Pages

Sunday, December 28, 2025

Chuyện cuối năm

Còn vài hôm nữa thì sẽ cuối năm cũ 2025, bước sang năm mới 2026, cho nên tôi muốn nhân đây nói chuyện cũ, để sang năm mới không còn chuyện cũ vấn vương. Tôi nhớ tới người bạn gái truân chuyên. Năm 1975, trước khi miền Nam đứt bóng, cô ta đang làm sở Mỹ, nên được Mỹ bốc đi bằng phi cơ Mỹ. Trước khi rời Việt Nam, cô có gọi tới văn phòng của tôi, nhưng tiếc lúc dầu sôi lửa bỏng đó, tôi đi với anh cựu Hiệu Trưởng Trung học Y Út Banmêthuột, uống cà-phê ở quán Út Bạch Lan tại Đình Tân Kiển, đường Nguyễn Bỉnh Khiêm Đa Kao để anh ta tâm sự việc nhà và cho tôi biết Banmêthuột vừa mới mất đêm qua, vợ con anh đang ở đó, chẳng biết ra sao !

Trở lại chuyện cô bạn gái của tôi, sang Mỹ cô lấy một anh chồng người Việt, vài năm sau vợ con anh sang, anh phải rời cô ta để sum họp với gia đình mình, về sau cô ta lập gia đình với một nhà văn, họ có với nhau một cậu con trai, lớn lên cậu nầy lấy vợ người Đại Hàn, còn cô ta về sau bệnh mà mất, họ sống với nhau có hạnh phúc, năm nào đó, tôi đến Virginia tham quan và có đến thăm gia đình họ. Năm nào đó, cách nay chừng 5, 7 năm cô ấy bệnh mà mất, ngoài chồng và con, cô ấy còn có đứa con trai nuôi đã có gia đình con cái. Có thể nói đời sống của cô ấy cũng được hạnh phúc viên mãn.

Hôm qua, tự nhiên tôi nhớ tới một người chị, chị ấy với tôi không họ hàng, ông thân chị ấy tôi gọi là bác, còn mẹ chị ấy tôi gọi là cô. Chị ấy sống tại Sàigòn với người bạn gái tên Nguyệt, người gốc Biên Hòa. Chị ấy tôi gọi là Chị Tám, gia đình chị ấy có nhiều anh chị em, một người em chị ấy là anh Lân, tôi có học chung với anh ta năm lớp Nhứt tại Trường Nam Tiểu Học Châu Đốc, sau nầy nghe nói anh Lân lập gia đình rồi về Tri Tôn sinh sống (nơi quê hương của nhà văn Lưu Nhơn Nghĩa tác giả quyển Như Cánh Chuồn Chuồn). Khi tôi học lớp Nhất Trường Nam Tiểu Học tỉnh Châu Đốc thì Nghĩa đã học lớp Đệ Ngũ trường Thủ Khoa Nghĩa, nhưng chúng tôi có đi chung Trại Hè Toàn Quốc Vùng Tàu năm 1956.

Bên tay trái Thầy Nguyễn Văn Ngà có 2 anh học sinh, Nghĩa là người thứ 2

Trong ảnh Trại Hè, đứng từ trái: Vân, anh Nam, Tông, thầy Ngà, Năm, Nghĩa

Trong trại Hè nầy có việc đáng nhớ liên quan tới Nghĩa, nguyên do trại Hè tổ chức cho Học sinh Trung, Tiểu học thời gian 3 tuần, trại sinh có những em còn nhỏ, nhớ nhà tối ngủ còn mớ: Má ơi ! Má! Có em còn “đái dầm”, nằm giường tầng trên, đái dầm nước đái chảy xuống ướt người tầng dưới, nửa đêm giựt mình thức dậy, la hét om xòm. Một đêm kia, có 2 em bỏ trốn, ra bến xe mua vé về Sàigòn. Sáng ra, Trại Trưởng biết tin, báo Cảnh Sát, nên khi 2 em nầy về tới Biên Hòa, bị chốt Cảnh Sát bắt được, gửi xe đò trả về lại Trại, nên từ đó Trại tổ chức canh gát, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Một hôm có phiên tôi gát, Nghĩa đến chơi, thấy có con chó trắng, nhỏ dễ thương, nên Nghĩa bắt lấy nó, cầm lên chơi, bị con chó ấy cắn, rồi Nghĩa thả nó ra.

Trại Trưởng biết sự việc, nên ông cẩn thận đưa Nghĩa đi chích ngừa chó dại. Thuốc phải chích liên tục 21 ngày, cho đến ngày về chích vẫn chưa đủ liều, nên bệnh viện đưa thuốc bắt Nghĩa phải mang về bệnh viện Châu Đốc chích tiếp cho đủ liều.

Bao nhiều năm qua, còn chút chuyện để nhớ, ghi lại kỷ niệm thuở xưa, nay đã 69 năm rồi.

866428122025






Saturday, December 27, 2025

Đoàn Huynh Trưởng A DỤC Sàigòn tham quan Suối Vàng năm 1960

Nhìn lại tấm ảnh năm xưa chụp vào Giáng Sinh năm 1960 tại Suối Vàng Đà Lạt, nay có bao nhiêu vị đã nằm xuống và bao nhiêu vẫn còn, trong đó trẻ tuổi nhất là Nguyễn Hữu Huỳnh Đức, năm nay chắc em cũng bước tới Thất Thập Cỗ Lai Hy. Còn Đỗ Lợi Sanh hay Cung Thị Lan Phương thì khỏi cần nhắc tới, quý Tăng như HT. Thích Thiện Minh, Thiện Hoa, Thiện Châu, Quảng Long nay đã về miền Cực Lạc từ lâu.

Em Nguyễn Hữu Huỳnh Đức không phải là thành viên của Đoàn, sở dĩ em có mặt là vì em là con trai của anh Đoàn Phó Nguyền Hữu Huỳnh, nên em được tháp tùng theo Đoàn, thời gian đó em rất mến tôi, nên đi theo Đoàn, nhưng ăn ngủ em đều ở bên cạnh tôi, không quấy rầy Ba em chút nào.


Đoàn Huynh Trưởng A DỤC Sàigòn  tham quan Suối vàng Đà Lạt Mùa Giáng Sinh 1960

Anh Huỳnh và em Nguyễn Hữu Huỳnh Đức đi dạo ở Đà Lạt

Cụ Lan, Bác Hải Hội viên Hội VNPG (Chùa Phước Hòa -Sàigòn) Tông, Thạnh, Bành Bé.
Ảnh ch
ụp trong sân Chù Linh Sơn Đà Lạt

Quí anh chị hãy nhìn để thấy lại hình ảnh của mình hoặc người thân yêu của mình nay còn đó hoặc đã rời xa ta rồi. Quí hóa thay. Tôi vẫn còn nhận ra chị Lan Phương (GĐPT Chánh Đạo), chị An (GĐPT Chánh Thọ), chị Thanh Minh (GĐPT Minh Tâm), anh Phan Cảnh Tuân, anh Thạnh (GĐPT Chánh Thọ), anh Hổ, anh Tôn Thất Sĩ (GĐPT Chánh Đạo), anh Thạnh (GĐPT Đà Lạt), Cụ Lan, Bác Hải (Hội viên Hội Việt Nam Phật Giáo, chùa Phước Hòa). 

Ngoài một số Nam Huynh Trưởng, đặc biệt có 2 chị là Đoàn Trưởng khi tôi là Liên Đoàn Trưởng, như chị Cung Thị Lan Phương là Đoàn Trưởng Đoàn Thiếu Nữ GĐPT Giác Minh tôi là Liên Đoàn Trưởng GĐPT Giác Minh, chị Trần Thị Thanh Minh là Đoàn Trưởng Đoàn Nữ Oanh Vũ GĐPT Minh Tâm tôi là Quyền Liên Đoàn Trưởng GĐPT Minh Tâm (Chùa Phước Hòa, Quận 3 Sàigòn).

Tấm ảnh đó, nhìn lại đã 65 năm rồi. Ai còn? Ai mất ? Nhớ quá một thời vui của tuổi trẻ: Tốt Đạo, đẹp Đời đã trôi qua nhanh, nay nhìn lại đã thấy mình lên lão !  


866427122025
















Tuesday, December 23, 2025

Chừng nào về Việt Nam

Nhìn tấm ảnh, tôi nhớ bạn mình quá, tự hỏi chừng nào về Việt Nam để thăm bạn bè, con cháu đây ?

Từ Trái: Đinh Bá Phát, Trần Xuân Minh, Tông, Tư Trưng, Nguyễn Văn Hướng, Đặng Vĩnh Bửu

Hôm nay là ngày 23-12-2025, chỉ còn 2 ngày nữa thì đến Giáng Sinh rồi. Bạn bè năm nay ai còn sức khỏe để đón Giáng Sinh vui vẻ như những năm qua ? Mặc dù tôi không về, nhưng mong các bạn có một buỏi họp mặt thật vui vẻ, tại quán quen thường gặp nhau là Quán 241 tọa lạc tại số 45 đường Phạm Viết Chánh, Phường Nguyền Cư Trinh, Quận 1 Tp. HCM.

Mong thời gian qua nhanh, để chúng tôi sẽ về thăm quê, thân tộc và bạn bè. Trong năm nay tôi được tin 4 người bạn cùng tuổi tôi ở quê nhà đã lià đời. Đó là Lý Trấn Quốc (bạn cùng tuổi nhà kề nhau ở quê), nhưng thuở nhỏ không học chung trường. Lúc còn nhỏ đi học vở long, tôi theo chú ruột sang song học tại Trường Bình Mỹ, huyện Châu Phú tỉnh Châu Đốc, còn Quốc cha hắn bị Việt Minh xử bắn tại Đốc Vàng, quận Chợ Mới tỉnh Long Xuyên, nên được mẹ hắn đưa về bên ngoại ở chợ Hòa Bình Thạnh (Chắc Cà Đao) tỉnh Long Xuyên và học tại đây, về sau hình như Quốc học ở trường tỉnh Long Xuyên rồi Sư Phạm Vĩnh Long. Hắn lập gia đình với 1 cô giáo xuất thân từ trường Sư Phạm. Gần đây hắn sống độc thân, một buỏi tối đi tắm, rồi đột tử trong phòng tắm.

Cuộc quê ở làng Hòa Hảo, còn nhà ông ngoại hắn cách nhà tôi 1 căn nhà khác, tôi không nhớ họ của hắn, sau nầy hắn về Kênh Đình ở quê tôi cất nhà sinh sống rồi mất tại đây vài năm trước.

Còn Lê Văn Khuyến cùng mất gần đây vì bệnh già, thuở nhỏ hắn với tôi chơi thân nhau, cùng đi đồng hắn chăn bò tôi chăn dê, cho chúng ăn cỏ ở bờ kênh, bãi đất tróng.

Còn một người nữa tôi đã quên tên, hình như là chú họ, chú Vương hay chú Công chi đó.

Mặc dù Trường làng tôi cách nhà chỉ có 4 căn: nhà Bác Tám Táng, nhà ông Bảy Đời, nhà ông Năm Phận, nhà thằng Quốc, nhưng tôi học vở long ở Trường làng bên kia sông là Ecole De Bình Mỹ. Thời Pháp thuộc, trường làng do chánh phủ Pháp cất nên giống nhau, mỗi trường có 3 lớp và một căn phụ cho Trưởng giáo ở để trông nom trường.

Tôi học trường bên kia sông vì chú tôi là trưởng giáo trường đó, do vậy tôi được đi học sớm, sau đó thời cuộc bất an vào thời gian 1945, nên trường đóng cửa, thầy giáo đi Thanh Niên Xung Phong theo tiếng gọi yêu nước, hầu hết các trường đóng cửa, sau đó tôi đi học tư với chú giáo Nguyễn Hoa Hẩu. Năm 1950, tôi xuống Long Xuyên thi lấy văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học và dậu trong kỳ thi nầy.

Nhưng trong thời kỳ nầy, anh kế tôi đang học lớp Tiếp Liên trường Long Xuyên, nên nhà không có đủ tiền cho tôi theo học lớp Nhì tại trường tỉnh Long Xuyên, tôi phải thất học một thời gian. Sau đó cha tôi mất, mẹ và anh tôi mới cho tôi theo chú đang dạy học tại trường tỉnh Châu Đốc tiếp tục học. Học hết Tiểu học tôi được miễn thi. Thi tuyển vào Trung học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc. tôi đỗ hạng 51/250 học sinh trúng tuyển năm đó 1956, tôi cũng dự thi và đỗ hạng 132/250 học sinh được tuyển vào Trung Học Kỳ Thuật Cao Thắng, nên chú tôi cho tôi theo học trường nầy.


Ảnh chụp Giáo sư và Nhân viên trước Nhà Truyền thống Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng

Năm 1964 tôi tốt nghiệp Tú Tài Toàn Phần Kỳ Thuật, rồi thi đỗ vào Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, học tạm ở Trường Bách Khoa Trung Cấp Phú Thọ. Năm 1966 tốt nghiệp trường nầy.

Sau khi ra Trường, tôi được bổ nhiệm dạy học tại Trung Học Kỹ Thuật Y-Út tại thị xã Banmêthuột. năm 1968 tôi bị động viên, nhập ngũ khoá 27 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.

Năm 1968 mãn khóa vào 10-8-1968 tôi được nhập học khóa Sĩ Quan Cơ Bản Quân Cụ, rồi tiếp tục học khóa chuyên môn Sĩ Quan Quân Xa và Sữa Chữa Vũ khi. Tháng 4 năm 1969 ra trường, tôi được biên chế về Đại Đội Bảo Toàn, Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vân. Sư Đoàn 21 có Đại Bản Doanh tại Bạc Liêu, nhưng Tiểu Đoàn chúng tôi đóng tại Sóc Trăng, sau đó tôi được phân bổ làm Trung Đội Trưởng Sữa Chữa Lưu Động, đóng tại Thị xã Cà Mau.

Tháng 7 năm 1969, tôi được điều về Hậu Cứ làm Trung Đội Trưởng Sữa Chữa Hậu Cứ. Đến tháng 9 tôi được biệt phái về Bộ Giáo Dục.

Đến tháng 10-1969, tôi trở lại Trung học kỹ thuật Y-Út dạy học lại. Đến tháng 10 năm 1970 tôi được thuyên chuyển về Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ Sàigòn.

Vừa đi làm vừa học thêm, năm 1973 tôi lấy bằng Cử Nhân Văn Học Việt Nam tại Viện Đại Học Vạn Hạnh.

Sau đó tôi tiếp tục học Cao học.

Vào đầu niên học năm 1974-1975, tôi được chỉ định làm Hiệu Trưởng Trung học Kỹ thuật Nguyền Trường Tộ. Đến 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam đứt bóng, sau đó tôi đi Học Tập Cải Tạo tại Trãng Lớn rồi Kà-Tum thuộc tỉnh Tây Ninh.


Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ Tháng 5-1975
Từ trái: hàng ngồi Trn, Bùi Văn Hanh (Xưởng Gò Rèn Hàn), Ngọc, Huỳnh Hòa, Lâm Văn Trân, Hồ Ngọc Thu, Trần Hữu Phụng, Lê Ngọc Thượng, Lê Tha, Nguyền Văn Tuất
Hàng đứng: Phan Đình Du, Hà Đức Duyệt, cô Nga, Phạm Hữu Giỏi, Khưu Văn Triệu, Phùng Văn On, Kỷ sư Huỳnh Văn Hòa, Vũ HữuThuận, Ng~ Tấn Ấn, Tư Quỳnh, Huỳnh Ái Tông, Nguyễn Ngọc Quế, Bùi Văn Lương, Lý Di Hằng (Trưởng xưởng Ô tô), Lê Trung Hoan, Vũ Hữu Vĩnh, Nguyễn Văn Phấn, Vũ Hữu Quyến, Bùi Danh Dinh. 

Năm 1977, tôi được tạm tha về ở xã Phú Hòa Quận Châu Thành tỉnh Long Xuyên nay thuộc huyện Núi Sập tỉnh An Giang. Nhưng sau khi về, tôi được nhận vào làm ở Phòng Thanh Tra Sở Lao Động Tp. HCM. Sau đó chuyển sang làm Họa viên phòng Thiết Kế thuộc Sở Công Nghiệp, về sau biến cải thành Công Ty Trang bị Kỹ Thuật.

Năm 1982, Sáu Phụng Giám Đốc sở Công Nghiệp biết quá trình của tôi là dân Kỹ Thuật nên thuyên chuyển tôi về Trường làm Hiệu Trưởng, nhưng Ban Tổ Chức Chánh Quyền của Thành phố không đồng ý, vì tôi là người đi Học Tập Cải Tạo về, nên chỉ định tôi làm Hiệu Phó chuyên môn và chỉ định anh Bí Thư Đảng của Trường là Trần Minh Chánh làm Quyền Hiệu Trưởng.

Trường có những nữ nhân viên như cô Huệ, cô Bích, cô Nga (vốn là con ông Tư tuỳ phái), ông Tư mất gia cảnh khó khăn, có cô con gái là Nga vừa đỗ Tú Tài Toàn phần, trường đưa vào ngạch Thư ký công nhật, làm ở Phòng Hành Chánh (trong hình cô Nga mặc áo dài trắng, còn người mặc toàn đen là Cán bộ tiếp thu Trường Tư Quỳnh (Trần Hoàng Quỳnh) và một cô nữa là cô Thu, trẻ nhất, cô Thu được tuyển theo diện nào nay tôi đã quên, có thể từ Đoàn Thanh Niên của Trường.

Năm 1984, Phòng Thiết Kế Sở Công Nghiệp biến cải thành Công Ty Trang Bị Kỹ Thuật, tôi được chuyển về đây, trước tiên làm Trưởng phòng Công nghệ, sau đó được điều động làm Trưởng Phòng Thiết Kế.

Tôi làm tại đây cho đến năm 1991, được đi Mỹ theo diện HO, Ngày 2-5-1991 rời Việt Nam đến Thái Lan ở nhà tù Bangkok giam những người ngoại quốc, ở đây 1 tuần, mỗi ngày ăn cơm trắng với 3 cái hột gà, canh lỏng bỏng vài cô,ng rau, sau đó được bay sang San Francisco ngày 9-5-1991, ngủ 1 đem tại Minesota, về đến Louisville ngày 10-5-1991 và định cư tại đây từ đó đến nay.

Sau khi về hưu năm 2009, gần như mỗi năm đều có về Việt Nam vào khoảng tháng 11 để dự Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11 hàng năm. Tôi đã tổ chức ngày lễ nầy tại Trường Nguyễn Trường Tộ vào ngày đầu tiên 20-11-1982, khi đó tôi làm Hiệu Phó trường nầy, vì lần đầu tiên, nên không biết tổ chức ra làm sao, tôi nghĩ thôi thì nói về truyền thống Tôn Sư Trọng Đạo, phát thưởng cho Giáo viên và Nhân Viên, tuyên dương các học sinh có thành tích học tập, kỹ luật tốt.

Mỗi lần về Việt Nam, tôi đều có trở lại thăm Trường Nguyễn Trường Tộ, vì nơi đây tôi có nhiều kỷ niệm nhất, lúc mới vào học năm 1956 được kỷ sư Trần Văn Bạch cho vào ở tạm trong trường, cũng là khuôn viên của Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học vụ. Kỷ sư Bạch là Giám Đốc Nha, ông du học ở Pháp về, từng làm Bộ Trưởng thời ông Diệm hoặc trước đó, ông có lòng nhân ái cho một số học sinh nghèo khó ở xa Thủ Đô Sàigòn như ở Bắc di cư hoặc ở Trung hay ở Miền Tây, được tam trú trong khuôn viên Nha để theo học, còn ăn cơm tháng hoặc tự nấu ăn với cái lò đốt bằng dầu hôi.

Ở đó có anh gát-dan tên Gu Salang, người Ấn lai, sau 1975 anh đã hồi hương cả gia đình về Ấn Độ gồm có mẹ (VN), vợ (VN), con gái, con trai và một em trai đều lai Việt Nam.

Nay tuổi đã cao 84 rồi, tôi cũng mong có sức khỏe, về Việt Nam để viếng thăm mồ mã ông bà nội ngoại, cha mẹ, thăm viếng người thân và bạn bè.

866423122025







Sunday, December 14, 2025

Cú ngã bất ngờ

 Đêm Thứ Năm 11 tháng 12 năm 2025 vào khoảng 2 giờ 30, tôi bị cú ngã bất ngờ trong phòng vệ sinh. Theo như nhà tôi cho biết tôi bị ngã thân năm trong phòng vệ sinh nhưng đầu nằm ngoài phòng vệ sinh, sau khi tôi bị té ngã, nhà tôi còn thức vội chạy đến, ngồi xuống ôm đầu tôi đặt lên thân nhà tôi lay gọi tôi dậy, chừng5 phút sau tôi mới tĩnh

Còn tôi thì chỉ biết khi tĩnh lại nằm trong phòng vệ sinh, phần đầu được nhà tôi ôm trong lòng, thân nằm trong phòng vệ sinh, sau đó nhà tôi dìu tôi đứng lên và dìu tôi đi đến giường ngủ, cách đó chừng 3 m.

Sau khi nằm xuống giường, tôi vói tay lấy dụng cụ đo huyết áp kết quả như sau:

- 138/67 nhịp tim 63 vào lúc 3:00 AM

- 138/68               70              4:40 AM

- 125/74               70             5:30 AM

- 155/74               79            6:31 AM

Đến 7:30 con gái tôi đi làm về, sau đó con gái tôi đưa đi chích thuốc con mắt theo lịch hẹn từ trước. Sau đó cháu đưa tôi đến bệnh viện cho bác sĩ khám, theo yêu cầu của con gái tôi bác sĩ cho chụp cắt lớp MRI để xem khắp thân thể tôi có bị chi không. Theo như chúng tôi suy đoán có thể tôi đã bị đột quỵ nhẹ, theo kết quả bác sĩ cho biết tôi không bị chi hết, toàn thân bình thường, bác sĩ muốn tôi ở lại bệnh viện qua đêm để theo dõi, nhưng tôi nghĩ không có chi thì về nhà nghỉ, ăn uống thoải mái hơn, vã lại tôi ăn chay, nên cha con tôi đồng ý ra về.

Sau khi về nhà, tôi cảm thấy toàn thân tôi bình thường, não bộ của tôi cũng bình thường. Tên họ của những học sinh đã học với tôi từ khoảng 50 năm trước tôi vẫn nhớ ví dụ như Tạ Trung Hiếu, Tô Vĩnh Khoa … Hà Trọng Dũng (tôi đặt biệt danh là Hà Bá) Nguyễn Ngọc Lệnh, Nguyễn Văn Phúc (Trưởng Ban Đại Diện Học Sinh), Phạm Thị Minh Nguyệt, nghĩa tử Huỳnh Thị Ánh và Huỳnh Thị Sương.

Trong những Cựu học sinh của Trường, tôi mến em Lương Thị Loan nhiều, nhà em ở Gò Vấp hình như trên đường Nguyễn Văn Thọ, Gần ngã năm chuồng chó, năm nào đó, tôi mời một số em đến nhà con gái tôi ở khu Cây Da Xà dùng cơm vào buổi tối, nhiều em đã đến dự trong đó có em Loan, ăn uống xong em xin về sớm, nay biết chỗ em trú ngụ, tôi biết ra thật là xa, khi đi phải đi từ Lạc Long Quân, quận Bình Tân, ra trường Mạc Đỉnh Chi, theo đường 3 tháng 2 rồi Điện Biên Phủ hoặc Yên Đỗ, qua Cầu Bông, qua Lăng Ông, Nơ Trang Long, Lê Quang Định, vượt qua chợ Gò Vấp sẽ đến đường Nguyễn Văn Thọ rồi tới nhà em Loan. Xa vậy mà em cũng chịu khó đến dự !


Lương Thị Loan đến nhà con gái tôi dự bữa com tối 

Sau nầy, những lần họp mặt của CHS, tôi lại ít gặp em Loan, chắc em không được khỏe, vì người em vốn ốm yếu. Mong có dịp gặp lại em sớm, để thăm hỏi về gia đình em và biết được sức khỏe của em dù sao cũng vào tuổi U70 rồi.

866414122025



















Friday, November 21, 2025

Tìm về "đồi thông hai mộ" - nơi phát tích biểu tượng tình yêu xứ Mường

 

Khánh Linh

Hoà Bình - "Đồi thông hai mộ" nằm tại huyện Kim Bôi, từ lâu nay được coi là biểu tượng tình yêu của xứ Mường.

Hai ngôi mộ của đôi trai gái xứ Mường yêu nhau nhưng không đến được với nhau. Ảnh: Khánh Linh

Biểu tượng tình yêu xứ Mường

Một ngày cuối tháng 9.2022, trong ánh nắng vàng ngọt và gió nhẹ của tiết trời thu Tây Bắc, PV Báo Lao Động có dịp về xã Hùng Sơn, huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình, nơi có "đồi thông hai mộ" trong tuyệt tác thi phẩm cùng tên của văn sĩ Tùng Giang - Vũ Đình Trung về mối tình sắt son mà bi thảm của đôi trai tài gái sắc xứ Mường.

Lần theo chỉ dẫn của người dân, men theo con dốc ngoằn ngoèo, uốn lượn, PV đã tìm gặp bà Bùi Thị Bảy - người hiện đang trông coi hai ngôi mộ, cũng là người có công giúp ông Vũ Đình Thảo, cháu nội tác giả tìm ra ngôi mộ sau gần chục năm miệt mài tìm kiếm.



Thursday, November 20, 2025

Hồi tưởng lại năm xưa

Hôm nay, tôi mở Computer và vào mục Hình ảnh do tôi lưu lại trong USB, thấy có những tấm ảnh, nó đã gợi cho tôi nhớ lại một thời sinh hoạt Gia Đình Phật Tử xa xưa, nào là chuyến đi Lộc Ninh, có lẽ khoảng năm 1958. 

Đại Đức Thích Quảng Long và Đoàn La Hầu La tại Lộc Ninh vào năm 1958
Giao, Nhụ, anh Bình, anh Thanh, ĐĐ Quảng Long, bác X, Khánh (?), Thức Tông, Thái, Đạm 

Nào là chuyến đi Đà Lạt vào dịp Giáng Sinh năm 1960, nào là chuyến đi Huế lần đầu tiên năm 1964, những chuyến đi đó đến nay đã trên 60 năm qua rồi, nhiều người đã mất như Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Thiện Minh, Thiện Châu, Quảng Long. Các Huynh Trưởng như Hồng Liên Phan Cảnh Tuân, Nhật Minh Nguyễn Hữu Huỳnh, anh Tôn Thất Sỹ, anh Phan Lợi Sanh, chị Cung Thị Lan Phương, anh Phan Tùng. Còn một số khác tôi không biết rõ như anh Hổ, anh Biên, anh Mã Văn Tố tự Long, anh Phương là Liên Đoàn Trưởng GĐPT Chánh Đạo, anh Huỳnh Minh Tâm, anh Thanh Mai thuộc GĐPT Minh Tâm.

Chị Trần Thị Thanh Minh vẫn còn khỏe và sinh hoạt với anh chị em bình thường. Trong hình chị Minh mang kính râm, đứng giừa hai chị mặc áo len đen. Còn tôi ngồi bìa bên phải. cạnh bác Hải chùa Phước Hòa Sàigòn, bác ấy không phải là huynh Trưởng GĐPT mà là Hội viên Hội Phật Giáo Bắc Việt (Chùa Phước Hòa, Quận 3, Sàigòn).


Đoàn Huynh Trưởng A DỤC Thủ đô Sàigòn du ngoạn Tp. ĐàLạt vào dịp Giáng Sinh 1960

Thời gian đó, em Nguyễn Hữu Hồng Đức (con trai anh Nguyễn Hữu Huỳnh) mến tôi, nên khi lên Đà Lạt em theo tôi khi dạo chơi cũng như lúc ngủ nghỉ.

Ảnh trước chợ Đà Lạt từ trái: Tông, Hổ, Biên và em Nguyễn Hữu Hồng Đức

Một thời trai trẻ đã qua, sau nầy tôi vẫn còn nhiều lần đến Đà Lạt, viếng chùa Linh Phong, Trại Hầm, Thác Cam Ly, Hồ Than Thở nơi có Đồi Thông 2 mộ. Khoảng trước năm 1975 nơi đây có một tấm bảng ghi sự tích Đồi Thông 2 mộ, ngày nay không còn. May mắn tôi còn giữ được tấm ảnh, có thể do phòng Thông Tin hay Công Ty Du Lịch nào đó đã dựng nên.


Bảng Thông Báo tại Đồi Thông Hai Mộ nơi Hồ Than Thở Tp. Đà Lạt trước năm 1975

Thân phụ hay thân mẫu anh Tâm lúc tuổi già sức yếu, không thể hàng năm lên Đà Lạt thăm mộ của anh, nên đã bốc mộ, cải táng về quê của anh ở Vĩnh Long.

Ngày nay người ta xây 2 phần mộ, nhưng mộ anh Vũ Minh Tâm là mộ gió (không có hài cốt).

Chuyện tình cô giáo Lê Thị Thảo và anh Sĩ Quan xuất thân từ Trường Võ Bị Đà Lạt là Vũ Minh Tâm, đó là một Chuyện tình buồn như một số chuyện tình buồn khác, khiến cho nhiều người thương cảm và nhớ mãi sau nầy.

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                  866420112025








Tuesday, November 18, 2025

Tôi vốn người dân Cù lao Năng Gù

Về nguồn gốc Cù lao Năng Gù, theo tích xưa truyền lại có ông Dương Văn Hóa từ Cần Lố dẫn theo gia nhân đến cù lao Năng Gù khai hoang lập nghiệp, nơi đó thuở ấy trên đất cù lao là những bụi tre gai, đế sậy và có cả thú rừng như Cọp, heo rừng sinh sống. Ngày nay trong sân Đình, bên tay phải có cây Đa (cây Sộp) có cái Miếu, đó là Miếu thờ ông Thần Hổ (Ông Cọp), ngày nay vẫn còn, nhưng biến thành Miếu Thổ Địa, vài chục năm trước có người có con khó nuôi, họ ẩm con đến đó "ký bán cho ông Hổ".


Ông Dương Văn Hóa được dân làng tôn trọng là bậc Tiền Hiền, thờ tự trong Đình Thần, mỗi năm đều có cúng tế ông vào ngày mồng 10 tháng 5 âm lịch. Sau nầy con cháu họ Dương lập một phủ thờ họ Dương, được xây cất trên đất con cháu họ Dương bên cạnh Đình làng.

Trong làng có ngôi chùa Bình Phước Tự nguyên thuộc gia đình ông Dương Văn Tranh, con trai thứ Năm là Dương Văn Nghét là chủ tự, một thời gian có hòa Thượng Thích Phước Quý trụ trì vào thập niên 1950, sau đó HT. Phước Quý viên tịch, nên có anh Dương Văn Bắn làm thủ tự vào thập niên 1960, chùa lợp lá dừng vách lá buông, nay chùa đã tân trang do TT. Thích Giác Minh làm trụ trì từ năm 2002. Ngôi chùa nầy cách Đình làng chừng 500 thước.

Ngày xưa Ban Hội Tề làng có xây cất ngồi chùa làng nằm ở đất của Làng thuộc ấp Bình Thới, cách đường lộ chạy quanh cù lao chừng 200 thước. Ngày nay là Chùa Đông An.

Trước năm 1945 Ban Hội Tề làng Bình Thủy đã lấy tất cả đất Thổ canh và Thổ cư từ Rạch Cát ra tới sông Hậu Giang là đất của làng, ai chiếm canh hàng năm phải đóng thuế cho Công nho của làng để Ban Hội Tề lấy huê lợi trang trải cho chi phí cúng Đình mỗi năm 3 lệ: 21, 22 tháng Giêng, Mồng 9 Mồng 10 tháng Năm và 19, 20 tháng Chạp, tu bổ Đình Thần và những lợi ích công cộng khác.


Đình thần Bình Thủy, phía sau là trường Trung Học Cơ Sở, được xây cất sau 1954, có lẽ vào thập niên 1980. Tôi chưa đến tham quan lần nào, nên không biết Trường ra sao.

Nhìn vào cổng trường, có thể thấi cái Miếu ông Hổ, ngày xưa ông Hổ ấy nhân dân làng tôn xưng là ông xã Cọp. Theo sự tích ông cọp nầy một đêm đã cõng bà mụ Ngũ đi vào giữa cù lao, trong nhừng bụi tre gai, để giúp cho con cọp cái sinh con. Việc sanh đẻ xong cọp còng bà mụ trả về nhà, ba hôm sau cọp tha đến sân nhà bà mụ một con heo nặng cỡ chừng 1 tạ, để đền ơn, gia đình bà mụ xẻ thịt ăn, nhưng dành lại cái đầu heo, đêm đem ra sân kiếng lại ông cọp, sáng ra gia đình bà mụ thấy không còn cái đầu heo, biết ông cọp đã đến nhận, Ban Hội Tề cùng như dân làng nhận thấy trong cù lao có cọp mà con cọp nầy không hề phá phách, ăn thịt heo gà của ai, nên họ làm tờ cử phong cho con cọp đó chức Xả Trương, từ đó dân làng tôn xưng ông là ông xã Cọp, xây một cái Miếu ở gốc cây đa trong sân Đình, hàng năm vào lệ cúng tế, Ban Hội Tề để ở Miếu cái đầu heo và tờ cử, khuya cọp về tha đầu heo và tờ cử mới, cũng mang trả lại tờ cử cũ. Đến ngày nay theo phong tục cái miếu ấy vẫn còn. Dân làng vẫn tôn sùng ông xã Cọp, Vào thập niên 1960, có người do con nhỏ khó nuôi, họ bồng con đến đó thắp nhang, đèn, bài bánh trái, hoa quả ký bán con nhỏ cho Ông Xã Cọp. Họ tin rằng làm như vậy đứa nhỏ dễ nuôi, không bệnh hoạn 

Con gái thứ 4 của Hương Sư Lâm Văn Nguyện là Lâm Thị Hương, trước 1975 chị Hương học ở Long Xuyên rồi xuất thân là Giáo viên dạy ở Trường Tiểu Học Bàn Cờ nằm trong khu Cư Xá Đô Thành, chị lập gia đình sống ở Sàigòn khu Vườn Chuối, Quận 3. Sau 1975, gia đình chị có vượt biên, nhưng không thành công, rồi chị hiến đất cho 1 ni cô lập thành Kỳ Lâm Tự nằm trong giồng đất giữa Rạch Chanh và Rạch Cát.

Trong làng thời Pháp thuộc, có ông quan Phủ Nguyễn Hà Thanh hồi hưu, ông chọn làng tôi để an cư, ông có mua đất từ bờ sông vào tới rạch Chanh (có lẽ xưa kia nước trong rạch có đế, sậy nên bị phèn, nước lợ chua nên dân gian đặt tên là Rạch Chanh, nằm phía Xép Năng Gù), còn con rạch khác chảy từ đầu cù lao, nên nước trong rạch có pha lẫn cát, do đó dân gian đặt tên là Rạch Cát, nằm phía Sông Hậu, trong đất ông Phủ hiến một phần để cất trường làng, nay là Trường Tiểu học A Bình Thủy, phía sau đó lại hiến một lô đất làm nghĩa địa và ông cũng hiến một phần đất xây nên cái Miếu 3 gian, phía sau Miếu là phần mộ của ông và con cháu sau nầy.

Tưởng cũng nói thêm nhà của ông Phủ Nguyễn Hà Thanh ngày nay không còn, nghe cô tôi kể lại nhà ông có lầu, ông họ Đoàn do sự việc “giặc chày vôi” thời Tự Đức, con cháu của “giặc chày vôi” chạy vào trong Nam, phải thay họ, đổi tên.

Nhân tiện cũng nói thêm, bên kia Xép Năng Gù (Xép là con sông nhỏ) là Cù lao Năng Gù (sông Năng Gù - chạy dọc theo Quốc lộ 91 đường Long Xuyên Châu Đốc), đối diện với nhà ông Phủ Nguyễn Hà Thanh bên kia sông là biệt phủ của Thầy Phó Phạm Phú Quý, có hàng rào sắt cập theo lộ 91, hàng rào nầy có 4 cổng ra vào, 2 cổng giữa có lầu, 2 cổng 2 bên xe nhà chạy ra vô được, cổng rào có cẩn gạch hoa nổi, mua từ bên Pháp, nên cổng rào nầy là 10 thì cổng rào nhà Chú Hỏa hay Dinh Độc Lập chỉ bằng 1 mà thôi. Đến năm 1972 người Mỹ sang Việt Nam, mở rộng lộ 91 nên phá cổng rào nầy, được bán lại để xây tường rào cho Bệnh viện Hòa Hảo (Phú Tân).

Thầy Phó Quý (Phó Cai Tổng Phạm Phú Quý) giàu có không thể tưởng, ruộng đất của ông “cò bay thẳng cánh”. Dân chúng vùng đó kính nể ông, nên chỉ gọi là “Thầy Phó” mà thôi. Biệt phủ của ông sau 1945, con cái phải bỏ nhà lên tỉnh Châu Đốc ở lánh nạn, nơi đó bị Lâm Thành Nguyên, Tướng của giáo phái Hòa Hảo lấy làm Trường Đào Tạo Sĩ Quan Hòa Hảo, cũng như Trần Văn Soái có trường Đào Tạo Sĩ Quan ở Cái Vồn.

Vì ruộng đất Thầy Phó rộng lớn nên trong ruộng ông phải đào nhiều con kênh, nên nông dân đạt tên là Kênh Ngang, Kênh Giữa … và ông cũng cho đào một con kênh trổ ra Xép Năng Gù, nên ông phải tự xây cầu đúc trên lộ 91, ngày xưa nó có tên là “Cầu Thầy Phó”, ngày nay nhân viên của Ty Công Cánh An Giang không rành nên ghi là “Cầu Thầy Phó Ký”. Đúng ra phải ghi là “Cầu Thầy Phó Quý”

Nhân đây xin viết luôn, con rạch nầy nước chảy ra Xép Năng Gù cũng là cái hướng đâm thẳng qua Trường tiểu học A Bình Thủy trên cù lao Năng Gù là vùng đất của quan Phủ hồi hưu Nguyễn Hà Thanh, nên ông Nguyễn Hà Thanh cho đào một cái mương từ trong Rạch Chanh cập bên hông nhà ông, đâm thẳng qua biệt phủ của Thầy Phó Quý. Do con kênh và cái mương đó mà nhà ông Phủ về sau con cháu sa sút, gom cây ngói, cất lại một cái nhà gỗ 3 gian lợp ngói trên nền gạch Tàu,  còn nhà Thầy Phó Quý nay chỉ còn cái nền, mặc dù ngày xưa năm 1945 trong phủ thờ, tôi theo mấy anh học trò lớn, chui vào trong đó vẫn còn nguyên cập ngà voi, bộ lư đồng to khắc chạm hình bụi tre bằng bạc, chiếc xe đạp trẻ con màu hường và những cái độc bình to, cao. Mấy anh đó dẫn tôi vào phủ thờ chỉ tìm và lấy pháo chà, rồi chúng tôi leo lên cổng lầu ở hàng rào, lấy cây thước vuông học trò, dộng xuống miếng pháo trên ngạch cửa sổ, kết quả pháo nổ “bốp” còn cây thước của tôi đã tét cả gang tay !

Ông Dương Văn Hóa (1723-1818) người gốc ở Cần Lố, Cầu Cần Lố trên Quốc lộ 30 (Km 29+883 QL.30), qua sông Cần Lố, nối thị trấn Mỹ Thọ và xã An Bình (huyện Cao Lãnh - tỉnh Đồng Tháp).

Cầu Cần Lố Effell được xây đựng trước năm 1975, một công trình giao thông chiến lược vào cửa ngõ Cao Lãnh. Sau giải phóng mới làm Cầu mới bằng bê tông cốt thép khá lớn và cao so cầu Cần Lố cũ.

Bộ phim truyện VN Cánh đồng hoang từng quay cảnh nông dân bỏ Đồng Tháp Mười bơi xuống ba lá chạy giặc ở cây cầu này.

Như thế chúng ta biết rằng trước tiên ông Dương Văn Hóa đến Cù lao Năng Gù khai hoang, lập nghiệp. Về sau có ông Phủ Nguyễn Hà Thanh dùng nơi đây an cư sau khi về hưu, hiến đất cho nhà cầm quyền Pháp cất trường, khai hóa dân trí từ đó về sau. Ông Phủ Nguyễn Hà Thanh có người cháu nội là Nguyễn Văn Đe xuất thân từ Ecole Normal de Saigon, tốt nghiệp làm Thầy giáo ở tỉnh Sa Đéc, Long Xuyên rồi về hưu trước năm 1945, có cháu cố là thầy giáo Nguyễn Hoa Hẩu, con của thầy giáo Nguyễn Văn Đe.

Năm 1947, ông Nguyễn Hoa Hẩu lấy trường công mở lớp dạy tư, tôi đã theo học tư với ông, sau khi đã học vở lòng ở trường làng Bình Mỹ, bên kia xép Năng Gù với thầy giáo Lê Văn Thọ, sở dĩ tôi qua sông học vì chú tôi làm Trưởng giáo bên ấy, hàng ngày chú tôi bơi xuồng từ bên Cù lao sang bên kia sông để dạy, hai trường gần như đối diện nhau qua con sông có tên là Xép Năng Gù. 

Năm 1950, đang học tư tôi tự xuống tỉnh Long Xuyên dự thi và đậu bằng Sơ học (tốt nghiệp lớp 3).


Trường làng ngày xưa nhà nước cất, nên gần như giống nhau, mỗi trường có 3 lớp học và một căn phụ bề ngang chừng bằng phân nửa lớp học, để cho Trưởng giáo cư ngụ và giữ gìn Trường. Tuy nhiên trường Bình Mỹ có cái nền cao chừng 1 thước xây bằng đá núi, còn trường Bình Thủy nền cao chừng 1 gang tay mà thôi. Trường Bình Long, Bình Hòa tôi không biết, nhưng đoán chừng cũng giống như Trường Bình Mỳ, Bình Thủy.

Năm sau 1951, trường được nhà nước mở cửa lại dạy lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba. Tôi theo học và ngồi lại lớp 3 vì nhà không đủ tiền cho tôi xuống tỉnh học lớp Nhì, do anh tôi đang học lớp Tiếp Liên ở tỉnh, để thi lại vào Trung học Thoại Ngọc Hầu, Long Xuyên.

Năm 1954, cha tôi mất vì bệnh lao, lúc ấy chưa có thuốc Peniciline, năm sau mới có thuốc để trị thì cha tôi đã mất rồi. Trong năm nầy, tôi được lên Châu Đốc ăn ở nhà chú tôi làm thầy giáo Trường Nữ, tôi học lớp Nhì Trường Nam với thầy Lê Quang Điện rồi lên lớp Nhất E học với thầy Châu Văn Tính, thầy dạy giỏi, sau thầy làm Hiệu Trưởng rồi Thanh Tra Tiểu Học.


Thầy Châu Văn Tính và lớp Nhứt E niên khóa 1955-1956, Trường Nam Tiểu Học Châu Đốc

Cũng nhờ có những vị tiền bối khai phá quê hương tôi, nên tôi được học hành tương đối mở mang trí tuệ với xã hội.

Sau khi được miễn thi Tiểu học, tôi dự thi tuyển vào Trung Học Kỹ thuật Cao Thắng với hơn 3 ngàn thí sinh, tôi đậu hạng 132/250 thí sinh Trúng tuyển, nên được chú tôi cho lên Sàigòn theo học Trung học Kỹ thuật Cao Thắng, tôi có học bổng toàn phần 400 đồng/tháng.

Lớp Đệ Nhị A năm 1962

Tốt nghiệp Tú Tài 2 Kỹ thuật Cao Thắng, tôi dự thi tuyển vào Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật Phú Thọ, lấy 10 thí sinh chính thức, tôi đậu dự bị hạng 12, đến khi nhập học chỉ có 7 người theo học, sau đó có anh Nguyễn Viết Hoạt được học bổng đi Pháp, nên chỉ còn có 6 người theo học. Học bổng 1000 đồng mỗi tháng.


Trường Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật học tạm tại Trrường Bách Khoa Trung Cấp Phú Thọ Sàigòn

Sau 2 năm học, tôi tốt nghiệp ra trường, được phân bổ đi dạy tại Trung học Kỹ thuật U-Út Banmêthuột. Đầu năm 1968 tôi bị động viên đi khóa 27 Sĩ Quan Trừ Bị Trường Bộ Binh Thủ Đức. Tháng 8 năm 1968 ra trường lại được đi học tiếp chuyên môn tại Trường Quân Cụ Gò Vấp theo khóa Quân Cụ Cơ Bản, rồi khóa chuyên môn sửa chữa Quân Xa, Vù Khí. Tháng 5 năm 1969 ra Trường, tôi chọn về vùng IV, được phân bổ về Đại Đội Bảo Toàn, Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh. Sư Đoàn có bản doanh ở Bạc Liêu, còn Tiểu Đoàn chúng tôi có bản doanh nằm trên đường đi Bãi Sào ở Sóc Trăng. Nay là đưòng Lê Hồng Phong, chỗ đồn trú của chúng tôi nay là nghĩa trang, chỗ cổng chào đi vào thị trấn Mỹ Xuyên (Bãi Xào). Tôi giữ chức Trung Đội Trưởng Sửa Chữa Lưu Động, đóng quân tại thị xã Cà Mau. Đến tháng 7 tôi được chuyển về đơn vị của Tiểu Đoàn, giữ chức Trung Đội Trưởng Hậu Cứ. Đến giữa tháng 9 năm 1969 tôi được biệt phái về dạy học lại ở Trung học Kỳ thuật Banmêthuột.


Chuẩn Úy Quân Cụ

Tại Trung học Kỹ Thuật Banmêthuột tôi được đề bạt làm Phụ tá Học Vụ và Học Sinh Vụ (tương đương Tổng Giám Thị và Giám Học) kiêm Phát ngân viên.

Đến tháng 10 năm 1970, tôi được thuyên chuyển về Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ, địa chỉ 55C Tự Đức Phường Đa Kao, Quận Nhất, Sàigòn.

Giáo sư và nhân viên Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ sau 30/4/1975

Đến tháng 10 năm 1974 tôi được Bộ Giáo Dục và Thanh Niên cử làm Hiệu Trưởng trường nầy và đến tháng 4 năm 1975, miền Nam đứt bóng, sau đó tôi bị đi Học Tập Cải Tạo từ 1975 đến 16-9-1977 được tạm tha. Tháng sau tôi vào làm nhân viên Phòng Thanh Tra Sở Lao Động, Năm sau tôi được chuyển lm nhân viên Phân Viện Thiết Kế thuộc sở Công Nghiệp. Về sau đơn vị nầy cải biến thành Công Ty Trang Bị Kỹ Thuật, tôi được chỉ định làm Trưởng Phòng Thiết Kế, rồi Trưởng Phòng Kinh Tế Kế Hoạch, cho đến tháng 4 năm 1991 tôi rời Tân Sơn Nhất ngày 2-4-1991, đến Bangkok ở 1 tuần, ngày 9 tháng 4 năm 1991 lên máy bay rời Bangkok, đến San Francisco ngày 9-4-1991 và đến Minnosota ngủ 1 đêm, về tới Louisville ngày 10-4-1991, gia đình tôi ở tại đây từ đó, thuộc diện HO.

Ngày đầu tiên dến Louisville, Kentucky 10-4-1991

Tôi đã tốt nghiệp Sư Phạm Kỹ Thuật, học thêm có bằng Cử nhân, đang theo học Cao học thì miền Nam bị đứt bóng, Ra nước ngoài tôi phải lo cho gia đình, nên không thể tiếp tục con đường học vấn.



866418112025