Pages

Tuesday, May 31, 2016

Vài chuyện đầu ngày



Sáng nay, cũng như mọi ngày, tôi có thói quen đọc thư, xem có chi lạ do bạn bè gửi đến, hôm nay có một cái thư của anh bạn từ thời trung học, là thân phụ của cố đạo diễn Huỳnh Phúc Điền, trả lời cho tôi biết việc tôi nhờ anh ta hỏi dùm ca sĩ Đình Văn sinh năm nào ? Tại đâu ? Anh ta gọi điện thoại cho ca sĩ Đình Văn, đã hỏi và cho tôi biết Đình Văn sinh năm nào, nhưng quên đã không hỏi Đình Văn sinh tại đâu ? Mặc dù hiện nay Đình Văn sống ở Sàigòn.

 Theo số điện thoại anh ta đã cho, tôi gọi mấy lần đầu dây bên kia có nhạc chờ, nhưng Đình Văn không bắt máy, tôi có nhờ một anh bạn nhạc sĩ ở San Jose hỏi dùm, không ngờ anh nầy đang về thăm Việt Nam, cũng đã gọi Đình Văn mấy lần không được.

Thư thứ hai của một chị, là vợ của anh bạn, ngày anh ta lìa đời tại một bệnh viện, tôi với người bạn khác phải đến nơi để lo liệu thủ tục, vì ngoài vợ con, người chết “tứ cố vô thân”. Chị nầy gửi cho bài đọc trên báo Người Việt: Câu chuyện một ngôi đền của tác giả Lê Phan. Bài báo nầy cho chúng ta biết ngụ ý vì sao Tổng thống Mỹ Barack Obama đến thăm đền Ngọc Hoàng.
Nói tới đền Ngọc Hoàng, cũng như tác giả, tôi có nhng thời gian sống ở gần đây, đền Ngọc Hoàng nay là chùa Phước Hải nằm trên đường Mai Thị Lựu, trước 1975 là đường Phạm Đăng Hưng, đầu đường có Tu viện Francisco ngay góc đường Nguyễn Đình Chiểu – Mai Thị Lựu, vào khoảng năm 1956 đến 1958, tôi từng ở tại số 2 Mai Thị Lựu, đối diện với Tu viện Francisco, năm ba ngày đi chợ Dakao ở cuối đường, trên đường nầy có đền Ngọc Hoàng, cạnh chợ Đakao có ngôi mộ của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, tại đây có quán bánh ướt nổi tiếng, đó là “Bánh ướt Tây Hồ”, cũng như ban đêm có “Bánh ướt Thanh Trì” ở đường Phan Đình Phùng, Bàn Cờ vậy. Ban đêm, thỉnh thoảng chúng tôi gồm vài ba người bạn, đi bộ đến gần chợ có một cửa hàng sản xuất “kem Eskimos”, thời đó ăn kem nầy là ngon nhứt vì bên ngoài có bao một lớp chocolate.
Đền Ngọc Hoàng gần Trường dạy Anh văn Trần Gia Độ, nằm giữa khoảng đường Điện Biên Phủ và đường chạy qua Cầu Sắt, vì nó có vẻ hoang vắng và kiến trúc không thanh thoát cho nên đi qua lại nhiều lần, chúng tôi chỉ ghé ngang có một đôi lần, trong chùa không có thờ Phật nên cũng không có chi gây ấn tượng. Sau nầy những năm 1970 – 1975, tôi đổi về dạy ở Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ số 55C đường Tự Đức, đến năm 1981-1983 tôi bị thuyên chuyển về Trường Kỹ thuật Nghiệp vụ Công nghiệp số 2 Mai Thị Lựu - thật ra nó cùng chung một cơ sở, nhưng địa chỉ khác nhau như 48 Phan Đình Phùng nay là Nguyễn Đình Chiểu, 2 Phạm ăng Hưng nay là Mai Thị Lựu và 55 C đường Tự Đức, vốn là cơ sở của Nha kỹ Thuật Học vụ thuộc Bộ Giáo Dục.
Nay tôi mới biết, nó là ngôi đền của Thiên Địa Hội, hội nầy của người Hoa, vốn là hội nhừng người “Phản Thanh, phục Minh”, sau hội thu nạp những người Việt Nam, Thiên Địa hội Việt Nam là hội của những người Việt Nam, chống nhà cầm quyền Pháp hay thực dân Pháp, đã thôn tính đất nước Việt Nam.
Bài diễn văn của Tổng Thống Mỹ phát biểu tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc gia Mỹ Đình, 57 đường Phạm Hùng, HàNội ngày 24-5 và chuyến viếng thăm chùa Phước Hải hay đền Ngọc Hoàng ở Dakao, Sàigòn đều là nhng sự kiện mang nhiý nghĩa cho dân chúng Việt Nam ở trong nước.
Cùng chị nầy có gửi cho tôi một bài đọc Người bạn lạ đời của Kha Tiệm Ly. Tác giả phê phán những người lợi dụng tín ngưỡng là các nhà sư để hưởng thụ những tiền tài của đàn na tín thí, nó cng không khác với các nhà văn chuyên viết bài ca tụng người khác để được trả thù lao hưởng lợi. Theo tôi tìm hiểu Kha Tiệm Ly tên thật là Thái-Quốc-Tế, sinh năm 1946 tại Xã An-Thuận, huyện Thạnh-Phú, tỉnh Bến-Tre. Đương-sự viết báo tại Saigon khi còn rất trẻ và có nhiều bút hiệu khác nhau như : Liêu Tấn Chương, Vũ Chương, Kha Tiệm Ly, Nam Kha, Thái Quốc Tế….Hiện nay Kha Tiệm Ly sống tại số 99/5 Đinh Bộ Lĩnh, P2, thành phố Mỹ Tho và viết cho nhiều ‘’website lề phải’’ cuả CS ở trong và ngoài nước. Trong cuộc tranh chấp giữa Trung Cộng và CSVN, Kha Tiệm Ly sáng tác một số bài phú có tên là Điểm Mặt Quân Thù Phú, Hoàng-Sa Nộ Khí Phú, Hoàng Sa Tiếu Ngạo Phú… đăng trên khá nhiều website ở trong nước mang nội dung nhắn nhủ Trung Cộng đừng khiêu khích dân tộc Việt Nam anh hùng để phải chịu thất bại như trong quá khứ lịch sử Việt Nam từ hàng ngàn năm qua, đồng thời ca ngợi Hồ chí Minh.
Có thể người viết chưa biết rõ Cao Tiệm y là ai, nên gửi cho tôi bài viết, gửi đúng địa chỉ nhưng nhầm đối tượng.
Lại có một người quen hỏi địa chỉ của tôi – Anh ta trước kia làm ở USCC, những năm tôi mới qua Mỹ, anh ta tìm việc làm cho tôi mấy trong mấy năm đầu, rồi anh ta đổi đi Texas cũng đã trên 10 năm, nay chắc trở lại chỗ cũ nầy, muốn tìm thăm vì tôi đã thay đổi nhà từ năm 2004. Mấy hôm nay, tôi được con gái rước sang nhà ở thành phố khác, tiếc quá không có dịp gặp lại người bạn thuở mới tới đất tạm dung nầy, để ôn lại những kỷ niệm xưa, nào là lập hội Phật giáo, tạo mãi và kiến thiết chùa, lập Hội cựu tù nhân chánh trị … Mới đó mà đã 25 năm buồn vui trôi qua, nhiều người đã nằm xuống, nhắm mắt chỉ mơ  được ngày về, phải gửi thân nơi xa xứ.


Thursday, May 26, 2016

Phạm Duy




(1921-2013)


Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 tại số 40 Rue Takou, nay là Phố Hàng Cót, Hà Nội, trong một gia đình văn nghiệp. Cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới đầu thế kỷ 20. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine.

Lúc nhỏ, ông là cậu bé hiếu động, tính tình "văng mạng, bất cần đời", tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò, và mê nhạc. Ông biết dùng guitar, mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó còn tiếp thu các nhạc điệu dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh… Ngoài nền văn hóa mang tính nhân bản của Pháp, ông còn được tiếp xúc với văn hóa cổ truyền, qua các tác phẩm của cha là  Phạm Duy Tốn, hay cuốn Tục ngữ phong dao của người anh họ Nguyễn Văn Ngọc.
Về học hành chính quy, Phạm Duy chỉ có bốn năm tiểu học và một năm trung học, nhưng những bài học trong các sách Quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, đã in đậm trong tâm hồn ông trước khi bước vào xã hội, hình thành cho ông một quan niệm về "đức độ của con người Việt Nam" mà ông nhấn mạnh là "con người ở nông thôn", chứ không phải ở thành thị. Ông học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi. Tính ông nghịch ngợm, học không giỏi, thường hay bị phạt. 

Năm 1934, 13 tuổi ôngvào được lớp nhất, ông mới học giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.

Năm 1936, ông vào học trường Thăng Long, một trường trọng điểm của thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có các nhân vật nổi tiếng như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến. Trong đám bạn cùng lớp có người sau này trở thành nhà thơ như Quang Dũng. Một năm học trung học giúp ông hấp thụ thêm những cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre... 

Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học với thầy Tô Ngọc Vân, cùng lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Tuy nhiên ông sớm nhận ra mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa. Ông cũng trải qua nhiều công việc khác như phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, coi sóc trang trại... tại nhiều tỉnh thành, nhưng đều bỏ nghề và dời chỗ ở sau một thời gian ngắn. Tuy rằng không có nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau cũng là những chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau này. Cùng với giai đoạn lang thang vô định này, ông cũng dần nhận ra niềm đam mê âm nhạc của mình. Phạm Duy tự mày mò học nhạc cổ điển, rồi tập sáng tác. Trong cuộc đời của mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc nào. 

Năm 1941, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc. Thời kỳ này, ngoài việc cùng Văn Cao la cà các chốn ăn chơi, thì ông cũng giúp đỡ cho Văn Cao trong việc soạn nhạc, cùng Văn Cao sáng tác các tác phẩm Bến xuân, Suối mơ.

Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là hái mơ, phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào Tân nhạc bắt đầu nở rộ.

Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, ngày Nhật đảo chính Pháp, ông cùng hai kép trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi đang lưu diễn ở Cà Mau. Cũng năm này ông theo kháng chiến, trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó.

Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng tại chiến khu Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng Nguyễn Sơn.

Năm 1951, do không phục Việt Minh, ông bỏ về Hà Nội. Sau khi sinh con đầu lòng Duy Quang, ông đưa gia đình di cư vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat, Sài Gòn trong 120 ngày. 

Năm 1953, ông qua Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, tại đây ông quen với Trần Văn Khê, người sau này trở thành giáo sư. Hai năm sau, ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau hiệp định Genève. Từ đó ông ở miền Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng. Thời gian này ông cũng có những hoạt động trong ngành sân khấu và thông tin đại chúng, như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với đài Phát thanh.

Năm 1956, xảy ra vụ ngoại tình giữa ông và người vợ của em vợ, vụ việc trở thành một đề tài gây xôn xao trên các báo chí Sài Gòn và cả Hà Nội. Đây là một "mối tình cấm", "cả gan" luôn làm ông "buồn rầu khi phải nhắc lại" vì đã làm buồn lòng người vợ, người em vợ, và vì biết rằng những đổ vỡ kia không thể hàn gắn được". Sau vụ tai tiếng trên, ông không còn hợp tác với ban hợp ca Thăng Long nữa. Trong lúc tinh thần suy sụp, ông đi vào một mối tình đặc biệt với Alice, con gái của Helen - tình nhân cũ của ông. Đây là mối tình "giữa hai tâm hồn", "không đụng chạm thể xác", được xây dựng trong 10 năm và chính là nguồn cảm hứng lớn để ông viết nên nhiều tác phẩm nhạc tình giá trị, như Chỉ chừng đó thôi, Thương tình ca...

Gia đình ông chuyển đến căn nhà nhỏ ở cư xá Chu Mạnh Trinh ở ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở, như gia đình Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc, Trần Ngọc, Hoàng Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh. Thời gian này ông hay lui tới quán La Pagode, gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu... Ông được Võ Đức Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan

Thập niên 1960, sau khi Việt Nam Cộng Hoà được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ khác, Phạm Duy được cử đi Philippin, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với ít nhiều kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ... Nhờ đó ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài.

Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn

Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca với Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu... đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó.

Năm 1966, ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản chiến số một của Hoa Kỳ. Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để "giải độc dư luận Mỹ". Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông là ca khúc ''Kể chuyện đi xa''. Ông cũng hát nhiều ca khúc phản chiến tại các show truyền hình, sân khấu ở Mỹ.

Cuối thập niên 1960, ban nhạc gia đình "The Dreamers" của các con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền tác quyền, trở nên giàu có.

Từ 1970 tới 1975, với nhiều diễn biến lớn diễn ra tại Việt Nam, đời sống cũng như công việc của ông cũng có nhiều bất ổn. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, đài phát thanh của Mặt trận giải phóng miền Nam cho đăng tuyên bố tử hình vắng mặt Phạm Duy và hai người khác vì thái độ chống cộng. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, trước việc quân Việt Nam dân chủ cộng hòa vào miền Nam, Phạm Duy quyết định đưa gia đình di tản ra nước ngoài. Ngày 28 tháng 4, ông và vợ, hai con gái được máy bay của Mỹ đem đi.

Trải qua nhiều khó khăn của hành trình di tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California. Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức cũng như tham gia các đêm nhạc về mình.

Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.

Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.

Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang, Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.

Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca sĩ Duy Quang. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà riêng và ông được an táng tại Công viên Nghĩa trang Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013. Hưởng thọ 92 tuổi. 

Tính cho tới tháng 1 năm 2014, có 244 ca khúc được cấp phép lưu hành (trong số đó có 53 ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Việt), trong số khoảng một ngàn sáng tác của ông.

Giáo sư Trần Văn Khê viết về Phạm Duy:

… Duy đã làm những cuộc phiêu lưu "chiêu hồn nhạc" hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy "chiêu" được "hồn" ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng "mê" lối "chiêu hồn" của Duy rồi chăng? Thành công - đối với Duy mà nói - không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật. Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau "chịu" đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc... cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.

Ca khúc:

- Áo anh sứt chỉ đường tà
- Bà mẹ Gio Linh
- Bà mẹ phù sa
- Bên cầu biên giới
- Bên ni bên nớ
- Bến xuân
(viết chung với Văn Cao)
- Bao giờ biết tương tư
- Cây đàn bỏ quên
- Chiêu Quân Cống Hồ
(ý thơ Nguyễn Du)
- Chiều về trên song
- Con đường cái quan
- Con đường vui (viết chung với Lê Vy)
- Chuyện tình buồn
- Chỉ chừng đó thôi
- Còn chút gì để nhớ
- Dạ lai hương
- Đạo ca
- Đường chiều lá rụng
- Đưa em tìm động hoa vàng
- Đừng xa nhau
- Đường Lạng Sơn
- Giọt mưa trên lá
- Giải thoát cho em
- Giờ thì em yêu
- Giọt chuông cam lộGọi em là đóa hoa sầu
- Hạ hồng
- Hán sở tranh hùng
(ý thơ Nguyễn Du)
- Hẹn hò
- Kỷ vật cho em
- Kỷ niệm
- Mộ khúc
- Mẹ Việt Nam
- Nếu một mai em sẽ qua đời
- Nha Trang ngày về
- Nhớ bạn tri âm
(viết chung với Phạm Đình Chương)
- Ngày xưa Hoàng Thị
- Ngày đó chúng mình
- Ngày em hai mươi tuổi
- Ngày sẽ tới
- Ngày tháng hạ
- Ngày trở về
- Ngày xưa
- Nghìn năm vẫn chưa quên
- Nghìn thu
- Ngồi gần nhau
- Ngọn trào quay sung
- Ngụ ngôn mùa đông
- Ngựa hồng
- Người lính bên tê
- Người lính trẻ
- Người tình
- Người tình già trên đầu non
- Người về
- Người việt cao quý
- Ngậm ngùi
- Ngày đó chúng mình
- Nhạc tuổi xanh
- Phố buồn
- Quê nghèo
- Rong ca
- Ta yêu em lầm lỡ
- Tâm ca
- Thiền ca
- Thông điệp mùa xuân
- Thương ca chiến trường
- Thương tình ca
- Tình ca
- Tình hoài hương
- Tiếng thu
- Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
- Trường ca Con đường cái quan
(từ Miền Bắc, qua Miền Trung, vào - Miền Nam)
- Trường ca Hàn Mặc Tử
- Trường ca Mẹ Việt Nam
- Tục ca
- Về miền Trung
- Vần thơ sầu rụng
- Quán bên đường
- Quán Thế Âm
- Răn
- Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
- Rong khúc
- Ru con
- Suối mơ
(viết chung với Văn Cao)
- Thu ca điệu ru đơn
- Thu chiến trường
- Thương ai nhớ ai
- Thương tình ca
- Thuyền viễn xứ
- Tiễn em
- Tiếng bước trên đường khuya
- Tiếng hát to
- Tiếng hát trên song
- Tiếng hát trên sông Lô
- Tiếng hò miền Nam
- Tiếng sáo Thiên Thai
- Tiếng thời xưa
- Trả lại em yêu
- Tư mã phượng cầu
(ý thơ Nguyễn Du)
- Viễn du
- Vết thù trên lưng ngựa hoang
(viết chung với Ngọc Chánh)
- Việt Nam, Việt Nam
- Xin em giữ dùm anh
- Xin tình yêu Giáng sinh
- Xuân
- Xuân ca
- Xuân hành
- Xuân hiền
- Xuân thì
- Xuất quân
- Yêu em vào cõi chết
- Yêu là chết ở trong lòng
- ………..

Tác phẩm:

- Những điệu hát bình dân (Đất Mới , Thanh Hoá, 1950)
- Tình ca (tự xuất bản - Sài Gòn, 1969)
- Một mẹ trăm con (Bộ Thông tin, Sài Gòn, 1962)
- Trường Ca Con đường cái quan (Sáng dội miền Nam - Sài Gòn, 1960)
- Mười Bài Tâm Ca (Lá Bối, Sài Gòn, 1965)
- Ngày đó chúng mình yêu nhau (An Tiêm, Sài Gòn, 1968)
- Nghìn trùng xa cách (An Tiêm, Sài Gòn, 1968)
- Hát vào đời (An Tiêm, Sài Gòn, 1969)
- Vòng tay thế giới (Quảng Hóa, Sài Gòn, 1969)
- Giết người trong mộng (Trí Dũng, Sài Gòn, 1970)
- Ca khúc cho ngày mai (Quảng Hóa, Sài Gòn, 1970)
- Cho nhau riêng nhau một đời (Khai Phóng, Sài Gòn, 1970)
- Giọt lệ cho tình ta (Chân Mây, Sài Gòn, 1970)
- Mười bảy tình ca bất tử (Thương Yêu - Sài Gòn, 1971)
- Đạo ca (Văn học sử, Sài Gòn, 1971)
- Nhi đồng ca (Cục Tâm lý chiến, Sài Gòn,1971)
- Kỷ vật chúng ta (Gìn vàng Giữ ngọc, Sài Gòn, 1971)
- Thương ca chiến trường (Gìn vàng Giữ ngọc, Sài Gòn, 1971)
- Chiến ca mùa hè (Tiên Rồng, Sài Gòn, 1972)
- Con đường tình ta đi (Gìn vàng Giữ ngọc, Sài Gòn, 1973)
- Tuyển tập nhạc tiền chiến (trong đó có nhạc Phạm Duy - Kẻ Sĩ, Sài Gòn, 1968)
- Tuyển tập 20 năm nhạc tình (trong đó có nhạc Phạm Duy - Khai Phóng , Sài Gòn, 1970)
- Hoàng Cầm ca (Hội văn hoá VN tại Bắc Mỹ, Hoa Kỳ, 1984)
- Thấm thoát mười năm (Hội văn hoá VN tại Bắc Mỹ, Hoa Kỳ, 1984)
- Mười bài rong ca (PDC Productions, Hoa Kỳ, 1988)
- Mười bài tâm ca (PDC Productions, Hoa Kỳ, 1990)
- Bầy chim bỏ xứ cành vàng (Hoa Kỳ, 1990)
- Một đời để yêu (30 tình khúc, Nam Á , Paris, 1989)
- Vườn thơ cánh nhạc (30 bài thơ phổ nhạc, Nam Á - Paris, 1989)
- Tình si (30 tình khúc, Nam Á, Paris, 1992)
- Tình ca quê hương (30 bài ca quê hương, Nam Á - Paris, 1992)
- Lịch sử trong tim (30 bài ca kháng chiến - Nam Á - Paris, 1992)
- Hát trên đường về ( Nam Á, Paris, 1992)
- Niềm vui còn đó (Hồng Lĩnh, Hoa Kỳ, 1994)
- Tạ ơn đời (Hồng Lĩnh, CA, Hoa Kỳ 1994)
- Trường ca Mẹ Việt Nam (Phủ Đặc ủy Chiêu hồi, Sài Gòn, 1960)
- Trường ca Mẹ Việt Nam (L
ời Việt-Pháp, Nam Á, Paris, 1985)
- Dân ca - Folk Songs (Việt-Anh, USIS, Sài Gòn, 1968)
- Hoan ca (Việt-Anh, Du Ca, Sài Gòn, 1973)
- Hát trên đường tị nạn (Việt-Anh, Đông Phương , Hoa Kỳ, 1979)
- Mười bài ngục ca (Việt-Anh, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoa Kỳ, 1980)
- Hai mươi bài ngục ca (Việt-Anh, Hội Văn hóa Bắc Mỹ, Hoa Kỳ, 1980)
- Ngục ca (Việt-Anh-Pháp, Quê Mẹ - Paris, 1982)
- Dân ca - Folk song - Chant populaire  PDC Musical Productions, Hoa Kỳ, 1980. 
- Trường ca Con đường cái quan (Anh-Việt), PDC Musical Productions, Hoa Kỳ, 1980)
- Lược khảo về dân nhạc Việt Nam. (Sài Gòn, Hiện Đại, 1970)
- Music of Viet Nam. (S.I.U, Hoa Kỳ, 1975)
- Tự học guitare (3 tập, Phạm Duy Enterprises, Hoa Kỳ, 1976)
- Hồi ký (3 tập PDC Productions, Hoa Kỳ, 1989, 1990, 1991)
- Ngàn lời ca  (PDC Productions, Hoa Kỳ, 1987, 1988)
- Đường về dân ca. (Xuân Thu, Hoa Kỳ, 1990)
- Nửa thế kỷ tân nhạc (bài báo), Nguyệt san Văn Học, Hoa Kỳ.
- Những năm đầu của tân nhạc (bài báo, Hợp Lưu, Hoa Kỳ, 1994)
- Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu  (PNC, Việt Nam, 2005)

Tài liệu tham khảo:

- Phạm Duy Web: Wikipedia

Trường ca Con đường cái quan - Ban hợp xướng Ngàn Khơi trình bày

https://www.youtube.com/watch?v=UMuW2WMUJgg




(Xem tiếp Nguyễn Thiện Tơ)