lại khi tôi mới sang đây, tôi cùng với mấy anh HO thành lập Hội Ái Hữu Cựu Tù Nhân Chánh Trị tại Thành phố Louisville, Kentucky, hội ấy anh Đỗ Nam Kỳ làm Hội Trưởng, tôi giữ nhiệm vụ Tổng Thư Ký, về sau anh Kỳ lớn tuổi không làm nữa, anh Trần Ngọc Toản thay thế, do lúc đó tôi có về Việt Nam thăm thân nhân, những người trong hội HO cho rằng tôi theo Cộng sản nên về Việt Nam, tôi không muốn gây sự chia rẻ, nên tự động làm Đơn Từ Chức và đem tất cả hồ sơ giao lại cho anh đương kim Chủ Tịch Trần Ngọc Toản.

Sau đó anh Đỗ Nam Kỳ bị Alzheimer, gia đình đưa anh vào nhà Dưõng lão, thấy anh ở đó không ổn lại rước anh về nhà, một thời gian sau anh mất. Nhớ tới anh Kỳ, tôi rất mến anh, nhớ lại khoảng thập niên 1960, anh từng làm Quận trưởng quận Thoại Sơn tức Núi Sập tỉnh Long Xuyên, nay là An Giang, sau anh được đổi về Cần Thơ, rồi sau đổi đời linh đinh qua Louisville nầy. Như tôi đã từng viết trong các bài khác về chương trình HO, ai “mồ côi” tức không có thân nhân, bè bạn gì thì mới bị đưa về Louisville, riêng tôi bị đưa về đây vì có chị tôi đi diện con lai, nên tôi được đưa về đây, theo chương trình nầy, chị tôi phải trả chi phí nuôi gia đình tôi nửa tháng, nửa tháng Hội Catholic Charity gánh chịu, sau đó mới tới chương trình HO trả chi phí cho gia đình chúng tôi. Cũng nên biết thêm:

Chương trình Ra đi Có trật tự (tiếng AnhOrderly Departure Program, viết tắt là ODP), là một chương trình của Hoa Kỳ cho phép người Việt Nam tị nạn nhập cảnh vào Hoa Kỳ sau khi cuộc Chiến tranh Việt Nam kết thúc.

Chương trình này được tiến hành từ năm 1979 dưới sự hỗ trợ của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn. Sau khi quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được bình thường hóaHoa Kỳ trực tiếp đối thoại với chính phủ Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho người di cư từ Việt Nam theo chương trình đó. Chương trình ODP từ đó có tên là Chương trình Tái Định cư Nhân đạo (tiếng AnhHumanitarian Resettlement Program, viết tắt là HR).

Diện HO (Humanitarian Operation) là các cựu tù nhân trại cải tạo, có tên chính thức là Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo).

Từ khi tôi đặt chân lên đất Mỹ ngày 9 tháng 4 năm 1991 và về đến Louisville ngày 10/4/1991, trong đó có 1 đêm quá cảnh ngủ khách sạn tại Minnesota. Tôi đến đây có nhiều người rủ tôi đi sang Cali, nhưng chị tôi bảo: “Sang Cali, nơi đó có khi trẻ con ham vui chơi, không lo học tập, tốt hơn là ở tại đây lo học hành sẽ có tương lai hơn cho chúng”, nên tôi định cư tại đây từ đó đến nay.

Nay 84 tuổi, nghĩ cũng đã thọ, từng đi đó đi đây, trong nước đã đi Sapa (Đỉnh Hoàng Liên Sơn), Vịnh Hạ Long, Quảng Bình, Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, đã sống ở Banmêthuột, Cà Mau, Sóc Trăng, Bến Tre, Châu đốc.

Từng đi nước ngoài như Pháp: Paris, Marseille, Comar, Úc (Sydney), Tân Tây Lan, Ấn Độ, Canada.

New Zealand (phía dưới sau lưng tôi là bãi tắm khỏa thân)

Cũng từng giữ những chức vụ như Hiệu Trưởng Trung học Kỹ Thuật Nguyền Trường Tộ Sàigòn, nay là Trường Cao Đẳng Nghê Nguyễn Trường Tộ Tp. HCM.

Trong tù là B Trưởng B 11 khối 4 Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 1 ở Kà-Tum

Trong đạo đã làm Liên Đoàn Trưởng Gia Đình Phật Tử Giác Minh chùa Giác Minh 578 Phan Thanh Giản Quận 3 Sàigòn (nay là Điện Biên Phủ, Quận 10 Tp. HCM.), GĐPT Minh Tâm chùa Phước Hòa Sàigòn vào năm 1960.

Đoàn Trưởng (Hiệu Trưởng hay Giám Đốc) Trường Đào Tạo Huynh Trưởng A Dật Đa thuộc chùa Giác Minh, Vĩnh Nghiêm, Tp. HCM.

Đội Trưởng Đội Kiền Trắc, Đoàn Huynh Trưởng A Dục thủ đô Sàigòn thuộc chùa Xá Lợi, Hội Phật Học Nam Việt từ năm 1964.

Đoàn Huynh Trưởng A Dục tham quan Đà Lạt Giáng Sinh năm 1964

Trong quân đội Quân Lực VNCH là Trung đội Trưởng Sửa chữa (đóng tại chợ Cà Mau) thuộc Đại Đội 21 sau cải biến thành Đại Đội Bảo Toàn thuộc Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận đóng tại Sóc Trăng trên đường đi Bãi Xào, gần Chùa Dơi, nay ngay tại cổng chào đường Lê Hồng Phong đi vào Bãi Xào (Mỹ Xuyên).

Hôm nay moi móc ký ức để cố nhớ lại những ngày xa xưa đã trải qua trong đời từ thường dân cho đến lính tráng, từ tù nhân cho đến B trưởng của trại tù.

Cuộc đời “lên voi, xuống chó”, tôi đều nếm đủ, đúng là nếm đủ, sau 1975 nhà nhà ăn cao lương “bo bo”, uống thần dược “Xuyên tâm liên”, trong tù tôi nhớ hình như không ăn bo bo mà được ăn gạo mốc. Trong tù ngày nay tôi còn liên lạc được với Huỳnh Hữu Ủy ở Cali, với Lê Đình Cần ở B12, anh cùng tôi học lớp Đệ ngũ D, Trung học Kỹ Thuật Cao Thắng năm 1959, nay anh định cư ở Haiwaii, lại có nhà ở Hóc Môn nay hình như thuộc một quận của Tp. HCM.



Lê Đình Cần – Huỳnh Ái Tông

Còn một anh khác, học ở THKT Cao Thắng, học sau tôi, nhưng vào Thủ Đức khóa 27 ở chung Trung đội 39 thuộc Đại Đội 10 Tiểu Đoàn 3, sau đổi thành Trung Đội 7 Đại Đội 2 Tiểu Đoàn 1 là Trần Văn Nhựt, nay anh định cư tại Vest Virginia, cách Tiểu bang tôi 1 con sông Ohio, chúng tôi cách nhau không dưới 100 miles, nên anh và tôi chưa hề gặp nhau trên đất Mỹ, nhưng thỉnh thoảng về Việt Nam gặp nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi liên lạc nhau qua điện thoại cũng ấm lòng trên đất khách tạm dung nầy.

Tông và Nhựt  quán nước đường Huỳnh Mẫn Đạt gần ch An Đông Sàigòn

866413032025