Pages

Tuesday, October 31, 2017

Trở lại Paris



Tôi bị đánh thức vì cái điện thoại cầm tay của tôi reo, lấy điện thoại lên để nghe, thấy lúc đó 4 giờ sáng, nhìn thấy số điện thoại khởi đầu 33, tôi biết từ Pháp gọi tới, đầu dây bên kia tiếng anh Vong A Kim:

- Anh Tông ơi ! Anh của anh đi rồi.

Tôi sững sờ im lặng. Anh Kim tiếp:

- Biết không ? Anh của anh chết rồi !

- Chết khi nào vậy ?

- Mới đây ! Anh có qua không ?

- Có, tôi sẽ qua.

Kim là em của chị dâu tôi, tháng 7 tôi qua Pháp, tôi có gặp anh Kim vài lần, trong đó có 2 lần anh Kim đưa tôi đi tới nhà băng, để đổi tiền giấy 500 Euros, lần thứ nhất không có hẹn không vào được, hôm sau lần thứ hai đi tới nhà băng khác, đổi được 6 tờ giấy 500 Euros, lần nầy anh Kim mời tôi uống coffee, ở một cái quán gần porte d’Italy, nơi đó gần chung cư anh ở, rồi anh lấy xe đưa tôi về nhà. Chị dâu tôi cũng như anh Kim là người Hoa, sinh ở Nam Vang nên biết nói tiếng Việt.

Tôi và anh Vong A Kim

Ngay sau khi chấm dứt nói chuyện, tôi vội vàng lái xe đến nhà con trai tôi để lấy vé đi Pháp, vì con trai tôi cho biết ở phi trường Cincinnati, có đường bay thẳng qua Paris, từ chỗ chúng tôi lái xe đến đó mất khoảng 2 giờ, phi trường nầy thuộc thành phố Cincinnati của tiểu bang Ohio nhưng nó nằm trong phần đất của Kentucky.

Vì cần đi ngay, chúng tôi lấy vé mất 2,882.96 USD của hãng Delta chuyến bay có mã số Delta 228, bay thẳng từ phi trường Cincinnati CVG khởi hành lúc 6: 10 PM ngày 17-9-2017 đến phi trường Charles De Gaulles CDG vào lúc 8:15 ngày Thứ Hai 18-9-2017, thời gian mất 8 giờ 5 phút, bay qua khoảng cách 4,150 miles.

Máy bay đến phi trường Charles De Gaulles, hành khách xuống phi cơ, phải lấy xe điện nội bộ đi tới cổng số 2E, tôi không ngờ được, không biết bao nhiêu chuyến bay cùng đến vào buổi sáng, nên có khoảng chừng 5 ngàn hành khách xếp hàng chờ làm thủ tục nhập cảnh, di chuyển theo đường zigzag trên khoảng cách chừng 100 thước. Tôi mất khoảng 1 giờ mới ra khỏi nơi đây.

Sau khi qua thủ tục nhập cảnh đơn giản, tôi đi ra ngoài thấy có chừng 5, 7 chục người cầm bảng đón chờ khách đến. Tôi chưa từng đi phi trường New York, nên chưa biết ra sao, còn phi trường Dallas Fort Worth hay Chicago lượng khách nhập cảnh chẳng đáng bao nhiêu so với Charles De Gaulles.

Những lần trước đến Paris có người đón, lần nầy không có người đón, tôi phải lấy vé xe điện RER về Paris. Lấy vé qua máy trả bằng thẻ credit hay Debit Card, có nhiều máy, nếu trả tiền mặt thì phải xếp hàng đợi chừng 10 phút. Tôi mua vé trả tiền mặt, tôi nhớ mấy năm trước đã đi từ ga Gentilly tới phi trường, nên tôi tôi mua vé xuống trạm Gentilly, phải trả 12 Euros.

Trên cùng vé đi tới trạm Massy Palaiseau, kế vé từ Charles De Gaules đi tới Gentilly, kế là vé đi từ Massy Palaiseau đến Gentilly và dưới cùng là tập vé chưa đi, sử dụng chung cho Bus, Tramway, Metro và RER trong Paris

Sau khi xuống trạm Gentilly, tôi ra khỏi nhà ga đi về hướng nhà bà con tôi đã ở 1 tháng năm 2012, dọc đường tôi gặp một cô gái, tôi hỏi cô ta trạm xe Autobus 125, cô ta bảo đi theo cô ta, tôi bảo trước tôi ở đây, hướng tôi đi có trạm autobus, cô ta cười và hỏi tôi người ở đâu ? Tôi trả lời người Việt Nam, cô ta cho biết vừa mới du lịch Thái Lan về, rồi chúng tôi chào chia tay.

Tôi đi xuống dốc, đến căn nhà cũ, nhưng nghĩ rằng con của người bà con, đi làm ban đêm, không nên ghé làm mất giấc ngủ anh ta, tôi định theo đường cũ đến quán cà-phê nơi ấy có bán vé xe bus để tôi mua 1 tập vé, tôi gặp một thanh niên tuổi chừng 30, hỏi anh ta có phải chỗ trạm xe autobus, có xe 125 chạy ngang qua, anh ta cho biết không có, anh ta hỏi tôi đi đâu, tôi cho biết đi mua vé xe, anh ta cho biết khỏi cần, cứ lên xe, tài xế sẽ bán vé 2 Euros/vé, thế là tôi đi theo anh ta, vì anh ta cùng đi về hướng trạm xe autobus.

Trong khi đi, anh ta dùng smartphone tìm đường xe autobus 125, anh ta chỉ cho tôi thấy, trạm mà tôi đến, không có xe 125, muốn đi xe 125 tôi phải đi đến một trạm khác, tôi nhận ra nơi đó, nhưng cũng đi đến trạm cũ như tôi đã đi từ trước, đến nơi tôi thấy có xe 57 vẫn còn chạy qua đó, nhưng xe 125 thì không. Bấy giờ tôi mới sáng mắt ra là tôi gặp 2 người tốt, tôi đã không tin họ.

Trên đường đi tới trạm xe autobus do anh thanh niên chỉ dẫn, tôi nhân tiện ghé qua quán cà-phê mua 1 tập vé, vé ấy đi autobus, tramway, metro, RER - trong nội ô Paris - từ chỗ quán cà-phê nếu tôi đi đến toà hành chánh Gentilly gần đó, thì tôi cùng đến trạm autobus, nhưng do anh thanh niên nói tôi phải đi up hill, theo đó tôi đã đến trạm xe bus 125, vừa đi xa lại còn phải leo lên dốc !

Đến nhà anh tôi vào khoảng 1 giờ trưa, bấm chuông không ai mở cửa, tôi gọi điện cho chị dâu, chị cho biết đang bận lo giấy tờ, bảo tôi ra khu chợ tìm quán cà-phê ngồi chờ, tôi đi loanh quanh trong khu chợ, trời Paris trở lạnh, mưa lất phất làm cho lạnh nhiều hơn.

Tôi gọi anh Đỗ Văn Bình, anh cho biết con anh đi cấp cứu 2 lần, lần cuối phải mổ, chị nhà lại đi cấp cứu, anh hỏi tôi trời lạnh có cần áo ấm không, nếu cần anh mang tới, tôi cho biết đang mặc áo lạnh đủ ấm rồi. Sau đó tôi gọi anh Nguyễn Mai Ninh, anh và tôi nói chuyện khá lâu, anh cho biết chị nhà đã đi chợ, anh đang ở nhà một mình, lấy xe bus số 38 tới nhà anh, tôi cám ơn vì đang chờ chị dâu tôi.

Tôi chọn quán cà-phê ở góc đường, gọi ly café-latte, đây là cà-phê sữa, ngồi uống để đợi chị dâu tôi gọi tới, cho đến hơn 5 giờ chiều, tôi trở lại nhà anh tôi, vì nghĩ rằng đã hết giờ làm việc chị dâu tôi về nhà, nhưng đến nơi vẫn chưa thấy chị về, tôi gọi điện, chị bảo tôi tạm thời đến nhà bạn hay đến khách sạn nghỉ, vì đến nhà chị ở sẽ bất tiện. Lần trước chị không muốn tôi đến nhà ở, nhưng vì anh tôi bảo, chị phải làm theo. Tôi không hiểu chị dâu tôi nghĩ gì, nhưng trước mắt tôi phải giải quyết chỗ ở, tôi rời khỏi nhà anh tôi, tìm khách sạn để ở. Gần đó tôi thấy có nơi ghi Hotel và Auberge, tôi nhớ lúc nhỏ khi còn ở nhà chú tôi, một hôm sau khi gác thi Trung học về, chú và Thầy tôi có bàn bạc về chữ Auberge trong đề thi, tôi nhớ đó là quán trọ, tôi ghé vào hỏi, người chủ bảo là đã đóng cửa từ lâu rồi.

Tôi liền gọi đến người chú vợ, ông ta bảo lấy tàu RER đi đến trạm Massy-Palaiseau xuống ở trạm nầy, lấy xe bus số 2 hay 3 hay 22 đi về hướng chợ Ulis2, xuống ở trạm Thomas, trạm nầy cách nhà ông chừng 100 thước.

Tôi chỉ biết có trạm RER Gentilly, nên lại ra trạm xe bus đi xe 125 trở lại nhà ga Gentilly, tại đây tôi không biết mua vé qua máy, nên nhờ người giúp, trên đường nầy có 2 chuyến xe khác nhau, tôi không biết, nhưng may mắn lên đúng chuyến xe đi qua trạm Massy-Palaiseau. Xuống ở trạm nầy nó có một cầu vượt qua 2 tuyến đường ray, cầu dài chừng 7, 8 chục thước, cả 2 đầu cầu đều có bến xe autobus, nhưng không có bên nào có xe bus số 2, 3 hay 22. Tôi lại gọi điện cho ông chú vợ, ông bảo tôi chờ, ông sẽ chạy ra đón tôi chừng 15 phút.

Tôi chờ đến gần nửa tiếng đồng hồ, không thấy ông chú vợ đâu cả, tôi lại mua vé định trở về trạm Gentilly, nơi đó tôi biết có hotel và quán ăn. Lần nầy tôi tự mua vé và vì máy chỉ thu thẻ, nên tôi trả tiền với Debit Card máy nhận.

Nhưng tôi nghĩ ráng chờ một chút nữa. Bỗng dưng tôi thấy ông chú vợ lò dò đến, chú bảo tôi:

- Tôi gọi điện thoại cho anh không được, tại anh không chịu hỏi người ta bến xe autobus số 2, 3 và 22 - ông vừa nói vừa chỉ cho tôi thấy – Nó ở đằng kia kìa.  

Theo hướng chú chỉ, tôi nhìn thấy có mấy chiếc autobus đậu ở đàng xa kia, cách bến xe autobus gần cửa ra chừng 50 thước.

Thế rồi chú đưa tôi về nhà chú ở vùng Bures sur Yvette. Nhà chú có thím Annie và cô con gái Mary Anne. Chú đã về hưu, thím và cô con gái đi làm.

Chợ ULIS2

Ngày hôm sau, chú đưa tôi đi chợ ULIS2 cho biết, vì chú có dẫn theo con chó, cho nên chú ở ngoài với con chó, tôi vào chợ, nơi đây có chợ thực phẩm khá lớn, ngoài ra còn có những hiệu buôn khác cũng như ở các Mall Mỹ. 

Bên trong chợ ULIS2

Trên đường đi tới chợ cùng như khi đi về, chú chỉ cho tôi thấy một loại nấm, tối hôm qua thím ấy - người Pháp – đã xào với hột gà, ăn khá ngon. Chú bảo trong vườn nhà chú có nhiều nấm nầy.

Buổi chiều chú đi khỏi, tôi đi ra chợ Ulis 2, tôi mua vài thức ăn như rau, cải, cà chua, nước sauge, chuối già. Tối hôm đó thím lại cho ăn nấm xào hột gà với món soupe và tráng miệng với fromage.

Ăn xong, chú và tôi ngồi nói chuyện uống rượu chát đỏ, loại 750 ml, khá ngon, chú cho biết giá chỉ khoảng 5 euros mà thôi. Chú dẫn giải cho tôi biết về rượu nho, chú và tôi chuyện trò đến khoảng 2 giờ sáng mới đi ngủ.

Ngày hôm sau Thứ Tư 20-9-2017, tôi bị điện thoại của anh Kim gọi tới, làm tôi thức dậy khoảng 8 giờ, anh Kim hẹn tôi tới nhà anh tôi, để chị dâu bàn vài việc cần thiết. không có ai ở nhà, tôi ăn sáng với bánh mì baguette và fromage rồi ra bến xe bus đón xe đi tới trạm Massy-Palaiseau, rồi lấy vé đi đến trạm Gentilly.

Vì không hiểu đứng ở đâu để đón xe đi đến trạm Gentilly, tôi phải hỏi một nhóm 3 cô gái, một trong 3 cô cho biết tôi đứng ở đó xe tới là đúng chuyến. Khi xe tới 3 cô gái cùng tôi lên chung toa, lúc xe dừng ở 1 trạm, một trong 3 cô gái cho biết xe không dừng ở trạm Gentilly, bây giờ là trạm Cité Universitaire tôi phải xuống vì đã qua khỏi Gentilly rồi.

Tôi xuống trạm nầy, lên tới đường thì thấy có xe bus 125 ngừng tại bến, nhưng tôi biết nó đi về hướng khác, tôi hỏi một cô bán quầy sách báo tại đó, nơi nào có xe đi tới Mairie của Ivry sur Seine, cô ta chỉ bên kia đường, tôi sang bên kia đường, không thấy có bảng xe 125 mà đó là bến đỗ của Tramway, thế là tôi lấy Tramway ấy, đi một chốc thấy xe chạy ngang qua Stade Charlety, tôi nhớ lần trước có đứng nơi đó chụp ảnh với anh Kim.


Xe chạy tới trạm Porte d’Italy tôi xuống, rồi đi bộ vào công viên, xuyên qua công viên đó, tôi đi tới toà nhà Mairie de Gentilly. Tại đây tôi lấy xe bus 125 đi đến trạm trước cửa Mairie Ivry sur Seine, rồi cuốc bộ đến nhà anh tôi lúc đó gần 12 giờ trưa.

Chị dâu tôi cho biết đã xin cho tôi được thăm anh tôi ở nhà xác vào ngày Thứ Sáu 22, nên chị sẽ lấy khách sạn cho tôi ở, chị sẽ đưa tôi đến khách sạn, ngày mai tôi sẽ đến đó ở, Thứ Sáu con gái chị sẽ đến khách sạn đón tôi đi.

Trưa đó, tôi ăn cơm ở nhà chị, rồi ra Métro số 7 đi tới trạm Porte d’Ivry xuống, chị đưa tôi đi theo đường Ivry một khoảng rồi tẻ sang đường khác để sang đường Choisy, đến khách sạn Le Baron, chị đặt phòng cho tôi.

Xong việc, chị và tôi trở lui ra Boulevard Masséna chia tay, tôi lấy Tramway đến trạm Cité Universitaire, tôi lấy vé đi về, do không biết rành, tôi lên chuyến tàu đi về hướng khác, đến cuối đường biết mình bị lạc, phải đi trở lại, đến trạm khác xuống để chuyển sang tàu đi về trạm Massy-Palaiseau.

Trên xe RER có bảng chỉ dẫn các Trạm xe dừng và đi tới sân bay Charles De Gaulles. Trên sơ đồ cho thấy ở hai đầu đều có 2 tuyến xe khác nhau

Về tới nhà đã gần tối, tôi thấy chú ấy có quyển sách dầy của Paris Match, họ tuyển lựa những sự kiện đặc biệt để in thành sách, tôi cho là rất quý, chú hỏi tôi có thích không chú sẽ cho, nhưng tôi thấy cồng kềnh và nặng nên từ chối, chú cho biết giá chừng 10 Euros.

Tối đó trong bữa ăn vẫn có món nấm xào hột gà, ở nhà tôi không thích ăn nấm rơm, nấm đông cô, nhưng nấm trong vườn chú, tôi ăn rất ngon. Trong bữa ăn, tôi cám ơn chú thím đã cho tôi tới ở trong nhà vài ngày. Ăn xong, chú và tôi lại uống rượu chát đỏ, chú kể chuyện đi làm và bảo tôi lần tới đưa nhà tôi sang, chú sẽ đưa đi tham quan các nơi, đừng để chú già rồi không thể đưa đi đâu. Chú nhỏ hơn nhà tôi khoảng 5, 6 tuổi, lúc nhỏ nhà chú và nhà của nhà tôi ở cách nhau một căn phố khác, nên tuổi thơ họ có nhiều kỷ niệm, có những bạn chung cho đến khi chú đi Pháp du học trước năm 1975.

Chú còn kể cho tôi nghe, có ông thầy phong thủy nào đó đã tới nhà chú xem phong thủy, nói cây đòn dông xấu, nên dời phòng ngủ sang nhà xe, vì những thứ đó làm thím bệnh và đứa con gái bị ung thư máu, chú đã đập bỏ cây đòn dông, đã sửa nhà xe thành phòng ngủ. Sau đó thím lành bệnh, còn con gái cũng trị được ung thư máu, trong khi cùng thời gian đó, có cô gái cũng bị ung thư máu cùng điều trị tại bệnh viện thì cô gái ấy đã chết.

Sáng hôm sau thức dậy, thím và con gái đã đi làm, tôi chào từ giả chú ra xe đi tới khách sạn ở.

Tôi không tìm thấy cái card của khách sạn nên không biết dịa chỉ, nhưng nhớ chị ấy và tôi sau khi rời khỏi khách sạn, đi trên đường Choisy, có đi ngang qua trường Trung học, qua một thánh đường và qua cửa hàng McDonalds. 

Khu chợ Á Đông trên đầu đường Choisy ở quân 13

Nay trở lại tôi theo vĩa hè có hiệu McDonalds, thánh đường và trường học, nhưng không tìm thấy khách sạn, tôi đi ngược lại cũng không tìm ra  Le Baron.

Giáo đường ở trên đường Choisy

Tôi nghĩ hay là nó ở bên kia đường, nên tôi sang bên kia đường và đi một đổi thì tìm thấy khách sạn Le Baron. Khi lấy Passeport để quản lý khách sạn làm photocopy, tôi thấy cái Card của khách sạn nằm trong Passeport !!! Khách sạn Le Baron, tọa lạc tại địa chỉ 76, avenue de Choisy, 75013 Paris,

 
Khách sạn Le Baron

Sau khi nhận phòng, để hành lý ở khách sạn, tôi đi ra ngoài đến gần đầu đường Choisy vào một trung tâm mua bán, tôi mua bánh mì baguette, nho xanh của Ý, trái chà là tươi, bánh Croissant, một chai nước uống rồi trở về khách sạn nghỉ ngơi.

Trong chợ

Khách sạn có WiFi, nhưng tôi không thể lên Internet được, có thể vì nhiều người sử dụng, đường truyền bị bận. Cho đến gần tối, tôi nghĩ sao mình không lợi dụng thời gian nrảnh rổi nầy đi dạo chơi. Thế là tôi đi về hướng Place d’Italy.

Trên đường đi, có công viên Choisy, tôi đi vào chụp một tấm ảnh để kỷ niệm.


Rồi tiếp tục đi tới Place d’Italy, dọc đường có một cửa hàng ăn Việt Nam.


Ở đầu đường nầy có một cửa hàng KFC khá rộng và cũng đông khách. Buổi chiều xe cộ ở giao lộ nầy không tấp nập lắm.


Tôi đang đi dạo thì chị dâu tôi gọi điện thoại hỏi tôi đang ở đâu, biết tôi đang đi dạo chơi, chị bảo tôi về khách sạn gặp chị. Tôi vội vàng đi về khách sạn, nhưng gần 1 giờ sau chị mới tới với anh Kim, bảo tôi thu dọn về nhà chị nghỉ cho tiện ngày mai đi thăm anh tôi.

Phải chờ anh Kim về nhà lấy xe đến đưa tôi về nhà anh tôi. Về tới nhà, chị dâu tôi chỉ cho tôi thấy cái giường anh nằm, nó giống như giường ở bệnh viện. Chị cho biết khi 11 giờ 30, chị còn làm vệ sinh cho anh, anh bảo chị khuya rồi đi ngủ đi. Vì mệt mõi, chị ngủ cho đến 5 giờ thức dậy, gọi anh tôi không thấy trả lời, chị vào phòng thấy 2 tấm đắp đã rơi xuống nền nhà, miệng anh há hốc, đôi mắt mở, chị rờ thấy người anh đã lạnh. Cho nên chị không rõ anh đi lúc nào. Tôi đoán có lẽ vào khoảng 3 giờ sáng ngày Chủ nhật 17-9-2017 nhằm ngày 27-7 năm Đinh Dậu. Anh sanh trên giấy tờ cha tôi khai là ngày 1-12-1929, nhưng trong nhà ai cũng biết anh tuổi Mậu Thìn tức năm 1928, như vậy anh thọ 90 tuổi.

Hôm sau, con gái chị đến cùng chị và tôi dùng Métro đi đến Institut Medico Legal nằm bên bờ sông Seine, để tôi được nhìn mặt anh tôi lần chót, vì ngày mai tôi phải trở về Mỹ, do tôi không thể chờ đợi lâu hơn, chị thì chưa biết ngày cử hành tang lễ.


Việp Pháp Y Paris (Institut Medical Legal) là nơi nhận tử thi các trường hợp như chết do tai nạn, do Cảnh sát mang tới, do thân nhân yêu cầu, do vô thừa nhận... Anh tôi mất tại nhà, báo cho Cảnh sát, nên Cảnh sát đưa vào đây. Sau khi bác sĩ Pháp y khám nghiệm, phải có lệnh của tòa án mới được chôn cất.

Tại đây, người nhà phải hoàn tất thủ tục ký giấy tờ ở văn phòng, sau đó họ đưa chúng tôi vào một gian phòng rộng dài chừng 8 thước, ngang 4 thước, chung quanh đặt ghế ngồi, ở giữa để trống, sau khi chúng tôi an vị, một nữ nhân viên ăn mặc lịch sự ra chào chúng tôi và cho biết thi thể anh tôi đặt trong phòng bên cạnh, phòng đó chia làm 2 phần, ngăn cách chỉ là bức tường cao 1 thước, thi thể anh tôi đặt bên kia, chúng tôi đứng bên nầy nhìn sang, yêu cầu không được sờ mó tử thi, không được chụp ảnh, thi thể được phủ kín, chỉ trừ từ cần cổ lên đầu, để thân nhân nhìn mặt. Việc khám nghiệm tử thi đã hoàn tất ngày hôm qua - Thứ Năm 21-9-2017 - Tuần sau có thể có giấy phép cho tiến hành chôn cất.


Sau khi đã phổ biến, cô nhân viên hướng dẫn chúng tôi sang phòng bên cạnh, thi thể anh tôi được đặt sát bức tường ngăn, được đấp kín bằng tấm drap trắng, trừ từ cần cổ trở lên.

Tôi nhìn thấy anh tôi như đang nằm ngủ, không khác những ngày anh nằm ở bệnh viện Charles Foix, nhưng da mặt có sắc hơi xám chớ không hồng hào.

Nhìn xong tôi định bước ra, nhưng con gái chị dâu tôi bảo hãy nhìn cho kỷ đi, tôi quay lại đứng nhìn, nghĩ rằng sẽ không bao giờ còn gặp lại, tự nhiên xúc cảm dâng tràn, lệ tôi tự nhiên đỗ, tôi đứng thêm chừng 2 phút, nói lời cám ơn cô nhân viên, rồi bước ra.

Rồi chúng tôi đi về, sau đó con gái chị dâu tôi lấy xe đưa đi tới chùa Linh Sơn, nơi chị dâu làm lễ cầu siêu cho anh tôi. 5 năm trước, anh Đỗ Văn Bình đã đưa tôi đến viếng chùa nầy, vì đó là Học viện của Phật Giáo Châu Âu, anh có dạy hội họa ở đó.


Hòa Thượng Huyền Vi đã xây dựng nên chùa nầy từ năm 2000. Vào thập niên 1950, Đại đức Thích Thanh Từ và Huyền Vi trong Đoàn Sứ giả Như Lai đã đi khắp miền Tây thuyết pháp. Năm 1961, Hòa Thượng Huyền Vi du học ở Đại học Na-Lan-Đà Ấn Độ, ngài lấy bằng Tiến sĩ Phật học rồi về nước. Sau biến cố 1975, ngài ra nước ngoài và định cư ở Pháp. Năm 2001, Hòa Thượng Huyền Vi lâm trọng bệnh một thời gian rồi viên tịch năm 2005. Nhưng vị Tăng Việt Nam đầu tiên hoằng pháp ở Pháp đó là Đại Đức Thích Chân Thường, người Bắc, ngài tu ở Lào sang Pháp truyền đạo.

Nơi đây, trong phòng nhỏ, thiết trí tượng đức Địa Tạng Vương, một bàn thờ vong có linh vị của anh tôi đặt tại đó.


Rời khỏi chùa, chúng tôi đến cơ sở chuyên lo việc tống tang, chị tôi đã đặt áo quan, bình đựng tro cốt và vài thứ để tẩn liệm.


Sau đó, chị tôi ra cửa hàng Tang Frères, khu chợ Á Đông ở quận 13, để mua trái cây, chuẩn bị cho ngày Chủ nhật đến chùa cúng vong.

Chợ Tang Freres trên đường Ivry

Sáng hôm sau, như đã hẹn, lúc 7 giờ anh Phan Khanh đến đón tôi đưa ra phi trường, lần trước anh không lấy tiền, lần nầy tôi buộc anh phải lấy cho tôi vui, tôi đưa cho anh 100 Euros, anh chỉ lấy phân nữa.

Anh Phan Khanh và tôi

Tôi cũng không thể ngờ ở cổng 2E, có rất đông hành khách, có đến 5, 7 ngàn người cũng xếp hàng zigzag để đi qua hải quan, cũng mất gần 2 giờ tôi mới lên đến Gate 41F.


Khi tôi xếp hàng để lên phi cơ, anh Đỗ Văn Bình gọi tới, tôi cho anh biết tôi đang xếp hàng lên phi cơ về Mỹ, anh cho biết sẽ dự tang lễ anh tôi. Do đó, tôi cho con gái chị dâu tôi số điện thoại của anh, để báo cho anh ngày giờ và địa điểm cử hành tang lễ. 


Anh đã vì tôi, ngày 2-10-2017, đến dự tang lễ anh tôi, tụng kinh và chụp ảnh, nhờ đó tôi có những tấm ảnh lễ tang nầy, tôi rất biết ơn anh Đỗ Văn Bình.

Anh Đỗ Văn Bình ngồi bên tay trái

Ở Pháp phương tiện công cộng khá tiện lợi, nhưng phải biết cách sử dụng. Năm 2012 sang Paris, tôi đã một lần đi xe Bus từ Gentilly đến Place d’Itay để đến nhà hàng Phú Đô trên đường Choisy do vợ chồng Bs Tường mời ăn tối.

Tháng 7 năm nay sang Paris, đi đâu cũng có người hướng dẫn, lần nầy tôi phải tự lo liệu đi RER, Tramway, Autobus, nhưng phải thú thật nhận rằng tôi vẫn chưa rành cho lắm. 

 Tramway tại Porte de Choisy

Trở lại Paris lần nầy ngoài dự tính, chỉ chuẩn bị có vài giờ trước khi lên đường, tôi đã chủ quan không nghĩ đến trường hợp không vào được nhà anh tôi, phải có khách sạn để dừng chân, mặc dù tôi biết ở gần trạm Gentilly có khách sạn. Nhưng nếu ở nhà lên mạng tìm khách sạn trước, có rất nhiều khách sạn từ 2 sao trở lên ở khu vực quận 13.

Về nhà, xem lại bảng chỉ dẫn các tuyến đường RER, tại nhà ga Massy-Palaiseau có tuyến xe chạy qua Ivry Sur Seine và tuyến nầy chạy tới cung điện Versaille. Tôi không biết nên đã di vòng vo, mất nhiều thì giờ. 

Từ việc sử dụng phương tiện giao thông, cho đến chổ nghỉ, đều là bài học để đời, khi tôi trở lại Paris thủ đô ánh sáng lần thứ ba.

8664311017



Tuesday, October 17, 2017

Thầy tôi 3



Tốt nghiệp Tú Tài Kỹ thuật toàn phần, tôi lên Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật và theo học tại Đại Học Vạn Hạnh, có thêm một số giáo sư khác là Thầy tôi.

Theo học Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ thuật, tôi có học lại với thầy Phạm Văn Rao, Vũ Mộng Hà, Trần Thế Can, các Thầy đã dạy tôi năm Đệ nhất ở Trường Kỹ thuật Cao Thắng.

Ông Trần Lưu Cung, Giám Đốc Nha Kỹ thuật Học vụ kiêm Giám Đốc Trường Bách Khoa Trung Cấp, kiêm Giám Đốc Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, Ban nầy được thành lập năm 1962, để đào tạo Giáo sư chuyên nghiệt Đệ nhị và Đệ nhứt cấp.

Ông Trần Lưu Cung, nghe nói ông là kỷ sư viễn thông, về nước vào thập niên 1950, do chủ trương ưu đãi nhân tài của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, thời đó  có Nguyễn Được về nước được làm Giám Đốc Nha Kỹ Thuật Học Vụ, Trần Lưu Cung làm Phó Giám Đốc. Sau cách mạng 1963, Nguyễn Được làm Bộ Trưởng Giáo Dục trong chánh phủ Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Lưu Cung lên làm Giám Đốc từ đó.

Trần Lưu Cung có tài ăn nói, ông nói chuyện lưu loát. Ông có dạy chúng tôi Toán về Số Ảo. Về sau, ông Trần Lưu Cung làm Thứ trưởng Giáo dục, chánh phủ đó đỗ, ông mất chức đi làm chuyên viên Unessco ở Cote d’Ivoire, sau cùng ông nghỉ hưu an hưởng tuổi già ở Virginia.



Ông Trần Lưu Cung


Thầy Nguyễn Minh Hoàng, sau khi tốt nghiệp KT Cao Thắng được học bổng đi du học Hoa Kỳ, Thầy có bằng Master về dạy thực hành cho sinh viên Cao Đẳng Sư Phạm ở xưởng Kỹ nghệ gỗ, lúc Thầy mới về nước, vẫn ở chung với cha mẹ trong chung cư ở gần Nhà Thờ Ba Chuông, Phú Nhuận, thầy thường gọi tôi tới nhà chơi, gặp bữa ăn cơm với gia đình Thầy, có khi Thầy đưa đi thăm ông Trần Quang Diệu, Bộ trưởng Y tế, có nhà ở làng Đại học Thủ Đức. 

Thầy Trần Minh Hoàng

Có lúc Thầy giữ chức vụ như là Quản Đốc Trường Đại Học Y Dược ở Chợ Lớn, Thầy có gọi tôi về làm việc với Thầy, tôi từ chối vì không thích hợp với nhành nghề mình đã chọn.

Sau khi Thầy về Nha Kỹ thuật làm Phó Giám Đốc, Thầy lại gọi tôi về làm việc với Thầy, điều hành một cơ sở cung cấp thiết bị, nhiên liệu cho các Trường kỹ thuật, tôi từ chối vì cơ quan đó nằm trong Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ thuật. Cuối cùng năm 1973, Thầy gọi tôi đi làm Hiệu trưởng Trường Kỹ thuật Gia Định, tôi cũng từ chối vì nơi đó là An Phú Đông, không được an ninh.

Năm đầu chúng tôi học Kỹ nghệ họa với thầy Trần Thế Can, năm sau chúng tôi học với thầy Nguyễn Năng Cường, cả 2 thầy đều là Kỷ sư Công nghệ, đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ về Kỹ nghệ họa rồi trở về phục vụ ở Ban Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ thuật, thầy Can có vẻ nghiêm khắc trong khi thầy Cường dễ dãi, cởi mở hơn.

Học ở xưởng Máy Dụng Cụ với thầy Giáp, thầy rất dễ dãi với sinh viên, thầy lại mê đua ngựa, nên Thứ Bảy học với Thầy, khoảng 2, 3 giờ Thầy đã cho về, thay vì phải học tới 5 giờ, để thầy còn đi sang Trường đua Phú Thọ cạnh đó.

Chúng tôi có học Anh Văn với thầy Nguyễn Hoàng Trinh, thầy cũng đã tu nghiệp ở Hoa Kỳ. Thầy dạy tận tâm, nhưng về sau Thầy ra hoạt động chánh trị ở đơn vị Tây Ninh, nghe nói đó là quê của Thầy.

Thầy Tôn Thất Tiêu, dạy chúng tôi về Khoa học ứng dụng, đó là những bài học để tính toán về sức bền của vật liệu. Nó rất cần thiết trong chế tạo máy.

Trong 2 năm học Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, tôi chịu ảnh hưởng phần nào của thầy Trần Thế Can về cách chấm bài, giảng bài cho học sinh, phần nghiên cứu sưu tầm tài liệu tôi chịu ảnh hưởng nơi thầy Nguyễn Năng Cường. Tuy nhiên, mỗi người sau khi hấp thu, vẫn giữ đức tính riêng của mình, nhờ vậy mới có sắc thái riêng của mỗi cá nhân.

Trong thời gian theo học Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, tôi lại ghi danh học thêm ở Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn của Viện Đại Học Vạn Hạnh, tôi muốn nói một chút về Viện Đại Học nầy khi mới thành lập năm 1964 tại Sàigòn.

Thích Minh Châu (1918-2012)

Về tổ chức Viện có Thượng Tọa Thích Minh Châu, tiến sỹ văn học Pa-li, là Viện Trưởng, ông Hồ Hữu Tường, Cao học Toán ở Pháp, là Phó Viện Trưởng, ông Trần Quang Thuận nguyên là Đại Đức Trí Không, đệ tử Hòa Thượng Đôn Hậu, ông du học ở Anh Quốc, về nước lập gia đình với con gái cụ Tôn Thất Hối, nguyên Đại sứ VNCH tại Lào, ông Thuận là Tổng Thư Ký, trụ sở đặt tại chùa Pháp Hội.


Thượng Tọa Thích Thiên Ân, tiến sĩ văn chương Nhật, là khoa Trưởng Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn, trụ sở đặt tại chùa Xá Lợi. Viện Cao Đẳng Phật Học trước đó thành lập ở chùa Pháp Hội trở thành Phân Khoa Phật Học.

Thích Thiên Ân - Đoàn Văn An (1926-1980)

Học tại đây, tôi muốn nói tới trước nhất là thầy Nguyễn Khắc Kham, thầy dạy Cổ văn, nhừng bài như Lục súc tranh công, Trê cóc …theo tài liệu được biết Thầy sinh năm 1908 tại Hà Nội, năm 1934 lấy bằng Cử nhân Văn chương và Cử nhân Luật ở Paris, năm tôi học là niên khóa 1964-1965, niên khóa kế Thầy không còn dạy nữa, ông Châm Vũ Nguyễn Văn Tần, tác giả sách Lịch sử Nhật Bản, là Trưởng Phòng Học Vụ của Phân Khoa VH và KHNV cho biết Thầy Kham có vợ Nhật, nên hai ông bà về Nhật sống.

Ông bà Nguyễn Như Hùng, ông bà GS Lưu Khôn
Cô, Thầy Nguyễn Khắc Kham (1908-2007)

Người thầy kế là ông Hồ Hữu Tường, tác giả của Phi lạc sang Tàu, ông dạy môn Xã hội học, theo ông kể, năm 1945, ông kẹt ở Hà Nội, ẩn thân trên một căn gác xép nào đó đã sáng tác Phi lạc sang Tàu. Ông là người thông minh, con nhà nghèo, được người ta nuôi cho ăn học và du học ở Pháp, lấy bằng Cử nhân, trở về Việt Nam lại được trở sang Pháp học tiếp lấy bằng Cao học Toán. Năm đó, ông dạy thêm môn EOMIR, đây là chữ viết tắt tên môn học do ông phổ biến, là phương pháp học ít nhưng triễn khai ra hiểu được nhiều. Ông cũng nhờ Trần Mộng Nam dạy một lớp Hán Văn vở lòng, lớp học miễn phí ở tại chùa Ấn Quang.

Hồ Hữu Tường (1910-1980)

Ông Hồ Hữu Tường thuộc nhóm Đệ tứ cộng sản, ông không bị thủ tiêu như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Sau ông bị bắt ở Chánh Hưng trong cơ quan của Bình Xuyên, bị chánh phủ Ngô Đình Diệm đày ra Côn Đảo. Sau cách mạng 1963, ông được thả ra, về sau ứng cử làm Dân Biểu của Quốc Hội VNCH, nên sau 1975 bị đi cải tạo. Tại Trại Hàm Tân ông bị viêm gan, được tha về để điều trị, nhưng ông đã trút hơi thở cuối cùng lúc 5 giờ chiều ngày 26-6-1980, khi xe chở ông về gần tới nhà ở đường Trần Quang Khải, Sàigòn. Ông thọ 71 tuổi.

Người thầy kế là Giáo sư Nghiêm Thẩm. Sau khi tốt nghiệp Trung học ở Hà Nội, ông được gửi sang Pháp, học trường École du Louvre, Paris, ngành bảo tàng (de Muséologie). Về nước năm 1956. Đến năm 1961, ông được mời làm giáo sư ngành nhân chủng học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn và Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định.

Năm 1964, ông được mời làm Giám đốc Viện Khảo cổ Sài Gòn và giáo sư tại Đại học Vạn Hạnh. ông dạy chúng tôi về Thẩm mỹ học.

Năm 1968, ông làm Quản thủ Viện Bảo tàng Sài Gòn.

Sau 30 tháng 4 năm 1975, Gs. Nghiêm Thẩm ở lại và tiếp tục là nhân viên giảng huấn như trước. Ông bị cướp sát hại tại nhà vào tháng 11 năm 1979. Ông là một nhà khoa học chân chính.

Nghiêm Thẩm (1920-1979)

Mấy năm trước, học ở Đệ nhị cấp, giáo sư Nguyễn Văn Kiết dạy chúng tôi môn Pháp văn, nay ông dạy chúng tôi bộ môn Triết học sử Tây Phương, chúng tôi bắt đầu làm quen với Socrates. Aristotle, Thales, Anaximenes …

Ông Mai Thọ Truyền, Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, ông là một công chức cao cấp đã nghỉ hưu. Năm 1950, ông cùng với ông Phạm Ngọc Đa, Nguyễn Văn Lượng, đứng ra thành lập Hội Thông Thiên Học Việt Nam. Cùng năm nầy, ông và một số Phật tử thành lập Hội Phật Học Nam Việt, trụ sở đặt tại chùa Khánh Hưng, Hoà Hưng, Thầy Quảng Minh làm Hội trưởng, ông giữ chức Tổng Thư ký. Năm 1964, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được thành lập tại chùa Xá Lợi, ông là Phó Viện Trưởng, vài tháng sau ông từ chức vì bất đồng quan điểm.

Chánh Trí - Mai Thọ Truyền (1905-1973)

Ông Mai Thọ Truyền dạy chúng tôi về Tôn giáo học, có lúc ông giữ chức Tổng Thư Ký Viện Đại Học Vạn Hạnh, ông có ra ứng cử Phó Tổng Thống với Liên danh Trần Văn Hương, sau ông giữ chức Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa, ông mất ngày 17-4-1973, thọ 69 tuổi.

Thượng tọa Thích Nhất Hạnh, du học từ Mỹ về, dạy chúng tôi môn Tôn giáo tỷ giảo. Mặc dù trước kia chúng tôi có thấy Thượng Tọa ở trong chùa Ấn Quang, nhưng cho đến lúc đó mới được học với Thượng Tọa, về sau Thượng Tọa làm Cố vấn cho Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên Vạn Hạnh, chúng tôi có đôi lần họp chung với Thượng Tọa, hoặc dự lễ xuống tóc cho một sinh viên xuất gia, mỗi cử chỉ hành động của Thượng Tọa nhẹ nhàng, thanh thoát của bậc chân tu.

 Thích Nhất Hạnh (1926-20  )

Ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần dạy chúng tôi về Triết Đông, nhờ ông Cần chúng tôi biết rằng những ngôi mộ nằm trong vườn Tao Đàn, là những ngôi mộ thuộc vùng đất của chùa Khải Tường xưa, là mộ gia tộc của ông Cần. 

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (1907-1998)

Tôi nhớ xưa trong Bảo Tàng Viện có tượng Phật Thích Ca bằng gỗ, đặt ngay trung tâm Viện Bảo Tàng, đó là tượng Phật chùa Khải Tường, trong đường Tân Hóa ở Phú Lâm có ngôi chùa Từ Ân, ngày nay còn giữ cái bảng của chùa Quốc Ân Khải Tường Tự.


Chúng tôi có học với thầy Phan Hồng Lạc, chẳng những thầy dạy từ mà còn dạy cả văn phạm chi, hồ, dã, giả.

Chúng tôi có học với Tiến sĩ Lê Thành Trị, ông dạy chúng tôi về triết gia René Descarte, cho đến nay vẫn còn tồn đọng trong tôi câu chữ La tinh: “Cogito ergo sum” dịch từ câu Pháp văn: “Je pense, donc je suis”, dịch ra Anh văn: “I think, therefore I am”.

Sau 1975, chừng khoảng vài ba năm sau, một hôm chạy xe trên đường Kỳ Đồng, tôi thấy Thầy ngồi dưới đất bên cạnh một người bán thuốc lá, cạnh bên Thầy là cái giỏ bàng. Tôi xót xa tự hỏi: “Một ông tiến sĩ triết, ngồi ở vĩa hè làm chi ? Thầy tìm mua sách cũ, hay bán sách để mua gạo sống thời buổi củi quế gạo châu !” Gần đây tôi đọc bài, có người viết về triết gia Trần Đức Thảo ở chung cư Hà Nội, có hôm chạy xe đạp đi mua cũi về nấu ăn, cột bó cũi ở cái porte-bagares phía sau, về gần tới nhà, có người phát hiện không còn khúc cũi nào cả!

Những người học Triết ở Pháp như thầy Nguyễn Văn Kiết, Lê Thành Trị đều có mốt ăn mặc quần áo trắng, đi giày sandal, mang vớ.

Tôi có học Sử với giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, sau đó ông bị chánh phủ bắt. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1965, bị tướng Nguyễn Chánh Thi tống xuất ra Bắc tại cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải, cùng với Bác sĩ Phạm Văn Huyến, thân phụ của Luật sư Phạm Thị Thanh Vân tức là bà Ngô Bá Thành và nhà báo Phi Bằng tức Cao Minh Chiếm.

Tôn Thất Dương Kỵ (1914-1987)

Tôi bị gián đoạn việc học hành một thời gian vì ra trường năm 1966, đi dạy học ở Banmêthuột, rồi nhập ngũ theo khóa 27 Sĩ Quan Thủ Đức, cho đến năm 1970, tôi mới được thuyên chuyển về Sàigòn và tiếp tục học lại ở Đại học Vạn Hạnh, trường đã dời về 222 Trương Minh Giảng, Quận 3 Sàigòn.

Tôi đà học Triết Đông với giáo sư Nguyễn Đăng Thục, chúng tôi học nhiều năm với giáo sư, anh em bảo nhau với cụ Thục, chúng ta chỉ cần nhớ tới “Vạn vật đồng nhứt thể”, thầy là tác giả của bộ Triết học Đông Phương gồm có 5 tập, Tư tưởng Việt NamThiền học Việt Nam là sách gối đầu giường của chúng tôi.

Nguyễn Đăng Thục (1909-1999)

Năm 1999, tôi sang San Jose California, vào chùa Đức Viên, tôi thấy có tờ báo ai đó vứt bỏ trong sân chùa, có đăng tin giáo sư Nguyễn Đăng Thục đã từ trần ở Sàigòn, Việt Nam, hưởng thọ 91 tuổi.

Sau khi Thượng Tọa Thích Thiên Ân sang Mỹ dạy học trong chương trình trao đổi giáo sư, cụ Nguyễn Đăng Thục giữ chức khoa trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân Văn của Đại học Vạn Hạnh.

Về Triết Tây, chúng tôi học với giáo sư Lê Tôn Nghiêm (1926-    ), ông nguyên là Linh mục, ông dạy chúng tôi về Lịch sử Triết học Tây phương, là một giáo sư học rộng, hiểu sâu, dạy cho sinh viên dễ tiếp thu môn học khô khan nầy.

Tôi có học với Tiến sĩ Trần Cửu Chấn, ông dạy chúng tôi về Văn chương Việt Nam, giáo sư Chấn tốt nghiệp Tiến sĩ Văn chương Pháp.

Chúng tôi có học với giáo sư Bửu Cầm, ông dạy chúng tôi về tác phẩm Ngọa Long Cương của Đào Duy Từ, ông viết chữ Nôm, mỗi tuần học mấy câu, nhờ đó chúng tôi biết được thêm chút ít chữ Nôm.

Bửu Cầm (1920-2010)

Chúng tôi có học Hán Văn với giáo sư Nguyễn Hoạt, giỏi Hán Văn, có bằng Tú Tài Pháp, ông dạy chúng tôi về Quân Trung Từ Mệnh Tập. Nguyễn Hoạt bút hiệu Hiếu Chân, sinh ngày 4 tháng 5 năm 1919 tại Hà Nội. Ký giả, nhà văn, biên tập viên Nhật báo Tự Do, Sàigòn. Năm 1984, ông bị bắt và mất trong Phòng 11, khu ED khám Chí Hòa, Sàigòn ngày 6 tháng 3 năm 1986.  Nguyễn Hoạt hoạt động chánh trị thuộc Quốc Dân Đảng.

Hiếu Chân - Nguyễn Hoạt (1919-1086)

Chúng tôi có học với giáo sư Trần Đức Rật về Hán Văn, tư gia của giáo sư nằm trên đường Công Lý, gần chùa Vĩnh Nghiêm, trong nhà có máy in nhỏ, lâu ngày tôi đã quên nhà in ấy tên chi.

Chúng tôi cũng có học với giáo sư Huỳnh Minh Đức về Hán Văn, hình như giáo sư Đức là trẻ nhất trong số các giáo sư dạy Hán văn cho chúng tôi.

Gs Huỳnh Minh Đức

Chúng tôi học Bạch thoại với giáo sư Trần Trọng San, ông sinh ngày 29 tháng 10 năm 1930 tại Hà Nam. Mất ngày 17 tháng 8 năm 1998 tại Toronto, Canada. Ông có tác phẩm Việt Văn Độc BảnThơ Đường làm nên tên tuổi, vì quyển sách đầu dùng học trong chương trình thi Tú Tài 1, còn tập Thơ Đường trích dẫn nhiều bài thơ hay. Giáo sư San dạy chúng tôi dịch những bản văn Bạch Thoại ra Việt ngữ.

Chúng tôi có học Đàm Thoại với giáo sư Khưu Thị Huệ, chồng của bà là Hiệu Trưởng Trường Thái Bình Dương ở Singapour. Giáo sư Huệ dạy ngày nay tôi còn nhớ: Xè xè nị: Cám ơn anh (chị). Tố xạo xẻn ? Bao nhiêu tiền ? Lớp học của giáo sư Huệ khá vui và rất linh động.

Chúng tôi có học với giáo sư Nguyễn Sung về môn Ngữ Học, sau năm 1963 Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất có xuất bản 2 tờ nhật báo, giáo sư Nguyễn Sung là chủ nhiệm của một trong hai tờ báo nầy.

Gs Nguyễn Sung

Chúng tôi có học với giáo sư Nguyễn Quốc Thắng, ông dạy chúng tôi về Thi ca Việt Nam, giáo sư Thắng lúc đó còn trẻ, người gầy ốm, thuộc nhiều thơ của các thi sĩ đương thời, hình như lúc đó giáo sư cũng dạy ở Đại học Cần Thơ.

Giáo sư Kim, tôi rất tiếc đã quên họ của giáo sư, thân phụ của giáo sư trước kia làm ở Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Thái Lan, giáo sư du học ở Đài Loan, sau khi tốt nghiệp Sư Phạm bậc Cao Trung, giáo sư sang Mỹ lấy bằng Master về Văn chương, rồi trở về Việt Nam dạy học. Giáo sư Kim dạy về môn Văn chương Anh Mỹ, trích dẫn thơ của các thi sĩ Mỹ dạy chúng tôi. Gặp chúng tôi ở ngoài đường giáo sư thích nói tiếng Anh. Nghe đâu sau 1975, nhà cầm quyền cấm người Việt giao thiệp với người nước ngoài, nhưng giáo sư lại trò chuyện với người Mỹ, nên bị công anh Quận 10 mời về trụ sở làm việc.

Gs Kim

Chúng tôi có học với giáo sư Vũ Khắc Khoan, ông có học y khoa, nhưng về sau chuyển trường, tốt nghiệp kỷ sư canh nông, là giáo sư dạy về môn Phê bình văn học, ông có nghệ sĩ tính hơn là nhà mô phạm. Ông có tác phẩm Thần Tháp Rùa, Ngộ nhận và những vở kịch, để lại tên tuổi trên văn đàn Việt Nam.

Vũ Khắc Khoan (1917-1986)

Chúng tôi có học với giáo sư Nguyễn Sỹ Tế, ông tốt nghiệp Luật khoa Hà Nội, vào Nam từng làm phụ giảng cho giáo sư Vũ Văn Mẫu ở Luật khoa Đại học đường Sàigòn. Ông làm Hiệu Trưởng Trung học Tư thục Trường Sơn, ở góc đường ồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, từ năm 1958. Vào thập niên 1960, trường nầy danh tiếng về luyện thi Tú Tài với những giáo sư Cù An Hưng, Vũ Mộng Hà …Giáo sư Nguyễn Sỹ Tế, đúng là nhà mô phạm, khi đi dạy, ông soạn bài và giảng bài rất cẩn thận. Ông bị ở tù cộng sản trong 11 năm từ 1976-1987.

Nguyễn Sỹ Tế (1922-2005)

Chúng tôi có học với giáo sư Doãn Quốc Sỹ, ông là nhà văn nổi tiếng vào đầu thập niên 1960 với tác phẩm Dòng Sông Định Mệnh, ông có du học ở Mỹ về ngành giáo dục, về nước ông dạy ở Đại học Văn khoa Sàigòn, Đại học Vạn Hạnh. Ông dạy chúng tôi về môn Văn học Việt Nam. Ông cũng bị tù cộng sản trong 14 năm thuộc danh sách “Biệt kích văn hóa”. Sau khi ra tù, ông được di cư sang Hoa Kỳ từ năm 1995, định cư ở Houston, Texas.

Doãn Quốc Sỹ (1923-    )

Chúng tôi có học với giáo sư Thuần Phong Ngô Văn Phát, ông sinh tại Bạc Liêu, mất tại Sàigòn, ông là nhà văn, còn có bút hiệu là Tố Phang, ông dạy chúng tôi về Văn chương Bình Dân Việt Nam, ông có bằng Cán sự Điền Địa, làm Trưởng phòng Họa Đồ của Tòa Đô Chánh Sàigòn. Trước 1975, ông là người đặt tênn ầu hết các đường ở thành phố Sàigòn, sau khi Pháp trao trả độc lập cho miền Nam năm 1954. Ông là tác giả Ca dao giảng luận, Chinh phụ ngâm khúc giảng luận ….

Thuần Phong - Ngô Văn Phát (1910-1983)

Chúng tôi có học với Kiến Trúc Sư Nguyễn Hữu Vinh, ông dạy chúng tôi về kiến trúc Phật Giáo, nhờ đó chúng tôi biết được những đặc điểm của Mỹ thuật Phật Giáo Việt Nam.

KTS Nguyễn Hữu Vinh

Đó là những vị Thầy của tôi từ lớp vở lòng cho đến Đại Học, chắc còn một số giáo sư Trung học đã bị thiếu sót trong bài nầy, cũng như vài vị giáo sư Đại học. Nhờ có Thầy, Cô tôi mới có kiến thức, tay nghề để mưu sinh.

Ngày nay, ở Việt Nam có ngày nhà giáo 20-11 mỗi năm, để học trò có dịp bày tỏ sự biết ơn Thầy, Cô giáo. Còn ngày xưa phong tục ta có: Mồng một ngày cha, mồng hai ngày mẹ, mồng ba ngày Thầy. Cho nên chúng ta đã thành danh hay thành nhân, luôn luôn phải nhớ ơn Thầy.

GS Ngô Văn Phát, Nguyễn Sung, Gs. Kim, Nguyễn Đăng Thục, Doãn Quốc Sỹ, Huỳnh Minh Đức
Hàng đứng Hh Ái Tông, Lý Trường Quang, Bùi Văn Sớm, Nguyễn Văn Trung, ...Mai, .. Bích Vân, gia chủ thân phụ của Quang, KTS Vinh
(Ảnh năm 1973)

866427092017