Nguyễn
Trọng Quản
Nguyễn
Trọng Quản (1865-1911)
Nhà văn Nguyễn Trọng Quản
sinh năm 1865 tại Bà Rịa, gia đình ông theo đạo Thiên chúa giáo, nên ông có tên
thánh rửa tội là Jean-Baptiste và tên thánh thêm sức là Pétrus, do đó viết cho
đầy đủ là Pétrus Jean-Baptiste Nguyễn Trọng Quản hay viết tắt P.J.B. Nguyễn Trọng
Quản, thời niên thiếu ông học ở trường Khải Tường, sau đổi tên là Trường
Chasseloup-Laubat, nay là Trung học phô thông Lê Quý Đôn, Quận 3, Sàigòn.
Năm 1880, Nguyễn Trọng
Quản cùng với Diệp Văn Cương là 2 trong số 10 học sinh Việt Nam, được Trương
Minh Ký theo
lệnh của Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Villers, đưa sang du học tại trường Trung học phổ thông Alger (Lycée d’Alger) thuộc
nước Algégie, thuộc địa của Pháp từ trước năm 1960.
Sau khi tốt nghiệp về
nước, Nguyễn Trọng Quản dạy học rồi làm Hiệu trưởng trường Trung học cơ sở
Adran (Collège d’ Adran) tại Sàigòn từ năm 1890 đến năm 1902.
Là môn sinh, ông được kết
hôn với Trương Thị Tự là con gái của học giả Trương Vĩnh Ký.
Năm 1886, sống tại
Khánh Hội, Nguyễn Trọng Quản sáng tác quyển Truyện Thầy Lazaro Phiền, gồm có 10
đoạn, sách dày 32 trang, thuật lại câu chuyện của một người ở Bà Rịa, từ nhỏ đi
học ở Sàigòn rồi lập gia đình, đi làm thông ngôn, lầm mưu kế của một người đàn bà, ông
ta hại bạn chết và đầu độc vợ mình chết, sau đó, ông ta hối hận vì giết bạn
cùng vợ nên thôi việc về nhà thờ Tân Định tu trong 10 năm, nhưng cứ bị ám ảnh bỏi
tội lỗi của mình nên sanh bệnh rồi trở về nhà thờ họ đạo Bà Rịa chết, tác giả
cũng là người Ba Rịa, nhân chuyến tàu Jean Depuis đi từ bến Nhà Rồng Sàigòn ra
Bà Rịa, được nghe câu chuyện do bạn đồng hành, Thầy tu Lazaro Phiền thuật lại,
nên ghi chép thành truyện.
Năm 1887, Truyện Thầy
Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản do nhà in J. Linage trên đường Catinat, sau
là Tự Do, nay là Đồng Khởi ấn hành, sách gồm 32 trang khổ 12X19 cm, nội dung có
28 trang, phần còn lại là tựa sách, Tựa, lời ghi tặng Diệp Văn Cương và các bạn
cùng học ở Lycée d’Alger và tựa sách khác đang in. Năm 1910, sách này được nhà
xuất bản Joseph Viết tái bản lần thứ ba.
Ngoài việc dạy học, sáng
tác, Nguyễn Trọng Quản còn là họa sĩ, vẽ hình minh họa cho tác phẩm Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân của
Trương Duy Toản do F.H. Schneider, Sàigòn, xuất bản năm 1910.
Nguyễn Trọng Quản mất năm
1911, tại Sàigòn, hưởng thọ 46 tuổi.
Tác phẩm:
-
Truyện Thầy Lazaro Phiền (tiểu thuyết, J. Linage, 1887)
- Truyện bốn anh tài Chà - và cùng truyện tầm phào chẳng nên đọc
- Kim vọng phu truyện
- Notice sur les fonderies de cuivre à Chợ Quán.
- Truyện bốn anh tài Chà - và cùng truyện tầm phào chẳng nên đọc
- Kim vọng phu truyện
- Notice sur les fonderies de cuivre à Chợ Quán.
Trích văn:
Truyện
Thầy Lazaro Phiền
À
Diệp Văn Cương
À
mes amis et à mes anciens camarades Annamites du Lycée d’Alger.
Vous
rappelez-vous encore, chers amis, ces charmantes soirées de vacances, où libres
pour une heures, nous nous promenions dans les allées, à demi éclairées par la
lune, du jardin Marengo?
Vous
rappelez-vous encore, que dans ces mêmes allées, la cigarette prohibée aux
lèvres, nous allions rêvant tout haut pour nôtre chère Cochinchine, un avenir
brilliant de lumière de progrès et de civilisation?
Eh
bien! Chers amis! Puisse le modeste ouvrage que je vous dédie, être un
commencement de la réalisation de ces rêves d’autrefois.
Mais,
si contre mon espérance, il n’atteint pas ce but, acceptez-le toujours en
témoignage de la vive amitié de votre ancient compagnon de l’exil volontaire.
P.J-B. Nguyễn Trọng Quản
Tựa
“Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị: học chỉ như ngu thí vị hiền”
Ấy là lời đúng hiền nhơn ta đã nói thuở xưa; có lời khác rằng:
“Dẫu học thế nào thì tôi cũng biết có một điều này mà thôi: là tôi chẳng biết gì hết” Ấy là tiếng một đứng trong bảy đứng khôn ngoan nước Greco đã xưng ra đời trước.
Bởi vậy, lấy đó làm gốc, cùng xem lại tài trí tôi là như tro bụi, khi sánh với nhiều kẻ đời ta, thì tôi chẳng có ý làm sách này cho đặng khoe tài hay khoe trí; tôi có một ý dụng lấy tiếng thường mọi người hằng nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ra ít nhiều truyện hay; trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho các dân các xứ biết rằng: người Annam sánh trí sánh tài thì cũng chẳng thua ai!
Đã biết rằng: xưa nay dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện nói về những đứng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả dời đá; mà những đứng ấy thuộc về đời xưa chớ đời này chẳng còn nữa. Bởi đó tôi mới dám bày đặt một truyện đời nầy là sự thường có trước mắt ta luôn, như vậy thì sẽ có nhiều người sẽ lấy lòng vui mà đọc; kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải phiền một giây.
Vậy nếu truyện tôi in ra đây, làm cho đẹp lòng mọi người
đặng, thì tôi lấy làm có phước lắm, mà ai có thấy sự gì chẳng đẹp ý ai, thì tôi
xin cho tôi biết mà thú tội cùng sửa mình lại, thì tôi sẽ cám ơn vô cùng.
Khánh Hội, le 1er décember 1886
P.J.-B. Nguyễn Trọng Quản
Ai xuống Bà-rịa, mà có đi ngang qua đất thánh ở trong Cát tại
làng Phước-lễ, thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá
bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng, gắn một bên nhà thờ những kẻ Tử-đạo ([1]) mà
thăm mồ ấy kẻo tội nghiệp! Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng không ai màng
ngó tới.
Mồ
đó là mồ một thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm, bây giờ mới đặng
nằm yên nơi ấy.
Tôi
xin phép thuật lại truyện tôi đã gặp thầy ấy và làm sao thầy ấy đã tỏ chuyện
mình ra cùng tôi, như sau nầy:
I
Đồng hồ nhà thờ nhà nước vừa đánh
tám giờ tối, đồ tôi đã đem xuống tàu mà đi Bà-rịa rồi.
Chiếc Jean-Dupuis định mười giờ mới
chạy, nên còn hai giờ chẳng biết làm đí gì? Muốn lên bờ đi dạo một hai vòng xem
phố xá thành Saigon chơi, mà trong mình có ý mệt cho nên không lên, vậy mới
tính lên sàn tàu coi có cái ghế nào không mà nằm nghỉ cùng xem trăng chơi, vì
ngày ấy là nhằm ngày rằm tháng chạp annam là 12 janvier 1884.
Lên đến sàn thấy trăng thanh gió mát
thì tôi lại đứng nơi be tàu mà hứng gió. Đứng đó lòng buồn một ít vì phải xa
cách cửa nhà vợ con hơn tám bữa, cho nên dầu mà trên bờ đèn sáng như ngày, kẻ
qua người lại xe ngựa rầm rầm, nhà hàng dẫy đầy những kẻ vui chơi, tôi cũng
chẳng đem trí mà xem các sự ấy, cứ một xem phía sông bên Thủ-thiêm mà thôi; vì
phía đó chẳng chói sự sang trọng vui chơi, chẳng tỏ bày sự phàm xác thịt; nơi
ấy là nơi nghèo khổ làm ăn ban ngày; thong thả mà nghỉ ngơi ban đêm, nên còn
một hai chỗ còn đèn leo léc mà chỉ vài nhà chưa ngủ mà thôi.
Còn dưới sông mặt trăng giọi xuống
làm cho nước giọng ra như tấm lụa vàng có thả kim sa.
Xem các sự ấy thì lòng lại thêm
buồn, nên tôi muốn kiếm sự giải phiền nơi khác; song vừa giay mặt lại thì tôi
thấy một thầy tu đứng gần bên tôi và ngó xuống nước một cách rất buồn bực lắm.
Muốn làm quen cho có bạn vì dưới tàu
lạ mặt hết, tôi mới hỏi thầy ấy rằng: “Thầy đi xuống Bà-rịa hay là đi Vũng-tàu
?” Thầy ấy ngó tôi một chặp rồi mới nói rằng:
“Thầy hỏi tôi đi đâu làm chi ?” Khi
nghe tiếng thầy nói một cách rất buồn bực thảm não lắm, thì tôi ngó mà coi thầy
ấy cho tỏ tường; may đâu lúc đó trăng lại tỏ hơn, nên tôi đặng xem thầy ấy rõ
ràng: Thầy chừng ba mươi tám ba mươi chín tuổi, thấp người; giọng nói đao
thương ! Mặt mủi thì xanh xao mét ưởng, mình thì ốm o gầy mòn, lại cái áo dòng
người mặc nó bay phất phơ hai bên làm cho thầy ấy giống như hình con bù nhình,
để nơi đồng ruộng mà đuổi chim. Tôi mới trả lời rằng:
“Thưa bởi vì tôi biết cha sở Bà-rịa lắm,
nên tôi tưởng nếu thầy đi Bà-rịa thì làm sao nay mai tôi cũng gặp thầy.”
Thầy ấy mới trả lời rằng: “Tôi không
đi Bà-rịa, tôi đi dưỡng bịnh tại Vũng-tàu, vì tôi có bịnh tức đã hai năm nay;
song tôi tưởng đi cũng vô ích, vì tôi biết tôi không còn sống đặng hơn nửa
tháng nữa đâu.”
Tôi nghe lời ấy, thì tôi nói rằng:
“Xin thầy đừng nói làm vậy. Chúa lòng lành vô cùng người thường làm phép lạ
hoài, nên thầy đừng có ngã lòng nản chí, ít ngày đây thầy sẽ lành.”
Thầy tu ấy lắc đầu mà nói rằng:
“Thầy ôi! Phải thầy biết tội tôi thì thầy không muốn cho tôi sống làm chi…”
Nói chưa dức lời thầy lấy tay che
mặt mà khóc ròng.
Tôi thấy vậy mới nói cùng thầy rằng:
“Dầu mà tội thầy nặng thế nào thì Chúa cũng đã tha cho thầy rồi: vì thầy chịu
cực cũng đã đủ cho nên xin thầy chớ muốn chết làm chi, vì thầy còn thuộc về
những người phải dạy những kẻ chưa biết đạo Chúa; nên thầy phải sống mà đem
những kẻ ấy vào đàng ngay.”
Thầy tu nghe tôi nói như vậy mới cất
đầu lên chùi nước mắt mà nhìn tôi và hỏi chậm chậm rằng: “Thầy đã có đôi bạn
chưa?” Tôi thưa rằng: Đã có đặng sáu tháng nay thì thầy tu ấy lấy tay mà xô tôi
ra cùng nói lớn tiếng rằng:
“Vậy thì thầy phải xa tôi cho kiếp,
kẻo mà sự dữ xảy đến cho, tôi sẽ làm hại thầy chẳng sai đâu; tôi cũng có đôi
bạn như thầy vậy; song phận tôi vô phước! Vô phước lắm! thầy ôi!”
Nói rồi thầy ấy ôm mặt mình mà khóc
một lần nửa; song tôi cũng không ngã lòng, tôi nắm tay thầy mà nói rằng: “Tôi
thấy thầy buồn bực như vậy, thì tôi chắc thầy đã có chịu sự gì cực khổ lắm hay
là đã làm tội gì trọng, sự ấy tôi không muốn biết làm chi; song xin thầy đừng
phiền quá mà làm hại mình, nếu mà thầy có tội thì thầy phải sống mà đền tội ấy.
Nếu thầy không có tội, mà thầy phải chịu phiền về sự gì, thì cũng xin thầy phải
sống mà chịu cho đến cùng hầu ngày sau sẽ đặng phần thưởng trọng hơn.”
“Ôi thôi! Thầy đừng an ủi tôi làm
chi? Tội tôi đã lớn lắm, và sự cực tôi đã chịu thì đã gần quá sức tôi rồi.”
“Thầy ôi! Đã mười năm nay, tôi như
thể không còn trái tim nữa, trái tim tôi như thể đã biến hóa ra tro bụi rồi;
tôi như thể mất trí khôn vậy. Chớ chi thuở trước tôi đừng có: ôi thôi! Nói đến
chừng nào càng đau đớn lòng chừng nấy; bây giờ có một sự chết làm cho tôi quên
người đó mà thôi… Tôi có ý đi tu cho đặng trông cậy có lẽ đọc kinh cầu nguyện
thì sẽ quên người tôi đã đem hết lòng hết trí mà thương; song vô ích, thầy! Sự
tôi chịu cực mười năm nay thì đã đủ mà đền tội tôi rồi. Bây giờ tôi đặng chết
bằng an.”
Tôi nghe và thấy sự đau đớn như vậy
thì tôi làm thinh mà để cho thầy ấy khóc. Khi ấy mới nghĩ trong mình rằng: có
lẽ nào dưới thế gian nầy mà có sự gì dữ tợn đến đổi làm cho người ta chịu cực
đến mười năm mà chẳng nguôi! Mà thật khi ấy tôi đang còn có phước, còn đang lúc
sung túc, là vì tôi mới có vợ đặng ít tháng, còn chí thiết thương nhau nên tôi
không hiểu người ta chịu cực làm sao đặng? Tôi mới tưởng thầy tu ấy đau đớn
bịnh hoạn nên lãng trí mà nói vậy chăng? Muốn cho hẳn tôi mới ngó mà xem thầy
ấy cho rõ ràng đặng coi có làm sự gì tỏ ra như người điên chăng?
Tôi vừa ngó một chặp, thì tôi thấy
thầy ngấc mặt lên xem trời mà thở ra rằng: “A Chúa tôi! rất lòng lành vô cùng,
xin Chúa cho tôi về gặp mặt bạn tôi cho chóng, dẩu mà tội nó thể nào thì tôi
cũng quên, bởi vì có lời Chúa đã phán: “Tao tha lỗi cho bay, như bay tha kẻ có
lỗi cùng bay.”
Tôi thấy vậy mới nói rằng: “Điên!
Thầy nầy điên!” Thầy tu ấy nghe đặng mới nói cùng tôi rằng: “Thầy ôi! Thầy còn
trẻ chưa biết đủ việc đời: hay là còn đang lúc có phước, thầy chưa từng sự đau
đớn, nên thầy nói tôi điên, tôi không điên đâu thầy! Tôi còn trí khôn đủ, tôi xin
Chúa đừng cho thầy mắc sự tôi phải chịu, xin Chúa giản ra cho khỏi đầu thầy sự
dữ đã xảy đến cho tôi.”
Nói vừa dứt lời, thì đồng hồ vừa
đánh mười giờ, nên tàu thổi hơi cùng mở đổi mà chạy, làm cho tôi quên thầy tu
mà coi người ta sửa soạn lui tàu.
II
Khi tàu chạy rồi tôi ngó lại thì
thầy tu đã xuống phòng mình rồi. Còn lại một mình, tôi mới lại đứng sau lái tàu
mà xem lằn tàu chạy, cùng nghĩ tới các sự thầy tu đã nói; khi nghỉ làm vậy, thì
trong lòng muốn biết truyện thầy ấy. Vậy mới tính hỏi, xin thầy thuật truyện ấy
ra, song tôi e thầy có chối chăng? Thì tôi đang kiếm mà lo phương thế cách nào
làm cho thầy ấy tỏ sự mình ra. Song nghỉ đi nghỉ lại một hồi, lại bàn rằng:
chuyện người mà mình muốn biết làm chi, nên tôi lại cúi xuống mà xem bọt nước
vận sau lái tàu, trào lên như bạc sôi; lại một hai khi có yếng sáng trăng giọi
xuống thì bọt ấy hóa ra như bạc vàng lộn lại vậy; mà dẫu làm thể nào trí khôn
tôi nó cũng bắt tưởng đến truyện thầy tu luôn, nên tôi quyết lòng lần này xuống
xin thầy ấy thuật truyện mình ra.
Dầu vậy mặc lòng cũng còn lần lựa chưa muốn xuống mà hỏi. Vì đoán rằng: thầy
này đã nói với tôi rằng: “Xin Chúa hãy dang ra cho khỏi đầu thầy sự dữ đã đến
cho tôi”. Thì sự dữ ấy là quái gở lắm, cho nên có lẽ thầy tu sẽ chẳng nói ra
chăng? Tôi lần lựa như vậy, cho đến khi tàu đi qua khỏi Xóm-chiếu cho tới đồn
Cá-trê, tôi mới xuống phòng tôi.
May đâu sự cũng lạ. Ngày đó không có
đờn bà quá giang, nên tôi và thầy tu được một cái phòng có hai cái giường.
Đang khi đi xuống thì tôi tưởng thầy
ấy thức khuya mệt đã nghỉ rồi cho nên tôi lại gần phòng, sẽ lén khoát màn ra
nhẹ nhẹ kẻo thầy ấy giực mình thức dậy. Song tôi vừa bước chơn vô phòng thì tôi
thấy thầy ấy đang quì gối cúi mặt nơi giường mà đọc kinh cùng thầm thì những
lời tôi đã nghe nói trên sân khi nảy.
Tôi thấy vậy muốn lui ra cho thầy
đọc kinh kẻo lo ra, song tôi vừa bước ra thì thầy kêu tôi mà nói rằng: “Thầy!
Thầy lên giường mà ngủ đừng sợ sự gì, tôi đọc kinh rồi có lẽ tôi nghỉ một chốc
đây rồi; tôi sẽ thuật truyện tôi lại cho thầy nghe.”
Nghe nói vậy thì trong lòng tôi mầng
lắm, nên tôi lên giường mà nằm; khi ấy ông thầy cũng lên giường mình. Cách một
hồi thì tôi nghe tiếng thầy ấythở một cách như thể mệt lắm vậy, tôi cất đầu ngó
xuống và hỏi rằng: “Thầy mệt lắm hay sao? Trong mình thầy làm sao?”
Thầy ấy trả lời rằng: “Không hề gì
đâu, thầy đừng lo, trong mình tôi như thường.”
Vậy tôi mới nằm xuống; có ý thức đợi
thầy ấy nói truyện mình, song mắc mệt nên lần lần tôi ngủ quên không hay. Gần
nửa đêm khi dưới tàu thiên hạ ngủ hết, mọi nơi đều lẳng lặng, trừ ra tiếng máy
ầm ầm, như trống canh nhịp, thì tôi nghe kêu rằng: “Thầy ôi! Xuống ngồi gần bên
tôi, tôi sẽ nói truyện tôi cho thầy nghe.”
Khi tôi nghe kêu, tôi giựt mình và
run sợ cả và mình, vì tôi nghe như thể tiếng ấy bởi nơi mồ mà lên kêu tôi vậy.
Lại khi đó cửa sổ phòng tôi mở, nên gió khuya thổi vô, làm cho tôi lạnh lạnh,
thì lại càng run sợ hơn nữa.
Vậy tôi mới lấy mền trùm lại không
trả lời, rồi tôi nghe kêu một lần nữa.
Khi ấy tỉnh trí nhớ trực thầy tu nằm
dưới tôi, tôi mới xuống nhắc ghế lại ngồi gần bên giường thầy ấy.
Tôi vừa ngồi gần một bên, thì thầy
ấy nắm tay tôi, mà nói rằng:
“Thầy ôi! Tôi vô phước lắm, xin Chúa
tha tội cho tôi … Tôi là kẻ có tội.”
Nói bấy nhiêu lời thì chảy nước mắt
ròng ròng. Dầu mà tôi muốn biết truyện thầy ấy hết sức mặc lòng; khi tôi thấy
sự cực thầy ấy phải chịu mà thuật lại thì tôi nói rằng: “Thầy ôi! Nếu mà sự này
làm cực cho thầy thì xin thầy đừng nói ra làm chi.”
Thầy ấy trả lời rằng: “Không! Không!
Tôi không còn sống bao lâu nữa mà giấu tội tôi. Mười năm nay tôi đã giấu với
mọi người không ai hay đặng, tôi đã giả trá trước mặt người ta và trước mặt các
cha nơi trường tôi tu, làm cho ai nấy tưởng tôi là người nhơn đức, song hẳn
thật tôi là đứa tội lổi là ngần nào. Vậy tôi xin thầy hãy lặng tai mà nghe tôi,
vì đương khi nói mà tôi mệt, thì có khi phải nín mà lâu đi chăng?”
Nói rồi thì thầy ấy nhắm mắt lại,
cho đặng nhớ mọi sự trước sau cho đủ hầu sẽ thuật truyện lại cho cùng.
III
Cách một hồi thầy ấy mở mắt ra và
nói rằng:
“Xin thầy ghé tai lại mà nghe.
“Thầy ôi! Tôi là người Bà-rịa, quê
quán tôi ở tại Đất-đỏ. Ông già tôi là người có đạo dòng tử tế, vốn là người
Quảng-bình, mà vô ở Đất-đỏ đã lâu; còn bà già tôi là người Gia-định. Tôi sanh
ra là năm 1847 nhằm năm Tự-đức tức vị.
“Tôi là con thứ năm mà khi ấy tôi
còn có một mình, vì mấy người trước đã chết khi còn nhỏ?
“Khi ấy đạo ta phải chịu nhiều đều
khốn cực lắm, vì chỉ vua dạy bắt những kẻ có đạo cho nhặt, cho nên kẻ ngoại
kiếm thế mà làm hại cho những kẻ ấy luôn.
“Vậy khi tôi đã nên ba tuổi thì tôi
đã biết chịu cực khổ rồi. Khi ấy bà già tôi được bốn mươi tuổi rồi mắc dịch tả
năm 1850 mà chết để tôi lại với ông già tôi một mình, khi ấy ông già tôi hơn
bốn mươi sáu tuổi, mà bà con không còn ai cả, cho nên khi cha tôi đi đâu thì
tôi cũng đi theo luôn: như khi cha tôi đến nhà nào có cha làm lễ, thì tôi cũng
đi theo. Khi kẻ ngoại hay được, có kẻ đạo hiệp nhau lại, thì báo với quan đến
bắt. Nên ai nấy đều kiếm phương mà ẩn mình, cho khỏi chúng nó bắt: nên nhiều
lần cha tôi phải đem tôi lên rừng mà trốn cho đến ba ngày mới về được, thì
trong ba ngày ấy phải ăn những trái cây và rể cây cho khỏi chết đói mà thôi.
“Từ khi tôi mới sanh ra cho đến hai
mươi tuổi, thì tôi thấy những sự bắt bớ kẻ có đạo luôn. Lại ông già tôi là trùm
họ nên lại càng phải sợ hơn nữa. Ngày chúa nhựt mà muốn xem lễ cho được, thì
phải chịu nhiều đều rất cam khổ là quá chừng. Ông cha ở nơi Đất-đỏ thì phải
trốn lánh luôn. Khi thì làm lễ nhà này khi làm lễ nhà kia; có khi kẻ ngoại hay
đặng thì lại phải đi xa cách vài ba làng; cho nên bổn đạo phải chịu muôn vàn sự
khốn khó mới tìm đặng cha sở mình.”
Tới đây thầy ấy nín một hồi mà nghỉ
cùng nhớ các sự cho đặng tiếp theo truyện mới nói.
Tôi thấy thầy ấy gác tay trên trán
cùng nhắm mắt lại dường như muốn đọc truyện mình ở trong trí khôn, như một
người kia đọc trong một cuốn sách đang khi rồi sẽ thuật truyện lại, cho nên tôi
làm thinh.
IV
Vậy tôi mới nghĩ rằng: người này từ
thuở nên ba mà đã biết sự cực khổ ra thể nào, đã biết chịu đói chịu khát, chịu
mệt chịu nhọc, chịu trốn lánh vào nơi thú dữ, cọp hùm tây voi ở, đã từng trải
sự hiểm nghèo, đã quên sự sung sướng, nên bây giờ lòng đã cứng hơn gan sắt
chẳng còn chỗ nào mà sự cực nhọc thấu vào đặng, mà đã than rằng:
“Sự cực tôi chịu đã quá trí tôi
rồi”; thì sự cực ấy là độc dữ là thể nào? Mà sự cực ấy bởi đâu mà ra? Thầy tu
đã nói: “Tôi cũng có đôi bạn như thầy”; mà nay sao thầy ấy lại là thầy tu? Lại
thầy ấy có đọc rằng: “Xin Chúa cho tôi gặp bạn tôi”; hay là thầy ấy phiền vì đã
mất bạn mình là người mình rất yêu mến lắm, cho nên phải phiền vậy chăng? Như
vậy không có lẽ? nếu phải phiền vì sự ấy mà thôi thì không nói rằng: “Dầu tội
nó thể nào thì tôi cũng quên rồi.” Vậy tôi chắc một là thầy này điên, hai là
thầy có làm sự gì quái gở quá trí hiểu không đặng.
Tôi còn đang suy như vậy thì tôi
nghe thầy ấy ho hai tiếng nhẹ nhẹ rồi nói rằng:
“Thầy ôi! Thầy nghe tôi thì thầy
biết tôi là thể nào? Sanh ra khỏi lòng mẹ thì đã chịu cực cho đến lớn. Tưởng
khi có trí khôn thì được sung sướng một ít mà cũng không được; số phận tôi phải
chịu khốn nạn cho đến trọn đời mà thôi.
“Song sự cực tôi đã chịu cho đến
mười hai tuổi thì tính lại không bằng sự tôi sẽ chịu khi Tây qua. Thuở ấy là
năm 1860 tôi được mười ba tuổi thì tôi nghe nói xôn xao rằng: “Tỉnh Gia-định đã
bị Tây lấy rồi hơn hai ba tháng nay; chừng ít ngày nữa thì Tây cũng sẽ qua đánh
lấy Biên-hoà cùng Bà-rịa. Kẻ ngoại khi nghe đều ấy thì lo sợ, còn kẻ có đạo thì
mầng rở, vì người ta đoán rằng: “Tây qua sẽ binh vực những người có đạo Datô mà
giết những người chẳng giữ đạo ấy.”
“Song người có đạo thì mầng là vì
trông cậy một ít lâu sẽ đặng thong thả mà giữ đạo mình mà thôi.
“Phải chi người có đạo biết sự dữ
tợn quan Annam sẽ làm cho những kẻ ấy chịu, khi Tây sẽ đánh lấy Bà-rịa thì
những kẻ ấy chẳng trông đợi như vậy đâu!
“Hẳn thật như vậy, vì năm sau thì
nghe Tây đã đánh lấy Biên-hoà rồi, còn kẻ có đạo thì đã bị quan Annam đốt hết,
khi ấy ai nấy đều kinh khủng, người thì sợ Tây qua giết, người thì sợ quan
Annam đốt trước khi Tây qua. Mà cũng không khỏi vì cách ít tháng (khi ấy tôi đã
nên mười lăm tuổi) thì có lịnh truyền dạy bắt những con nhà có đạo cầm tù lại
hết; cùng khắc bốn chữ nầy, “Biên-hoà Tả-đạo” trên hai mép tai, hầu sau có trốn
mà bắt cho dễ.
“Tôi và ông già tôi cũng bị bắt cầm
một nơi. [2]
“Thầy ôi! Tôi muốn nói sự cực những
kẻ bị bắt vô ngục cho thầy nghe, song nói chẳng đặng. Ban đầu khi những người ở
tù còn tiền đủ mà cho những người lính canh thì còn đặng thong thả mà đi việc
của mình; mà đến khi hết tiền cho chúng nó ăn, thì phải chịu các sự cực khổ
muôn phần. Mọi người đều bị đóng trăng hết, cho nên những kẻ đau đớn bịnh hoạn,
hay là những kẻ có việc cần phải đi ra, mà bị lính không cho đi thì lại phải
làm nhiều sự dơ dáy nơi mình nằm, thì ngục ấy hóa ra thúi tha gớm ghiết lắm,
nhiều người phải mang bịnh mà chết. Chúng ta chịu như vậy cho tới bốn tháng
trường, đến năm 1862 thì nghe đồn nói binh Langsa đã kéo qua đánh lấy Bà-rịa.
Nhiều kẻ khi nghe tin ấy thì mầng, nhiều kẻ thì sợ, nhưng mà mầng sợ cũng không
bao lâu, vì binh Tây chưa đến nơi thì ngục đã bị đốt ra tro mạt hết rồi. Đến
khi lấy đặng Bà-rịa thì ngục còn một đống xương mà thôi.”
Tới đây tôi chận truyện thầy ấy mà
hỏi rằng: “Mà thầy không nói làm sao mà thầy ra khỏi tù.”
Thầy ấy gặc đầu cùng trả lời rằng:
“Ông già tôi trước khi đốt ngục thì đã xán bịnh rồi, nên khi đốt ổng nghe tiếng
thiên hạ la, thì ổng ngồi dậy mà coi, song ổng vừa ngó thấy ngục cháy thì giực
mình té ngửa ra mà chết.” Thầy ôi! Khi tôi thấy cha tôi chết như vậy, thì tôi
không còn muốn sống nữa, tôi mới chạy lại ôm xác ông già tôi quyết lòng đợi lửa
tới mà chết thui với ông già tôi, song lửa mới vừa tới cháy hai chơn tôi thì sự
đau đớn làm cho tôi quên hết mọi sự cùng bắt tôi chạy a ra cửa mà ra khỏi tù.
“Thầy ôi! Trong ngục hết thảy là ba
trăm người mà khi ấy còn sót lại có mười người mà thôi.”
Đến đây thầy ấy vổ trán cùng nói
rằng: “Đây nầy! Tôi thấy rõ các sự ấy như thể mới có hôm qua vậy; nó còn rõ
ràng trong trí tôi đây.” Nói những lời ấy rồi thầy ấy thở ra một tiếng cùng
giấu mặt trong tay mình.
V
Khi đồng hồ tàu đổ hai giờ khuya thì
thầy ấy nói tiếp theo rằng: “Khi tôi ra khỏi ngục thì chẳng biết đi đâu, ngó
quanh ngó quất thì thấy những người lạ hay là những kẻ ngoại quen, mà những
người ấy chẳng dám đam tôi về nhà vì sợ quan nói giấu người có đạo mà bắt
chăng.
“Vậy khi tôi thấy tôi còn một mình bơ vơ giữa đàng không cha không mẹ không bà con cô bác. Không ai đoái thương thì tôi quyết lên trên núi liều mình cho thú dữ ăn đi cho rồi. Tôi phăn phăn đi đặng vài dặm đàng như vậy cho đến khi chơn tôi bị cháy nó phồng lên mà làm cho tôi đau đớn lắm; đi không nổi nữa, thì tôi mới ngồi lại bên đàng mà khóc, khi ấy mặt trời đã lặng rồi, lại tôi phần thì đau phần thì mệt và đói nên tôi té ngửa trong bụi kia cùng bất tỉnh nhơn sự. Tôi chẳng biết tôi nằm đó là bao lâu, vì khi tôi tỉnh trí lại mở con mắt ra thì tôi thấy tôi ở nơi nhà thương lính, nằm một bên người lính bị thương tích kia, còn dưới chơn tôi thì có một ông thầy thuốc đang giặc thuốc nơi chơn tôi bị phỏng.
Tôi ở nhà thương hơn bốn mươi ngày; không cục cựa đặng vì hai chơn tôi bị bó lại, cho nên đi đâu không được, mà trong bốn mươi ngày ấy thì có một ông quan ba kia cách vài ba bữa thì lại đến thăm tôi một lần. Đến khi hai chơn tôi lành, thì ông quan ba đã đến thăm tôi khi tôi đau, cho người kêu tôi lên và biểu người thông ngôn hỏi tôi rằng: “Mầy còn cha mẹ bà con tại Bà-rịa không?”
“Tôi thưa rằng: “Tôi không còn ai hết, cha tôi đã chết trong ngục rồi, còn mẹ tôi đã chết khi tôi còn nhỏ.” Thì ông biểu thông ngôn nói cùng tôi rằng: “Tao đã gặp mầy nằm trong bụi gần chết, tao coi thấy mặt mầy sáng sủa thì tao thương, muốn đem mầy về nuôi cho mầy lành; nay tao tưởng mầy còn cha mẹ thì tao cho mầy về, mà mầy nói mầy không có ai thì tao đem về Gia-định với tao. Mầy chịu đi chăng?”
“Tôi mới thưa rằng: “Ông đã cứu tôi cho khỏi chết, bây giờ ông thương tôi muốn đem tôi về Gia-định mà tôi không đi thì tôi sẽ bạc ngải và dại dột là dường nào.”
“Ba bữa sau tôi xuống tàu mà về Gia-định đặng sáu tháng, kế lấy ông quan ba mắc bệnh phải về Tây, thì để tôi lại cho Đức cha Lefèbvre.
“Tôi ở giúp đức cha được một năm rưởi cùng học chữ quốc ngữ cho đến năm 1864 thì đức cha cho tôi vô trường Latinh.
“Khi tôi mới vô nhà trường thì tôi kết nghĩa làm anh em vuối một người tên là Verô Liểu, cũng vô trường một lượt cùng tôi. Người ấy là con ông trùm họ Cầu-kho mà bởi nhỏ hơn tôi hai tuổi, thì nhường cho tôi làm anh; hai anh em thương nhau như anh em ruột vậy; chẳng khi nào mà rời nhau, dầu trong nơi học, nơi ngủ, nơi ăn, thì cũng gần nhau luôn; khi đến ngày bải trường tôi muốn ở lại trường; song thầy Liểu một hai không cho, một bắt phải đi về nhà cùng thầy mà thôi.
“Lại cha mẹ thầy Liểu, thấy tôi kết nghĩa với con mình thì lại đem lòng thương tôi như thương con ruột mình, cho nên trong hai năm tôi học nhà trường Latinh, thì tôi chẳng thiếu sự gì, lại đặng vui lòng lắm vì chưng bây giờ tôi thương cha mẹ thầy Liểu và coi hai ông bà ấy như cha mẹ ruột tôi vậy.
“Học đặng hai năm đến 1866, khi có thầy dòng qua lập trường d’Adran, thì hai anh em xin qua đó mà học. Học đó thì hai anh em cũng còn thiết nghĩa với nhau như cũ, lại tôi cũng năng về nhà cha mẹ thầy ấy như thường.
Đến năm 1870 là năm có giặt người Allemanha và người Phalangsa đánh cùng nhau thì hai anh em tôi ra đi thi tại Saigon. May đâu hai anh em thi đậu một lượt và lại được sai đi làm việc một nơi tại dinh quan Thượng-thơ cho nên tôi lại còn nương ngụ nơi nhà cha mẹ thầy Liểu nữa.
“Tôi ra làm thông ngôn đặng sáu tháng, khi cha mẹ thầy Liểu thấy tôi ở nơi nhà ấy mà có lòng ngại chưa đặng thong thả, thì lại muốn giúp mà lo đôi bạn cho tôi, để tôi lập cơ nghiệp đặng ra ở riêng cho thong thả.
“Ôi! Thầy ôi! Phải mà tôi biết người thiết nghĩa ấy sẽ phá sự phước tôi, thì tôi sẽ xa lánh người ấy là thể nào? Ấy thầy xem đó mà coi, thì thầy biết lòng người ta giả trá là thể nào? Nó đang còn thiết nghĩa với mình hết sức, mà nó kiếm sự làm cho mình phải khốn không hay.
“Phải chi tôi chết cùng cha tôi trong ngục thì tôi sẽ khỏi chịu cực cho đến bây giờ! Ôi! Trong ba mươi lăm năm, tôi đặng hưởng phước không đầy năm năm, còn mấy năm kia thì những chịu cực chịu khổ mà thôi.”
VI
“Thuở tôi còn ở nhà trường d’Adran
thì cha mẹ thầy Liểu thường đến mà thăm viếng hai anh em tôi, nhiều khi đi thăm
thì bà già thầy Liểu hay đem một người con gái chừng mười bảy tuổi đi lên theo.
Người ấy không lịch sự thiệt, song coi phải thể người mà thôi: tiếng nói dịu
dàng, mặt mủi cách điệu, tính nết ăn ở thì dễ làm cho người ta thương lắm.
Người ấy là con bà dì thầy Liểu.
“Ban đầu khi người đi đến thì tôi cũng tưởng là như bà con; mà cách ít tháng thì tôi lại đem lòng thương, cùng hằng tưởng đến người ấy luôn. Tôi đã thương người ấy như vậy là một năm chẳng, cho đến khi thi đậu mà ra khỏi trường.
“Song dầu mà tôi thương người ấy mặc lòng, tôi cũng chẳng tỏ sự ấy ra cho thầy Liểu là anh em thiết nghĩa với tôi hay.
“Vậy ngày kia nhằm ngày chúa nhựt
khi xem lễ về, ông già thầy Liểu rủ tôi ra vườn đi dạo chơi. Khi đến một đống
đá thì ổng nói cùng tôi rằng: “Ta ngồi đây nghỉ một chặp và nói chuyện hử Mi
Lazare!”
“Khi nghe ổng mời tôi ngồi, thì
trong lòng tôi bắt hồ nghi có sự gì cả thể, cho nên mới kêu tôi ra ngoài vườn
một mình, vậy tôi mới ngồi mà làm thinh.
Ông già thầy Liểu cũng làm thinh một
chặp rồi nắm tay tôi mà nói rằng: “Thầy! Thầy biết xưa nay tôi thương thầy như
con ruột tôi vậy, cho nên khi nào bải trường có con tôi về mà không có thầy thì
tôi cũng trông nhớ thầy lắm.”
“Còn thầy thì tôi cũng biết thầy
thương hai vợ chồng già tôi như cha mẹ thầy, cho nên hai vợ chồng tôi cũng
mầng, và lại tôi thấy thằng Liểu nó yêu mến thầy thì tôi càng mầng hơn nữa, vì
nó đặng bắt chước cách ăn ở thầy mà sửa mình lại và nó khỏi theo những đứa
hoang đàng mà hư đi.”
“Tôi nghe nói như vậy thì tôi làm
thinh cúi đầu xuống mà nghe cho cùng, thì ông già thầy Liểu nói rằng:
“Thầy nay đã lớn tuổi rồi, cho nên
bữa nay tôi muốn nói mà hỏi thầy có ưng nơi nào thì nói ra, cho tôi liệu cho
thầy.”
“Xin thầy đừng ngại mà từ chối làm
chi. Nếu thầy từ chối thì sẽ làm cho vợ chồng tôi buồn bực lắm, tôi không có
giàu có muôn hộ chi, song tôi cũng có đủ mà lo cho thầy cách tử tế vì thầy là
như con tôi. Còn khi thầy có đôi bạn rồi, mà muốn ra tư riêng thì tôi cũng sẽ
lo cho thầy đặng đủ mọi sự, mà lập cơ nghiệp riêng.”
“Vậy tôi xin thầy tỏ thật lòng thầy
đã ưng nơi nào cho tôi biết?”
“Tôi trả lời rằng: “Bỏ và vú thấy
tôi mồ côi, mà đem tôi về nuôi như con ruột, mà tôi chưa đền ơn ấy được nay bỏ
vú lại muốn lo đôi bạn cho tôi nữa, thì tôi khi nào trả nghỉa cho vú bỏ cho
xong ơn ấy kể sao cho xiết?”
“Lại tôi xưa rày chưa tưởng đến sự
vợ chồng, cho nên chưa chọn nơi nào cho xong. Ông già mới nói rằng: “Ơn ngải
chi đâu mà đền, Mi Lazare! Thầy là con, ta là cha, thầy nói ngay ra thì ta sẽ
lo cho. Vậy nếu Mi Lazare không biết nơi nào, thôi để ta chỉ cho.”
“Vậy thầy có biết ở trong làng ta có
người con gái nào chừng mười tám tuổi, thường đến thăm ta đây không?”
“Khi tôi nghe hỏi như vậy thì tôi
dấu mặt lại cho nên ông trùm mới cười mà nói rằng: “Bộ đây! Mi Lazare cũng biết
nàng ấy thì phải! Cho nên mới dấu mặt lại như vậy.”
“Khi tôi thấy ông già thầy Liểu hiểu
biết ý tôi đã có lòng thương người ấy, thì tôi quyết lòng nói thật ra rằng:
“Thưa với bỏ, xưa nay tôi không tỏ
lòng tôi ra cùng ai, mà nay bỏ đã dò lòng tôi mà biết rõ sự ấy, thì tôi xin thú
thật. Tôi đã có lòng thương cô ấy hơn một năm rưởi nay, mà bởi tôi tưởng tôi là
đứa mồ côi không xứng đáng nơi ấy, nên tôi để trong lòng không dám tỏ ra cùng
ai.” Ông già nghe đặng mới cười lớn lên mà rằng:
“Hả! Hả! không hề gì đâu Mi Lazare!
Không hề gì! Các con trẻ tưởng ông già không biết chi! Hả! Hả! Già biết rõ hết.
Để già hỏi đây, thì con cháu sẽ ừ liền không khỏi đâu.”
“Mà thật tháng sau người con gái bà dì thầy Liểu và tôi đến bàn thờ mà chịu phép hôn phối.
“Thầy ôi! Nói sự phước hai đứa tôi
thì không cùng, tôi tưởng có ít người mà thương vợ như tôi. Dầu mà vợ chồng đã
về cùng nhau rồi, song lòng tôi còn thương tưởng như trước.
“Lại bạn tôi gặp tôi thì cũng lấy
làm có phước lắm, vì cũng có lòng thương tôi như tôi đã thương vậy, cho nên
không khi nào, dẫu có phiền lòng thể nào, thì cũng không nói lời gì ra, làm cho
tôi nhớ phận tôi là con mồ côi cô độc. Khi ấy sự phước tôi là vô cùng.
“Tôi với bạn tôi về ở nhà thầy Liểu
đặng sáu tháng, kế lấy có tờ quan sai tôi đi làm thông ngôn tại Bà-rịa.”
Tới đây thầy tu nghe đồng hồ đánh ba
giờ khuya thì thầy ấy la hoảng lên rằng:”Đó! Đó! thầy! nó nằm đó…! gần chết…!
nó nắm tay tôi đây…!”
Rồi nói nhỏ rằng: “Ôi! Tôi là kẻ có
tội; tôi là kẻ có tội!” Nói dứt lời, thì nhắm mắt lại mà nghỉ.
Nghỉ một hồi, thức dậy nói rằng:
“Bây giờ mới đến sự cực tôi đây thầy! Tôi về Bà-rịa đặng hai tháng rồi, mà bởi
tôi có làm quen với các quan trong đồn cho nên thường đi ăn cơm với các quan
ấy. Vậy trong các quan thì có ông quan ba kia có một con vợ annam.
“Mà con ấy khi thấy tôi thì làm
nhiều cách thể, muốn như xui giục tôi phạm tội cùng nó, cho nên tôi trốn lánh
cho khỏi dịp làm thiệt hại cho vợ mình, vậy lần lần tôi bớt vô đồn ăn cơm với
các quan nữa cho nên tôi đã khuất mặt người đờn bà ấy đi.
“Qua năm 1872, thầy Liểu thôi làm
việc đã bốn tháng nay, xuống tại Bà-rịa mà mua ngựa đem về Saigon.
“Thầy ấy tới nơi thì anh em rước
nhau mầng rỡ bội phần, vì cách mặt đã hơn tám tháng trường, cho nên gặp đặng
thì truyện vãn cùng nhau luôn.”
Tới đây thầy tu nắm tay tôi mà nói
rằng: “Thầy hãy ghé tai lại đây mà nghe cho rõ. Đây là đến hai tội tôi, tới đây
là tới đầu sự khốn cực tôi. – Tôi mệt lắm, xin cho tôi nghỉ một chút cùng nhớ
các sự cho rõ hơn.”
VII
Thầy ấy mở con mắt ra mà nói rằng:
“Xin thầy chịu khó mở rương tôi ra mà lấy cái thơ tôi để trong ấy mà đọc, rồi
tôi sẽ nói tiếp theo cho thầy nghe.”
Tôi lại mở rương ra thì thấy có một cái thơ; tôi đem cái thơ ấy kề bên đèn mà đọc rằng:
Bà-rịa, ngày 14 tháng tám năm Tân mùi.
“Kính thăm thầy đặng rõ: người viết thơ nầy là một người xưa nay những tưởng tới thầy luôn. Dầu mà tôi biết nói thiệt sự nầy ra thì đau đớn lòng thầy lắm. Song là sự chán chường trước con mắt mà nín đi thì sao đặng?
“Xưa nay ai nấy đều khen bạn thầy là người nhơn đức, hiền lành trung hiếu cùng chồng lắm, chẳng ai ngờ sự rất quái gở! Tôi không biết làm sao mà người bộ bề ngoài nhơn đức như vậy, mà có lòng ngoại tình được. Lại sự rất gớm ghiếc hơn, là người ấy đã chọn bà con mình và bạn hữu thiết nghĩa của chồng mình mà phạm tội ấy.
“Tôi biết rằng, khi thầy được thơ nầy thì thầy sẽ nói tôi là một đứa nói gian; song tôi có đủ tang án mà làm cho thầy tin tôi.
“Vậy xin thầy kiếm trong tủ để áo của bạn thầy, thì thầy sẽ thấy hai cái thơ của thầy Liểu gởi cho bạn thầy thì thầy sẽ biết tôi có nói sai chăng?
“Bấy nhiêu xin thầy nhậm lời cùng miễn chấp.”
Khi tôi đọc thơ rồi thì thầy tu ấy nói rằng: “Thầy ôi! Ngày kia đang khi vợ chồng bạn hữu bà con vui vẻ sum vầy cùng nhau thì sự dữ ấy đến nhà tôi, vì ngày ấy tôi đặng cái thơ nầy đây.
“Ôi! Thầy ôi! Nói sự đau đớn lòng tôi đã chịu khi được thơ ấy thì không nổi. Tôi xin thầy đừng khi nào biết sự đau đớn ấy thì hơn.
“Nhưng vậy dầu cực thể nào tôi cũng làm như không có sự gì vậy. Song thật trong lòng tôi quyết kiếm thế nào mà báo cừu hai người đã phá sự phước tôi như vậy.
“Ôi! Thầy ôi! Người ta nói rằng: “Chẳng có sự dữ nào mà nó đến một mình đâu, một sự dữ thì nó kéo một bầy sự dữ khác theo.
VIII
“Tôi đặng thơ đã hơn một tuần lễ, kế
thầy Liểu mua đặng ngựa thì chở về Saigon. Thầy Liểu lui ghe đặng một ngày thì
có tin báo rằng: “Ăn cướp đã chận đàng Saigon mà đánh ghe buôn nhiều lắm.”
“Khi quan tham biện nghe báo như vậy
thì kêu tôi mà hỏi rằng: “Thầy dám lãnh mười tên lính đi bắt ăn cướp chăng?”
“Tôi suy một hồi rồi thưa lại rằng:
“Xin quan lớn cho tôi quân lính và thuốc đạn cụ túc, cho được chống trả phi
đảng thì tôi dám đi.”
“Vậy quan tham biện liền cho tôi đủ
quờn phép khí giái quân lính cùng dạy tôi phải lo xuất hành cho kịp.”
“Khi tôi đặng phép thì trong lòng
tôi bồi hồi run sợ, nửa vui nửa buồn, vì tôi có ý xin đặng đủ quờn phép mà làm
một sự quái gở kia, cho bằng lòng tôi mới thôi.
“Sửa soạn rồi, tới ngày ấy tôi đem
mười ba tên lính xuống ghe mà đi. Tôi đi đặng vài con nước thì bỏ Tắc-mọi đã
xa.
“Vậy ngày sau chừng sáu giờ chiều,
tôi thấy phía bên kia sông, đậu gần bên bờ, một chiếc ghe giống như ghe thầy
Liểu vậy. Khi coi đi coi lại, rõ là ghe thầy ấy, thì tôi dạy đậu ghe lại ăn
cơm, soạn sửa khí giái, vì tối nay nước lớn thì sẽ có ăn cướp mà bắn.
“Phải mà thầy thấy mặt tôi khi ấy
thì thầy sẽ kinh khủng chẳng sai.” Là vì tôi khi đó như bị quỉ ám vậy. Một ít
nữa thì tôi sẽ giết một người kia vô tội, mà bây giờ tôi còn gượng mà cười
đặng, thì mặt mủi tôi hóa ra gớm ghiết lắm.
“Vậy khi ăn cơm nước nghỉ ngơi rồi,
thì vừa tới nửa canh ba, nước mới lớn, tôi liền dạy dưới ghe tắt đèn hết, cho
ăn cướp không thấy mà đi qua.
“Súng ống vừa sẵn sàng, thì vừa ghe
thầy Liểu đi giữa dòng sông, ngang ghe tôi; tôi liền dạy tên cai đứng nơi lái
mà kêu ghé.
“Song người cai mới kêu rằng: “Ghe
đi kia ghé!” thì tôi nghe một viên đạn đi vo vo bên tai tôi, cùng một tiếng
súng nổ nơi ghe thầy Liểu.
“Tôi thấy viên đạn gần trúng tôi thì
tôi giận quá sức cho nên sự tôi hềm thù thầy Liểu lại càng thêm nữa. Tôi liền
la rằng: “Cha! Chả! Nó cự bây! Bắn!
“Tức thì mười mủi súng day qua ghe
thầy Liểu mà phát một lượt; vừa khi ấy tôi nghe một tiếng rằng: “Cha ôi! Chết
tôi!” Tôi nghe tiếng ấy thì tôi biết là tiếng thầy Liểu thì sự giận và sự hềm
thù tôi như thể biến đi đâu mất vậy, cho nên tôi sợ hải và trách mình tôi lắm.
Vậy tôi dạy chèo ghe lại có ý coi có phương thế nào mà cứu thầy ấy chăng.
“Song vừa lại đến nơi thì thầy Liểu
đã tắt hơi rồi. Nên tôi buồn bực trách móc tôi, cùng khóc lóc lắm, mà tôi khóc
tội tôi mà thôi, chớ còn thầy Liểu thì tôi không thương tiếc chút nào.
“Hỏi cớ sự rồi tôi dạy lính đem ghe
vô bờ mà nghĩ cho đặng đến sáng về mà báo quan.
“Về đến nơi thì tôi đến trình quan
tham biện rằng: “Ngày kia hồi canh ba có một chiếc ghe đi ngang qua chỗ tôi đậu
mà đón bắt kẻ cướp. Thấy ghe ấy đi ngang qua thì tôi kêu ghé, song ghe ấy không
ghé mà lại bắn lại một phát súng, tôi thấy vậy tưởng ghe muốn cự thì dạy lính
bắn lại. Bắn rồi chèo ghe ra mà coi, thì tôi thấy là ghe thầy Liểu đi mua ngựa
về có giấy thông hành tử tế, tôi hỏi bạn thì bạn thưa rằng: “Khi thầy tôi nghe
kêu thì tưởng là ăn cướp, nên trèo lên mui mà bắn chúng nó; chẳng ngờ đàng kia
tưởng ăn cướp bắn cự thì bắn lại; mà tại thầy tôi ở trên mui cho nên bị đạn mà
chết đi.”
“Tôi trình rồi, quan tham biện nói
rằng: “Thầy có phép quan sai đi bắt ăn cướp, mà bởi thầy kia đã không hỏi han
cho rõ trước khi bắn lại cho nên chết thì phải chịu; thầy không tội gì!”
“Nói rồi quan tham biện quở trách
tôi sao không hỏi cho kỉ càn cùng dạy tôi về mà chôn cất thầy ấy cho tử tế.
“Vậy thầy ôi! Từ ngày ấy cho đến bây
giờ thì trí tôi không khi nào an đặng, tôi những thấy súng ống khí giái luôn,
nhứt là khi ngủ thì tôi thấy tôi bị ăn cướp bắt mà bắn tôi hoài.
“Song dầu mà lương tâm tôi cắn rứt tôi thể nào thì tôi cũng không quên sự lỗi của thầy Liểu và của bạn tôi đã phạm với tôi.
“Nhiều lần tôi ở trường án mà về thì
tôi muốn lại hỏi mọi sự ra cho vợ hay mà tha lỗi cho vợ. Song khi lại gần thì
tôi không muốn nói ra lại tưởng rằng: hỏi nó thì nó đương chịu cho đó. Ai dại
mà chịu làm cha ăn cướp, bởi vậy cho nên tôi không khi nào nguôi sự lỗi bạn tôi
đã phạm cùng tôi đặng.
IX
“Khi tôi còn nhỏ, thì thường có Mọi
hay đến mà bán hàng nơi nhà tôi. Trong mấy người Mọi đó thì có một đứa hay ra
ngoài vườn mà hái một thứ bông tím tím kia, ở dưới cỏ mà mọc lên; tôi thấy
người ấy hái thì tôi cũng bắt chước hái chơi. Người Mọi thấy tôi hái bông đó
thì la tôi biểu đừng có hái, vì nó là giống độc lắm: sắc chừng một nắm mà uống
thì phải mắc bịnh lần lần cho đến bảy tám tháng một năm thì phải chết: uống vô
rồi không thuốc nào mà chữa đặng.
“Khi ấy thầy Liểu đã chết đặng mười
lăm bữa rồi. Ngày kia tôi nhớ đến sự cực tôi, thì trí khôn tôi nó bắt xao xiến
bối rối làm cho tôi như điên vậy, thì tôi đi ra vườn cho có gió mát giải phiền
một ít.
“Tôi đi chưa đặng giáp vòng vườn thì
tôi ngó thấy một đám cỏ bông tím dưới chơn tôi, tôi cúi xuống mà hái nó mà coi,
thì tôi thấy nó là cái bông thuốc độc người Mọi đã nói với tôi khi trước.
“Vậy tôi nhắm cái bông một hồi, rồi
cúi xuống hái một nắm bỏ vô khăn cầm vào nhà. Thật sự tôi sẽ làm thì hiểm độc
lắm, mà khi tôi vô nhà thì trí tôi cũng an tỉnh như tôi mới làm một sự phước
vậy.
“Tôi vô nhà thấy bạn tôi đang bắc
một cái siêu trên bếp thì tôi hỏi rằng: “Mình sắc gì đó vậy?” Bạn tôi trả lời:
“Ba bốn bữa rày nó bắt tôi ho dữ quá, cho nên khan tiếng; tôi sắc thử lá nguyệt
bạch với chanh uống coi có hết chăng.”
“Tôi làm thinh không nói gì, cứ cúi
xuống mà ngó cái siêu luôn, tôi ngó cái siêu thì thấy cái nắp nó nhảy lên nhảy
xuống dường như muốn mời tôi bỏ nắm bông trong khăn vô đó vậy. Vừa khi ấy bạn
tôi lên nhà trên ăn trầu, thì tôi lại dở nắp siêu lên bỏ nắm bông ấy vô.
“Khi bạn tôi uống rồi, đến ngày mai
thì không chổi dậy khỏi giường cũng không ăn uống gì đặng.
“Thầy ôi! Khi tôi biết tội tôi trọng
là thể nào, cùng khi thấy bạn tôi nằm trên giường mà than thở thì tôi buồn bực
ăn năn trách mình muốn cứu vợ tôi cho khỏi chết. Tôi rước không biết là mấy
thầy; mà mỗi khi thầy nào đến tôi cũng lắc đầu hết, vì khi ấy tiếng người Mọi
đã nói với tôi hơn hai mươi năm nay thì tôi nhớ lại hết: “Uống vô rồi không thuốc
nào cứu đặng”
“Bây giờ mỗi ngày thì bạn tôi lại
thêm ốm o gầy mòn hoài. Khi tôi thấy bịnh bạn tôi càng ngày càng nặng hơn chừng
nào thì tôi lại càng trách mình chừng nấy.
“Bạn tôi đau đã hơn mười một tháng
song tôi không nghe khi nào bạn tôi mở miệng ra mà nói cùng than thở đều gì;
khi thấy tôi buồn thì kiếm lời dịu dàng mà an ủi tôi thì có.
“Ôi! Trong mười một tháng ấy tôi
trách mình tôi không biết là bao nhiêu; tôi buồn bực cho đến đổi có nhiều lần
bạn tôi thấy tôi chảy nước mắt ra thì tưởng tôi khóc vì nó, thì nói cùng tôi
rằng: “Xin thầy đừng rầu rỉ làm chi, tôi không chết đâu; tôi đã chịu thuốc rồi,
it ngày đây thì tôi sẽ lành.”
“Những lời như vậy thì nó làm cho
tôi đau đớn như lưởng gươm đâm thấu vào lòng tôi vậy.
“Tôi chịu cực thể ấy cho đến gần nữa
năm 1873. Ngày kia tôi thấy bạn tôi mệt lắm thì tôi biết đã gần giờ nó phải lìa
khỏi thế rồi, nên tôi ở gần một bên bạn tôi luôn. Đến nửa đêm khi tôi thấy bạn
tôi còn thở hơi ra mà thôi thì tôi không còn trông cậy gì về sự sống nó nữa,
thì tôi cho mời các chức đến mà đọc kinh giúp kẻ mong sanh thì.
“Khi các chức đến đọc kinh cùng kêu
chúa đặng một hồi lâu, thì đồng hồ đánh ba giờ sáng. Khi ấy bạn tôi bắt tay tôi
mà kéo tôi lại một bên miệng mà nói rằng: “Tôi biết vì làm sao mà tôi phải
chết, song tôi cũng xin Chúa thứ tha cho thầy.” Nói rồi làm thinh cho đến bốn
giờ thì linh hồn ra khỏi xác.
“Ôi! Thầy ôi! Khi tôi thấy tôi còn ở
đời một mình thì sự buồn bực nó đã quá trí tôi đi. Lại khi tôi tưởng đến hai
người, tôi đã thương mến quá chừng mà đã phải bị tay tôi mà chết thì tôi buồn
bực sợ hải đêm ngày.
“Cho nên khi chôn cất bạn tôi rồi
tôi xin thôi làm việc mà lên Saigon đặng xin Đức cha chuẩn cho tôi vô ở nhà
dòng Tân-định mà tu trì đức hạnh ít lâu.
“Tôi vô nhà dòng rồi, thì tôi ở một
cách sốt sắng lắm: đêm ngày tôi những đọc kinh cầu nguyện, ăn chay hãm mình
cùng học hành siêng năng tử tế lắm cho nên các thầy bề trên tôi đều bằng lòng
mà khen ngợi tôi hết. Tôi có ý ra sức mà làm các sự ấy, cho đặng quên hai tội
tôi không xưng ra. Bởi vậy, bề ngoài người ta gọi tôi là người nhơn đức, mà hẳn
thật tôi là đứa tội lỗi giả hình mà thôi, cho nên dầu tôi làm thể nào, thì
lương tâm tôi cũng cắn rứt luôn chẳng khi nào cho trí khôn tôi bình an đặng.
“Thầy ôi! Tôi chịu cực mà học như
vậy đã đặng sáu năm, chịu đặng chức thầy, cho đến năm kia là 1882, thì tôi mắc
bịnh nầy; vì mình tôi đã mệt lại thêm trí tôi không an nữa thì nó sanh ra nhiều
chứng bịnh lắm.
“Đã hai năm nay tôi ở nhà thương mà
uống thuốc, song bịnh tôi càng ngày càng tấn tới thì thầy thuốc dạy tôi xuống
Vũng-tàu, “ở đó thanh khí có lẽ ông bớt chăng.”
“Nói tới đây thì trời vừa sáng, tàu
đến Vũng-tàu.
Vậy tôi mới nói với thầy ấy rằng:
“Tội thầy đã nói với tôi đó là đều độc dữ lắm, song Chúa nhơn từ vô cùng, còn
dung thầy sống đến nay thì thầy phải xưng tội thì Chúa sẽ tha cho thầy chẳng
sai đâu.”
Thầy ấy trả lời rằng: “Thầy đừng sợ
làm chi, mai đây cha sở Bà-rịa xuống Vũng-tàu thì tôi sẽ xưng tội tôi ra hết,
vì tôi chịu cực cũng đã quá trí rồi.”
Tôi lại hỏi rằng: “Thầy xuống
Vũng-tàu mà ở nhà ai?”
Thầy ấy trả lời rằng: “Tôi xuống ở
nơi nhà cha Bà-rịa đã cất để mà nghỉ tạm khi cha xuống Vũng-tàu.”
Nói truyện vừa rồi tàu gieo neo; khi
thầy ấy bắt tay tôi từ giả mà lên đất, thì thầy ngó tôi mà rằng: “Thầy! Coi tôi
cho rõ có lẽ ta gặp nhau lần nầy là lần sau hết. Xin thầy đi bằng an, đến sau
khi thầy có xuống Bà-rịa, thì tôi xin thầy hãy đọc một kinh nơi mồ LAZARO
PHIỀN.” Nói rồi thầy Phiền xuống đò mà lên đất.
X
Thầy ấy lên đất đặng nữa giờ thì tàu đi vô Bà-rịa. Tôi ở Bà-rịa, đặng một tuần lễ, rồi tôi trở lại Saigon không nghe tin thầy Lazaro Phiền nữa cho đến ngày 27 janvier 1884 thì người đem thơ đam đến nhà tôi một cái thơ. Tôi coi ở ngoài bao thơ thì thấy có đóng con dấu Bà-rịa, tôi dở thơ ấy ra thì thấy đề rằng:
Bà-rịa, ngày 25 janvier 1884
“Kính thăm thầy đặng mạnh giỏi trong chúa Khirixitô, cùng xin Chúa phù hộ cho hai vợ chồng thầy.
“Thầy ôi! Tôi xưa nay đã giấu tội tôi khi còn sống làm cho thiên hạ tưởng tôi là người trọn lành cho nên trước khi tôi bỏ thế mà xuống nằm nơi tro bụi tôi muốn cho người ta biết tôi là ai, biết tội tôi là thể nào. Vậy nay tôi mới viết thơ nầy mà xin thầy giúp tôi làm việc ấy cho nên. Bây giờ có một mình thầy cùng cha sở Bà-rịa biết các việc tôi mà thôi, mà cha sở người chẳng có phép mà tỏ tội tôi đã xưng ra với người. Bởi vậy tôi mới dám xin “thầy, khi tôi chết rồi, thì thuật truyện tôi lại cho mọi người biết, lại tôi xin thuật truyện sau nầy đặng cho thầy tiếp theo sự tôi đã nói cùng thầy dưới tàu Jean-Dupuis ngày 12 janvier 1884, có lẽ khi thầy đặng thơ nầy thì Lazaro Phiền chẳng còn ở đời nữa.
“Tôi về Bà-rịa đã đặng ba bữa rày cho đặng gần cha linh hồn, vì thầy thuốc đã đoán rằng: tôi không còn sống đặng hơn ba ngày nữa. Vậy ngày hôm qua tôi xin cha cho phép người ta vỏng tôi đi xuống Đất-đỏ mà viếng quê hương tôi một lần sau hết, ôi! Khi tôi thấy nơi tôi ở thuở còn thơ ấu thì hai hàng nước mắt tôi tuôn xuống ròng ròng.
“Khi ấy trí khôn tôi nhớ trực lại hết những sự trốn lánh cực khổ ông già tôi và tôi đã chịu khi còn bé thì tôi bước xuống vỏng lại ngồi trên miệng giếng ở trước nhà tôi thuở trước cùng ôm mặt tôi mà khóc ròng; một hồi lâu tôi chổi dậy lên vỏng biểu người ta đem tôi về Bà-rịa.
“Tôi về vừa đến nhà thì cha sở đưa cho tôi một cái thơ cùng dạy tôi đọc cái thơ ấy cho đến cùng.
“Tôi dở thơ ra thì thấy chữ viết trong thơ là chữ đờn bà không có ký tên. Vậy trong thơ ấy viết thể nầy; tôi xin chép lại đây cho thầy coi:
“Thơ nầy là thơ một người đã làm cho thầy phạm hai tội rất trọng cùng bởi hai tội ấy mà làm cho thầy chịu cực khổ mười năm nay, tôi cúi lạy thầy! Nay mai thì thầy sẽ về cùng Chúa cho nên tôi giám đến mà tỏ ra cùng thầy sự thiệt hại tôi đã làm cho thầy phải chịu, mà xin thầy hãy theo gương Chúa mà lấy lòng thương xót tha sự tội ấy cho một người đã có lòng thật thà mà ăn “năng cùng đền tội mình.
“Lạy thầy tôi là một người đờn bà tội lỗi dại dột cùng bạc ác lắm; thuở tôi còn xuân xanh thì đã theo đàng tội lỗi mê sa sắc dục thế gian xát thịt, cho đến hai mươi mốt tuổi. Khi ấy tôi ở với ông quan ba kia ở tại đồn Bà-rịa đã đặng ba tháng; rồi qua năm 1871 khi tôi thấy thầy xuống làm thông ngôn tại Bà-rịa thì tôi lại đam lòng mà thương thầy một cách rất lạ lùng lắm. Ban đầu tôi mướn người làm cách nọ thể kia mà đam thầy vô đàng tội lỗi cùng tôi mà tôi thấy thầy khinh dễ chê ghét tôi, thì tôi lại kiếm thế mà oán thù. Tôi đã kiếm cách thế mà hại thầy đã hơn hai tháng, vừa may kế lấy thầy Liểu xuống đây mà mua ngựa; nhơn dịp ấy tôi mới viết hai cái thơ giả chữ thầy Liểu, mà sai người đem giấu hai thơ ấy nơi áo bạn thầy, rồi tôi gởi một cái thơ khác cho thầy mà cáo gian hai người nhơn đức ấy.
“Bây giờ thầy biết rõ ràng rằng: Bạn thầy cùng thầy Liểu là ngươiụ vô tội mà đã bị chết hoan vì tôi. Cho nên tôi lạy xin thầy tha tội cho tôi, thì Chúa cũng sẽ tha tội cho thầy.
“Tôi chẳng dám viết tên tôi vào thơ nầy; tôi xin thầy hỏi cha sở Bà-rịa thì thầy sẽ biết tên người đờn bà tội lỗi ấy là ai.”
Qua năm sau, là 1885 nhằm ngày bãi trường, tôi xuống Bà-rịa một lần nữa mà thăm bà con cùng cha sở Bà-rịa.
Ngày kia tôi đi cùng cha sở ra đất thánh mà viếng nhà thờ Tử-đạo, vì nơi ấy có ông bà tôi nằm đó. Khi tôi ra khỏi nhà thờ thì tôi thấy có một cái mồ gần một bên có cây thánh giá, có đề chữ mà mưa đã làm lu hết còn sót bốn chữ: 27 janvier 1884 mà thôi; tôi hỏi cha rằng: “Mồ ấy là mồ ai?” Cha sở trả lời rằng: “Mồ ấy là mồ thầy kia đã phạm tội trọng lắm, mà khi gần qua đời đã ăn năn tội một cách rất trọn lành cho nên bây giờ ở tại nước thiên đàng chẳng sai?” Tôi hỏi cha rằng: “Có phải là mồ thầy Phiền chăng?” Cha sở vừa ừ; thì tôi quì gối nơi mồ mà đọc rằng: “Chúng tôi cậy vì danh Chúa nhơn từ cho linh hồn Lazaro Phiền đặng lên chốn nghỉ nghơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng.” trong ngục thuở bắt đạo khi Tây qua, thì tôi đã nghe bà già tôi nói lại nhiều lần; vì bà già tôi khi ấy cũng bị bắt bị đốt tại Bà-rịa song đã trốn ra khỏi. – Đã hai mươi năm nay mà bốn chữ “Biên-hoà Tả-đạo” cũng còn rõ ràng nơi mép tai như mới khắc vậy.
------
[1] Nhà thờ những kẻ Tử-đạo tại Bàrịa là nhà thờ nhỏ cất nơi mồ chôn xương
những kẻ chịu đốt tại Bàriạ. Trong nhà thờ ấy, ở giữa có một cái mồ nơi đầu mồ
có một cái bàn thờ, nơi mồ ấy thì có sáu câu như vầy:
Ba trăm bổn đạo xác nằm đây
Những trông sống lại hưởng phước đầy
Vì chúa tù lao dư ba tháng,
Cam lòng chịu đốt chết chỗ nầy,
Lập mồ táng chung vào một huyệt,
Giáo nhơn coi đó nhớ hằng ngày.
Những trông sống lại hưởng phước đầy
Vì chúa tù lao dư ba tháng,
Cam lòng chịu đốt chết chỗ nầy,
Lập mồ táng chung vào một huyệt,
Giáo nhơn coi đó nhớ hằng ngày.
[2] Truyện
thầy tu thuật lại sau nầy về sự giam cầm
-
0 –
Hầu hết những nhà nghiên cứu về văn học Việt Nam, đều nhận định rằng "Truyện Thầy
Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quản, là quyển tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam,
viết theo hình thức Tây phương. Ông đã viết tiểu thuyết bằng văn xuôi đi trước
thời đại vài ba thập kỷ, trong khi chữ quốc ngữ chưa được phổ biến rộng rãi, người
đọc chưa thể kịp thời thưởng thức văn chương của ông thời bấy giờ, người ta mới
bắt đầu thưởng thức truyện Tàu, truyện diễn ca như "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu... Tuy nhiên, lần đầu tiên ấn hành
3 ngàn bản và 2 thập kỷ sau đã tái bản đến lần thứ ba, điều này chứng tỏ tiểu
thuyết của Nguyễn Trọng Quản sớm được ưa chuộng mặc dầu kỹ thuật dựng truyện còn vài khuyết điểm.
Tài liệu tham khảo:
- Nguyễn Trọng Quản Web: brt.vn
- Truyện Thầy Lazaro Phiền Web: truyenthong.org
- Truyện Thầy Lazaro Phiền Web: truyenthong.org
Lexington,
KY - 080714
No comments:
Post a Comment