Pages

Tuesday, June 26, 2018

Tìm hiểu về Sân khấu Cải lương 8


Sau khi viết xong quyển Tìm hiểu về Cải lương được 704 trang, tôi nghĩ là quyển sách đã hoàn thành, nhưng trong nhng ngày đi nghĩ Hè ở bờ biển South Carolina, tôi nghĩ sao mình không tìm vài tuồng Cải lương đã được thu Video, để cho độc giả muốn thưởng thức, có thể xem để biết tài năng của soạn giả và nghệ sĩ.

Từ ý nghĩ đó, tôi đã đưa vào phần soạn giả một số vở tuồng Cải lương được thu Video, đã được một số người mến mộ Cải lương đưa lên mạng. Trước tiên tôi đã tìm được Đời Cô Lựu của soạn giả Trần Hữu Trang, trong đó có các nghệ sĩ tài danh như Ba Vân, Phùng Há, Út Trà Ôn, Hoàng Giang … Vì vở tuồng quá dài, người ta phải chia thành nhiều đoạn để đưa lên Mạng, tôi chỉ lấy phần cuối cùng có cả Phùng Há, Út Trà Ôn, Hoàng Giang, Thanh Nga, Hoàng Ấn. Hình ảnh không được rõ vì phim trắng đen đã xưa. Tiếc rằng có nghệ sĩ Ba Vân, Nam Hùng, Văn Khỏe ở phần trước không có trong đoạn được chọn.

Tôi cố tìm vở tuồng Con gái chị Hằng có Hữu Phuớc, Thành Được, Thanh Nga nhưng rất tiếc không thấy vở tuồng nầy có trên Mạng.

Tôi cũng muốn tìm vở tuồng Tấm lòng của biển, trong đó có Thanh Thanh Hoa, Hoài Trúc Phương nhưng lại cũng chẳng có trên Mạng.

Trong những vở tuồng tôi tìm được, đưa vào trong sách, tôi thấy có 3 vở tuồng hài lòng đó là vở Đời cô Lựu của soạn giả Trần Hữu Trang, Tuyệt tình ca của Hoa Phượng - Ngọc Điệp và Nửa đời hương phấn của Hà Triều – Hoa Phượng. Có lẽ nên nhắc lại vở Đời cô Lựu có các diễn viên Ba Vân, Phùng Há, Út Trà Ôn, Hoàng Giang, Nam Hùng, Hoàng Ấn, Văn Khỏe.

https://www.youtube.com/watch?v=eDlryT84zx8&list=PLKW-JRq6XcxXY4Jq0P1ZjOUYjfmW93mvl&index=5
Đời Cô Lựu

Còn Tuyệt tình ca có Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thanh Sang, Phượng Liên, Thanh Nguyệt.

https://www.youtube.com/watch?v=VegUjLfxypY&t=1203s
Tuyệt tình ca

Đặc biệt Nửa đời hương Phấn với thành phần nghệ sĩ gạo cội như Thành Được, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Phượng Liên, Hồng Nga, Bảo Quốc, Hương Lan. Đây không phải là trình diễn trên sân khấu, nhưng là trình diễn ở nhà hàng nào đó tại Cali, tiếc là còn một đoạn ngắn cuối cùng bị mất. Video nầy do Nang Tia đưa lên youtube ngày 5 tháng 7 năm 2016. Không rõ thu vào lúc nào, không lẽ trước năm 2003 là năm Thành Được ca bài Giã từ sân khấu trong Video của Trung tâm băng nhạc Asia thu hình tại Texas ?

https://www.youtube.com/watch?v=Ztmd-lDFTL4
Nửa đời hương phấn
https://www.youtube.com/watch?v=Ztmd-lDFTL4

Cho nên tôi muốn giới thiệu những Video tôi đã ưng ý, chọn đưa vào sách, quý độc giả nào muốn thưởng thức có thể xem tại đây. (Nhấp chuột vào hình hay dòng Link)

866427062018




 


Tìm hiểu về Cải lương

http://ahvinhnghiem.org/eBook/TimHieuVeCaiLuongSach1.pdf

Monday, June 18, 2018

Trở lại Hilton Head Island, South Carolina


Mấy năm trước, chúng tôi đã tới Hilton Island nghỉ hè gần tuần lễ, năm nay các con chúng tôi lại tổ chức đi nghỉ hè tại đây, lấy nhà nghỉ tại SeaCrest resort cũng nằm kề nơi chúng tôi nghỉ hè mấy năm trước.

Chúng tôi sau khi ổn định chỗ ở xong trời đã nhá nhem tối, dĩ nhiên cũng có thể đi bộ hay đi tắm, nhưng nghỉ đi cả ngày mệt nhọc, nên chúng tôi hẹn sang hôm sau sẽ đi bộ dọc bờ biển và sẽ tắm biển.

Tại nhà nghỉ chúng tôi nhìn ra bờ biển, thấy vẫn còn ít người đi tắm, tản bộ hoặc đi xe đạp dọc bờ biển, cảnh trời chiều trông mọi sinh hoạt đều chậm hơn buổi sáng sớm.


Sáng hôm sau, chủ nhật 17-6-2018 cũng là ngày Father’s Day, sáng sớm chúng tôi ra bờ biển đi bộ.


Buổi sáng vẫn ít người tắm, nhiều người đi tản bộ, hóng gió biển, dựng lều cho gia đình và bạn bè cùng nghỉ dưỡng.

Dĩ nhiên nhiều người chụp ảnh với điện thoại thông minh của mình, tự chụp để ghi lại hình ảnh kỷ niệm trong chuyến đi chơi.

Có vài người câu cá, có vài người dùng máy dò tìm để mong tìm được nữ trang khi người ta tắm biển bị đánh rơi. Đúng là họ mò kim đáy biển, nhưng chắc họ có dò tìm được, cho nên mấy năm trước đã thấy, năm nay cũng thấy. Một người câu cá được 2 con cá mập con, không phải nó ăn mồi mà nó bị lưỡi câu móc vào thân nó.


Người câu cá sau khi dùng kềm kéo lưỡi câu ra khỏi thân cá, đưa thân cá cho mọi người hiếu kỳ xem, nhận rõ cái miệng cá mập, xong ông ta ném cá ra biển, rồi thu dọn cần câu, có thể buổi câu cá của ông ta đã xong.

Một chỗ khác có nhiều người nam, nữ đứng thành hàng ngũ trật tự tập thể dục, có một huấn luyện viên điều khiển, không rõ đây là một nhóm đi nghỉ hè hay là tập thể dục tự phát, nhưng mấy năm trước tôi đã thấy, năm nay tôi cũng thấy như vậy.


Buổi trưa chúng tôi đi tắm, bãi tắm đông người, trên bờ biển có nhiều cây dù che cho du khách nằm nghỉ trên chiếc ghế dựa.


Ở phía đầu nọ.


Ở phía đầu kia đều đông người tắm, trẻ con cũng như người lớn, người ta tắm biển cũng như phơi nắng.



Buổi chiều chúng tôi đi ăn ở quán Cà-phê Phở, cách xa SeaCrest vào khoảng 8 miles, đây là quán ăn của người Việt Nam, có cà-phê, có Phở, hủ tiếu, mì … Tôi hỏi một anh người Việt, hình như là chủ quán, anh luôn vồn vả đón chào khách, hầu hết đều là người Mỹ. Anh cho biết anh ở Bình Giả, Bà Rịa, nói tới Bình Giả tôi nhớ tới chiến trận xưa, nhưng không rõ đích xác nó ở nơi nào trong tỉnh Bà Rịa và chiến trận đã xảy ra năm nào.


Hỏi về người Mỹ ưa thích món ăn chi ? Anh ta cho biết Mỹ thích ăn bánh xèo hay gỏi cuốn, họ thích cuốn cuốn rồi ăn. Còn cà phê họ thích cà-phê phin Việt Nam.


Hilton Head Island là một cù lao nằm sát biển, nên có 1 mặt là bãi tắm, bên trong là nhng song rạch sình lầy, cù lao ầy hình dạnh như chiếc giày, có một con đường đi từ đất liền sang cù lao, phải đi qua 2 cái cầu và qua cù lao rồi có một đoạn phải trả tiền 1.25 dollars.


Đã đến đây 1 lần rồi, nên lần nầy không có nhiều thích thú, nhưng đi nghỉ Hè với các con cháu, tôi nghĩ nên tận hưởng những ngày vui.
866418062018



Sunday, June 17, 2018

Chuyện 3 anh chàng Tân Tỵ


Cách nay chừng 1 hay 2 năm, tôi hỏi chị Nga Phạm một câu hỏi, nay tôi đã quên, hình như tôi đã hỏi Bùi Thế San tuổi chi. Chị Nga trả lời là do tôi quên, có lần chị đã nói 3 anh chàng Tân Tỵ gặp nhau. Hình như ần đó chị Nga đón tôi và Bùi Thọ Thi đến nhà chị, thăm Bùi Thế San. Đó là 3 anh chàng Tân Tỵ, nay thì 2 anh đã về đất Phật. Phúc Trí Bùi Thế San mất năm 2016, Phúc Văn Bùi Thọ Thi vừ mới mấtnăm nay 2018. Tôi hy vọng và cầu nguyện cho 2 anh được vãng sinh về miền Cực Lạc.

Chúng tôi 3 con rắng có những điểm tương đồng:

Cùng đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử Giác Minh, cùng quy y với Hoà Thượng Thích Thanh Thạnh, Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt Tại Miền Nam, Phúc Trí Bùi Thế San, Phúc Văn Bùi Thọ Thi, Phúc Trung Huỳnh Ái Tông cùng là Huynh Trưởng.

Bùi Thế San và Huỳnh Ái Tông là Liên Đoàn Trưởng Gia Phật Tử Giác Minh, Bùi Thọ Thi Liên Đoàn Trưởng Gia Đình Phật Tử Minh Tiến.

Bùi Thế San, Bùi Thọ Thi, Huỳnh Ái Tông cùng định cư tại Hoa Kỳ.

Bùi Thế San, Huỳnh Ái Tông cùng là nhà giáo.

Dĩ nhiên chúng tôi có những điểm dị biệt.

Hôm qua trên đường đi ra biển ở South Carolina, được Trưởng Tuệ Linh báo cho biết anh vừa vào bệnh viện UIC thăm và được biết Phúc Văn Bùi Thọ Thi đã rời bỏ cuộc chơi, về miền đất Phật vào lúc 4 giờ chiều ngày Thứ Sáu 15-6-2018, chờ gia đình có Cáo Phó, Trưởng Tuệ Linh sẽ chuyển đến chúng tôi. Tính theo người Việt, Trưởng Bùi Thọ Thi thọ 78 tuổi.

Rất cám ơn chị Nga chúc sức khỏe cho tôi, tôi cũng hy vọng sống thêm, sống hữu ích cho đời.

866417062018 


 

Friday, June 8, 2018

Tìm hiểu về Cải lương 6 (tiếp theo)


- Kiều Phượng Loan (1951-20 .. )
- Bạch Lê (1951-20 .. )
- Đức Minh (1952-2014)
- Giang Châu (1952-20 .. )
- Hà Mỹ Xuân (1952-20 .. )
- Ngọc Đan Thanh (1952-20 .. )
- Thoại Miêu (1953-20 .. )
- Tuấn Thanh (1953-20 .. )
- Kim Hương (1954-20 .. )
- Thanh Kim Huệ (1955-20 .. )
- Hương Lan (1956-20 .. )
- Phượng Mai (1956-20 .. )
- Hữu Huệ (1956-20 .. )
- Tài Linh (1956-20 .. )
- Bình Trang (1957-20 .. )
- Hương Chung Thủy (1958-20 .. )
- Vũ Linh (1958-20 .. )
- Thanh Hằng (1959-20 ..)
- Linh Huệ (1959-20 .. )
- Phương Hồng Thủy (1960-20 .. )
- Cẩm Thu (1960-20 .. )
- Tuấn Châu (1963-20 .. )
- Thanh Thanh Tâm (1963-20 .. )
- Kim Tử Long (1966-20 .. )
- Thanh Thủy (1966-20 .. )
- Thoại Mỹ (1969-20 .. )
- Chinh Nhân (1970-2016)
- Cẩm Tiên (1970-20 .. )
- Ngọc Huyền (1970-20 .. )
- Thanh Ngân (1972-20 .. )
- Kim Tiểu Long (1975-20 .. )
- Tú Sương (1977-20 .. )
- Bình Tinh (1981-20 .. )

&
Kiều Phượng Loan
Kiều Phượng Loan – Nguyễn Thị Cẩm Loan (1951-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Kiều Phượng  Loan Tên thật là Nguyễn Thị Cẩm Loan, sinh năm 1951 tại Sàigòn, có người chú là danh ca Út Hiền (1940-1986), kép chánh của đoàn Cải lương Hương Mùa Thu, đặt nghệ danh cho chị là Kiều Phượng Loan.

Kiều Phượng Loan sinh ra trong một gia đình khá giả và không ai theo nghề hát. Thân phụ Kiều Phượng Loan có quốc tịch Pháp, làm ở hãng bia “con cọp” của Pháp. Lúc nhỏ chị được ba má cưng chiều, cho học hành tới nơi tới chốn, nhưng đang học lớp đệ tam, lớp 10 sau nầy, chị bị tai nạn xe khá nặng phải nghỉ học một tháng. Khi bình phục không theo kịp bạn bè trong lớp, nên cha mẹ cho Kiều Phượng Loan vô học dự thính lớp diễn viên cải lương tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ, cùng khóa với nghệ sĩ Huỳnh Thanh Trà, Tú Trinh, Mỹ Chi…Được thọ giáo với những nghệ sĩ bậc thầy như Năm Châu, Duy Lân, Kim Cúc…, khả năng ca diễn của Kiều Phượng Loan tiến bộ rất nhanh. Có giọng ca ấm, mượt mà, trầm buồn, truyền cảm mà sang cả, chị còn được học thêm về kỹ thuật thanh nhạc, nên có thời gian chị đi hát phòng trà, thường hát các ca khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Trần Thiện Thanh, Duy Khánh…

Ra trường ở tuổi tròn trăng, năm 1966, ba mẹ chị lập đoàn cải lương Lan Thanh – Kiều Phượng Loan, chị được đánh giá là cô đào chánh triển vọng với vai Phàn Lê Huê trong vở Nữ tướng chinh Tây. Năm 1967, Kiều Phượng Loan nhận lời về cộng tác với đoàn Cải lương Phước Chung. Thời gian ở đoàn Phước Chung, Kiều Phượng Loan là đào chánh trong các vở: Đường gươm họ Lữ, Hồn thiêng sông núi…

Sau biến cô Mậu Thân, chị từ giã đoàn Phước Chung, trở về thành phố chuyển qua hoạt động ở lĩnh vực kịch nói, ca nhạc và đóng phim nhựa trong phim Bão tình với Kiều Chinh, Sóng tình với Thẩm Thúy Hằng, Thùy Liên….

Sau 1975, Kiều Phượng Loan đóng vai chính trong 2 phim nhựa nữa với nghệ sĩ Thương Tín.

 Năm 1977, Kiều Phượng Loan trở lại sân khấu, cộng tác với đoàn kịch Kim Cương, diễn qua các vở: Lá Sầu Riêng, Dưới hai màu áo, Chìa khóa, Hồi sinh và nổi tiếng nhất với vai bác sĩ Xamonova trong vở Tanhia, vở đã được HTV thu hình phát sóng.
Năm 1980, Kiều Phượng Loan cộng tác với đoàn kịch Bông Hồng, diễn trong các vở Nila, Đôi bông tai

Năm 1981, Kiều Phượng Loan “trở về mái nhà xưa” – Sân khấu cải lương, chấp nhận lãnh 40 ngàn một suất trong khi đang “sống khỏe” bên kịch với cát sê 90 ngàn/suất, hát chánh ở đoàn Thanh Minh – Thanh Nga trong các vở: Tiếng trống Mê Linh, Bên cầu dệt lụa, Sau ngày cưới, Thiên Phúc Hoàng đế, Nhiếp chính Ỷ Lan… và lại nổi tiếng như cồn khi đóng vai Nữ Vương trong vở Truyền thuyết về tình yêu. Hát ở sân khấu cải lương  này 7 năm, đến năm 1989, một lần nữa chị trở về đoàn Phước Chung nhiều ân tình, hát chánh vai Thủy Cúc với nghệ sĩ Tuấn Thanh trong vở Ai là thiên tử.

Năm 1991, đoàn Phước Chung có xáo trộn lớn về diễn viên, nhưng chị vẫn ở lại đoàn trong giai đoạn khó khăn và tiếp tục đứng trên sân khấu này, cùng các diễn viên mới về cộng tác như Kim Tử Long, Bảo Trang, Mỹ Chi, Hương Chung Thủy…, hát trong các vở: Mắt em là bể oan cừu, Ông huyện đề…

Năm 1992, chị về đoàn Sông Bé 2 hát chung với đôi nghệ sĩ Vũ Linh – Tài Linh và được khán giả yêu thích trong vở Nặng gánh giang san. Kiều Phượng Loan đã nhiều lần hát trong chương trình Vầng trăng cổ nhạc của HTV từ những số đầu tiên. Chị từng dàn dựng các vở: Truyền thuyết tình yêu, Cơn sóng thần, Vua hóa hổ… vào thập niên 1980. Khán giả còn nhớ nhiều đến chị qua những vở kịch và cải lương trên truyền hình những năm 1980 như Hòn đảo thần vệ nữ, Truyền thuyết tình yêu, Tấm lòng của biển, Tanhia…

Suốt 20 năm nay, sau khi nghỉ hát ở đoàn Sông Bé 2 – khi vừa bước qua ngưỡng cửa tuổi 40 – vì những biến cố trong đời riêng như cái chết của mẹ và anh trai, gia đình ly tán, Kiều Phượng Loan rút lui khỏi các hoạt động nghệ thuật, lui về sống ẩn dật một nách nuôi cha già đau yếu và người con trai duy nhất đang tuổi ăn tuổi lớn.

Tháng 9 năm 2010, được sự động viên của Vũ Linh, Kiều Phượng Loan bất ngờ tái xuất trong live show kỷ niệm 40 năm theo nghề hát tại rạp Hưng Đạo, với sự tham gia của Lệ Thủy, Vũ Linh, Kim Tử Long, Tuấn Thanh, Kim Hương, Cẩm Thu, Tú Trinh, Hoài Linh… Kể từ đó, chị đã có 6 lần xuất hiện trong chương trình sân kh
ấu cải lương định kỳ chiều chủ nhật hàng tháng của NVH Thanh Niên, đóng trong trích đoạn: Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Truyền thuyết tình yêu, Tìm lại cuộc đời, Nhiếp chính Ỷ Lan…, đóng Lôi Vũ với Vũ Linh, Hoài Linh trong chương trình từ thiện ở rạp Thủ Đô và đi hát sô ở tỉnh… Và giờ đây, sau nhiều năm vắng bóng, chị sẽ tái ngộ khán giả HTV – lần đầu đóng vai thái hậu độc đoán, chuyên quyền trong vở Khi rừng mới sang thu sẽ được truyền hình trực tiếp trong chương trình Ngân mãi chuông vàng. Chị sẽ cùng Hùng Minh làm dàn bao vững chãi cho các “chuông” Võ Minh Lâm, Hồ Ngọc Trinh, Lê Văn Gàn, Mỹ Vân, Lê Minh Hảo…

Năm 2015, Kiều Phượng Loan tâm sự: “Tôi đã bán căn nhà trên đường 3-2 và mua căn nhà ở Gò Vấp được 9 năm nay. Cha tôi đã 94 tuổi, bị liệt nhưng vẫn đỡ ngồi dậy được. Con trai 32 tuổi, làm ở cơ sở điện sắt kế bên nhà, nên có thể về chăm sóc ông thay tôi mỗi khi tôi bận tập tuồng, biểu diễn. Ngày xưa tôi không biết nấu nướng lẫn làm việc nhà, còn bây giờ tôi làm được hết. Thời gian trước tôi bán tiệm tạp hóa, nhưng từ ngày cha bị bệnh, tôi không làm nữa để dành thời gian chăm sóc cha. Bốn anh chị em của tôi ở Úc và Mỹ, ở Việt Nam chỉ còn tôi và một em trai ở đường Lạc Long Quân.”

Tuổi thanh xuân đã qua, không còn là cô đào chánh kiêu sa trên sàn diễn, Kiều Phượng Loan lui về với công việc đạo diễn, dàn dựng và truyền nghề cho nghệ sĩ trẻ. Bà được Trung tâm Tổ chức Biểu diễn và Điện ảnh Tp. HCM mời làm đạo diễn các chương trình “Làn điệu phương Nam và sân khấu lễ hội”. Theo nhận định của đạo diễn Hữu Luân, giám đốc trung tâm, Kiều Phượng Loan rất “mát tay”. Lớp nghệ sĩ trẻ được nữ nghệ sĩ này tiếp thêm “lửa” sẽ ngày càng yêu nghề và sống tử tế với nghề hơn.


Bạch Lê
Bạch Lê (1951-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Bạch Lê sanh ngày 01 tháng 9 năm 1951, là ái nữ của đôi nghệ sĩ tài danh Thành Tôn và Quỳnh Mai mà lịch sử sân khấu cải lương tôn vinh là hai nghệ sĩ thuộc về hàng đại gia của nghệ thuật hát bội và cải lương.

Thân phụ của nghệ sĩ Bạch Lê, nghệ sĩ Thành Tôn sanh năm 1913, có ông cố là bầu Sĩ, ông nội là bầu Luông, cha là bầu Nở, ba đời liên tục là nghệ sĩ, biện tuồng kiêm bầu gánh hát bội Phước Long Ban ở quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.

Nghệ sĩ Thành Tôn, ngoài việc được cha trực tiếp dạy nghề hát, ông còn thụ giáo với ông Nhưng Sửu ở BếnTre. Ông Nhưng Sửu là một nghệ sĩ bậc thầy, nức tiếng qua các loại vai kép võ mặt trắng, kép võ mặt rằn, tướng dữ, thấy rùa được ông bầu Luông gánh Phước Long Ban mời về làm ông Nhưng tức là làm thầy tuồng, thầy dạy hát cho tất cả đào kép trong gánh hát.

Năm 1940, Bầu Luông, ông nội của nghệ sĩ Thành Tôn mất, cha của ông là Bầu Nở vì quá buồn không muốn tiếp tục lèo lái gánh hát nữa nên ông cho rã gánh, Thành Tôn đi hát cho gánh hát Thạnh Hùng của ông Bầu Hùng ở quận Trà Ôn.

Sau đó ông lên Saigon gia nhập gánh hát Tấn Thành Ban của ông Bầu Cung ở đình Nhơn Hòa Cầu Muối, nổi danh qua các vai kép võ mặt trắng Triệu Tử Long, Châu Du, Lữ Bố, Dương Tôn Bảo, Tiết Đinh San. Một năm sau, ông được bà Bầu Thắng mời về hát kép chánh cho gánh hát Bầu Thắng – Vĩnh Xuân Ban cùng với các nghệ sĩ Minh Tơ, Khánh Hồng, Quỳnh Mai…Nghệ sĩ Thành Tôn nổi danh qua các vai Cao Quân Bảo, Địch Thanh, Ngũ Viên Thiệu, Nhạc Lôi…

Nghệ sĩ Thành Tôn có 65 năm hoạt động trên sân khấu hát bội và hát bội pha cải lương. Ông vừa là diễn viên, kiêm soạn giả, kiêm thầy tuồng tức là đạo diễn, ông dàn dựng nhiều vở tuồng của ông sáng tác và những vở tuồng thầy trong ngành nghệ thuật hát bội.

Thành Tôn se duyên cùng Quỳnh Mai, đôi nghệ sĩ nầy sinh ra các con là nghệ sĩ Bạch Liên, Bạch Lê, Bạch Lựu, Bạch Lý, Bạch Long và Thành Lộc

Nữ nghệ sĩ Bạch Lê được cha trực tiếp truyền nghề, cô còn học được ở mẹ là nữ nghệ sĩ Quỳnh Mai, em của nghệ sĩ Minh Tơ, Khánh Hồn những kinh nghiệm diễn xuất các vai đào, thêm vào đó, Bạch Lê được đào luyện trong lớp đồng ấu Minh Tơ, nên khi mới được 8 tuổi, Bạch Lê đã nổi danh trong vai Quách Hải Thọ, tuồng Bao Công xử án Quách Què.

Nữ nghệ sĩ Bạch Lê được nghệ sĩ Phượng Mai xem là nghệ sĩ đàn chị, có nhiều tài năng không kém gì Phượng Mai hoặc các nữ nghệ sĩ hồ quảng tài danh khác mà giới báo chí kịch trường và khán giả ái mộ từng không tiếc lời khen tặng, nhưng phải nói là nữ nghệ sĩ Bạch Lê không gặp thời, hay nói trắng ra là nghệ sĩ Bạch Lê bị gặp quá nhiều khó khăn bất trắc sau thời điểm 30 tháng 4 năm 1975.

Trước năm 1975, nữ nghệ sĩ Bạch Lê là một diễn viên hồ quảng rất được khán giả và giới báo chí kịch trường ái mộ. Cuối năm 1967, Bạch Lê được các ký giả kịch trường đề cử tham dự tranh đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm nhưng tình hình sau Tết Mậu Thân 68 khiến cho ông Trần Tấn Quốc, người chủ giải thưởng Thanh Tâm phải ngưng cuộc tuyển chọn và trao giải.

Đến năm 1972, ông Việt Định Phương, chủ nhân tờ nhật báo Trắng Đen thành lập một giải thưởng huy chương vàng diễn viên xuất sắc trong năm. Điều khác biệt là giải thưởng Thanh Tâm người nghệ sĩ được trao huy chương vàng là do một số ký giả kịch trường và vài soạn giả được mời vào Ban Tuyển Chọn, để bàn bạc và bỏ thăm chọn người nghệ sĩ được trao giải.

Còn Giải thưởng huy chương vàng nghệ sĩ xuất sắc của nhật báo Trắng Đen do ông Việt Định Phương chủ trương, báo Trắng Đen giới thiệu thành tích ca diễn của nhiều nghệ sĩ, do có thành tích hát hay ca giỏi qua các tuồng nổi tiếng trong năm đó, khán giả và độc giả sẽ bỏ phiếu bình chọn bằng cách cắt phiếu trong báo Trắng Đen, điền tên nghệ sĩ mà mình muốn bình chọn vào và gởi đến nhà báo. Nhật báo Trắng Đen tổ chức kiểm phiếu, có mời Trưởng Tòa lại chứng minh, lập biên bản và công bố kết quả.

Năm 1972, Bạch Lê được huy chương vàng vai phụ hay nhất trong năm.

Năm 1973, Bạch Lệ đoạt huy chương vàng diễn viên Nữ hay nhất trong năm. Nghệ sĩ Thanh Sang đoạt huy chương vàng diễn viên Nam hay nhất trong năm.

Năm 1974, Thanh Bạch và Bạch Lê đoạt huy chương vàng đôi diễn viên xuất sắc nhất trong năm.

Sau năm 1975, Bạch Lê hát vai đào chánh trong đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ, nổi danh qua vai Thượng Dương Hoàng Hậu tuồng Câu Thơ Yên Ngựa.

Sau khi hai đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ và Huỳnh Long bị tập thể hóa, các nghệ sĩ thuộc hai gia đình đoàn hát Minh Tơ và Huỳnh Long lần lược rời đoàn hát, đi tìm kế mưu sinh hoặc đi hát chui ở các đoàn hát tỉnh để kiếm sống qua ngày. Thanh Bạch và Bạch Lê gặp nhau trong dịp nầy.

Năm 1986, họ kết hôn với nhau, cùng vượt biên và được định cư tại Paris, Pháp Quốc ngày 27 tháng 3 năm 1990. Bạch Lê và Thanh Bạch khi mới định cư, gặp nhiều khó khăn, phải học Pháp Ngữ để hội nhập với xã hội mới nhưng với quyết tâm cao, Bạch Lê và Thanh Bạch ổn định dược cuộc sống mau lẹ và còn có nhiều hoạt động nghề nghiệp rất thuận lợi.

Khi vừa mới đến Paris, Thanh Bạch và Bạch Lê được Trung Tâm Băng nhạc Phụng Hoàng mời diễn trích đoạn cải lương trong các suất hát ở quận 13 cùng với các nghệ sĩ tân nhạc Khánh Ly, Elvis Phương, Sơn Tuyền, Tuấn Đạt. Sau đó Thanh Bạch và Bạch Lê hát vở Thần nữ dâng ngũ Linh Kỳ với Minh Tâm và Tài Lương. Được mời hát nhiều suất ở các chùa Thiện Hòa tại Đức quốc, chùa Thiện Minh ở Lyon, Pháp quốc nhân các dịp lễ Phật giáo.

Ở nước Anh, Bạch Lê – Thanh Bạch đã diễn trích đoạn tuồng Tống Nhơn TônBàng Quí Phi và diễn trọn tuồng vở Thuyền ra cửa biển với các nghệ sĩ Hà Mỹ Xuân, Hà Mỹ Liên, Phương Thanh, Hương Huyền.

Ở Thụy Điển, Bạch Lê và Thanh Bạch diễn vở tuồng Hàn Mạc Tử với các nghệ sĩ Hà Mỹ Xuân, Mộng Tuyền, Hữu Phước, Kim Chi, Phương Thanh.

Ở nước Bỉ, Bạch Lê Thanh Bạch diễn trích đoạn tuồng hồ quảng Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu.

Bạch Lê và Thanh Bạch đi thăm em gái là nữ nghệ sĩ Bạch Lựu tại Úc Châu, hát nhiều lần các trích đoạn tuồng Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu, Bao Công vô lò gạch, Tống Nhơn TônBàng Quí Phi. Bạch Lê và có ý định xin di cư qua Úc để được sồng gần cô em gái Bạch Lựu, nhưng luật di dân ở Úc khó khăn nên Bạch Lê và Thanh Bạch không muốn làm gián đoạn việc học của con mình nên cả gia đình của họ lại trở về Pháp.

Trong các năm 1995, 96, 97, 98, đôi nghệ sĩ Bạch Lê – Thanh Bạch có nhiều dịp diễn chung với các nghệ sĩ Thanh Tòng, Minh Phụng, Thanh Điền, Thành Lộc, Kim Tử Long, Ngọc Huyền, Hà Mỹ Xuân, Hương Thanh, Kiều Lệ Mai, Minh Đức, Vũ Linh, Tài Linh, Út Bạch Lan, Diệp Lang, Chí Linh, Vân Hà, Thoại Mỹ, Bảo Quốc qua các vở tuồng Câu Thơ Yên Ngựa, Bốn Mùa Mai Nở, Thúy Kiều Từ Hải, Kim Vân Kiều, Bao Công Vô Lò Gạch, Đi biển Một Mình, Ngai Vàng và Tội Ác…

Dù ở Hoa Kỳ, ở Pháp hay Canada, Bạch Lê, Thanh Bạch và tất cả các nghệ sĩ sân khấu cải lương và hồ quảng cũng đều có hạnh phúc to lớn là được nhiều dịp cống hiến cho bà con xem những vở hát hay, những vở tuồng mà một thời đã làm cho họ được vang danh trong giới kịch trường và được muôn ngàn khán giả ái mộ.

Được hát, được ca, được biểu diễn trên sân khấu, chẳng những đó là một niềm vui của nghệ sĩ mà đó cũng là mang lại niềm vui cho khán giả người Việt xa xứ. Đó là một điều may mắn cho nghệ sĩ cải lương. Ở đâu còn hát được cải lương, ở đó có quê hương trong lòng.



Đức Minh
Đức Minh – Lê Văn Nhuận (1952-2014)

Nghệ sĩ Đức Minh tên thật là Lê Văn Nhuận, sanh năm 1952 ở Châu Thành tỉnh Bến Tre. Lúc học cấp 2 em Lê Văn Nhuận buổi sáng đi học, buổi chiều phụ gia đình đưa đò cho khách qua sông, những đêm trăng sáng Nhuận ca nghêu ngao các bài vọng cổ học được trên dĩa hát. Giọng ca trong sáng, cao vút, thu hút sự thưởng thức của khách sang sông và một vài nhà sư đang tu tại Am của Ông Đạo Dừa ở Cồn Phụng. Trong số các tu sĩ đó có một nhạc sĩ cổ nhạc trước kia đi đờn cho gánh hát, ông chán thế sự mới vào chùa quy y. Thấy Nhuận có giọng ca quyến rũ nhưng chưa rành nhịp điệu, ông sư bèn dạy cho Nhuận căn bản cách ca vọng cổ và nhiều bài cổ nhạc khác. Nhuận ngày càng ca điêu luyện nhưng chưa có ý muốn theo đoàn hát.

Sau Tết Mậu Thân, gia đình Nhuận bị chiến nạn, ảnh hưởng đến kinh tế, đời sống, nên Nhuận xin cha mẹ cho đi theo đoàn hát để đở gánh nặng cho gia đình. Thấy Nhuận có giọng tốt, có thể thành công trên con đường nghệ thuật nên cha mẹ bằng lòng. Nhuận theo một đoàn hát nhỏ của tỉnh, hát loanh quanh trong các làng xã, sau đó lên Saigon đăng ký học ca với nhạc sĩ Văn Vĩ. Sau vài tháng học ca, Nhuận và cô bạn cùng học lò Văn Vĩ là nữ nghệ sĩ Trang Mỹ Hường gia nhập đoàn hát Trúc Giang của ông bầu Năm Sơn.

Nhuận đẹp trai, nước da trắng mịn, vóc dáng lý tưởng cho sân khấu, giọng ca ngọt ngào và làn hơi rất khoẻ nên ông bầu Năm Sơn giao đóng vai kép nhì và đặt cho nghệ danh là Đức Minh.

Đức Minh thông minh sáng dạ, thường đêm ngồi bên cánh gà học theo cách ca và diễn của các vai đào kép chánh. Chỉ sau hai tháng cộng tác với đoàn hát Trúc Giang, Đức Minh có thể hát thế vai kép chánh khi anh này bị bệnh bất ngờ, ông bầu Năm Sơn rất mừng vì sức thu hút khán giả của Đức Minh vượt hơn anh kép chánh cũ rất xa.

Ông bầu đoàn hát Trường Sơn ở miền Trung, nghe danh Đức Minh, một nghệ sĩ trẻ có giọng ca quyến rũ nên cho anh Quản lý của đoàn hát về Nam, bí mật mời Đức Minh ký hợp đồng với một số tiền lớn để Đức Minh ra miền Trung hát cho đoàn hát Trường Sơn.

Chỉ mới một năm hát trên sân khấu Trúc Giang, Đức Minh đã trở thành kép chánh, hát với một số lương cao, nên ký hợp đồng có một số tiền lớn với đoàn hát Trường Sơn, Đức Minh không thể bỏ lỡ dịp may này nên anh rời đoàn Trúc Giang, ra miền Trung, hát chia vai kép chánh với nghệ sĩ Nhật Quỳnh trong các tuồng Chàng Cuôi Lên Cung Trăng, Trường Hận Huyết Lan, Luật Giang Hồ… Sức hút khán giả của nghệ sĩ Đức Minh hơn hẳn kép chánh Nhật Quỳnh khiến cho anh này rời đoàn Trường Sơn để cho Đức Minh trở thành trụ cột đắt giá nhất của đoàn hát Trường Sơn trong ba năm ròng rã.

Tuy nhiên Đức Minh còn có cao vọng tiến xa hơn trong nghề hát. Làm kép chánh một đoàn hát nhỏ ở tỉnh thì khó có cơ hội nổi tiếng ở Saigòn và ở các tỉnh Hậu Giang, vì vậy năm 1973, nghệ sĩ Đức Minh về làm kép ba cho gánh hát Thanh Hải – Văn Hường để học nghệ và tìm đường tiến thân ở Saigòn. Đức Minh đã có một sự lựa chọn khôn ngoan để rèn luyện nghề hát vì gánh hát của nghệ sĩ Vua Tao Đàn Thanh Hải hùng vốn với Vua vọng cổ hài hước Văn Hường có một thành phần diễn viên rất hùng hậu gồm có Vua Vọng Cổ Út Trà Ôn, Thanh Hải, Đức Lợi, Ngọc Bích, Tô Kim Hồng, Văn Hường.

Ngoài ra vì hát ở Saigòn, giọng ca vọng cổ của Đức Minh được hãng dĩa Việt Nam mời thu thanh một số bài ca tân cổ, ca chung với các nghệ sĩ Lệ Thủy, Lệ Quyên.

Năm 1974, Đức Minh được bà Bầu Thu , đoàn hát Việt Nam – Minh Vương mời ký hợp đồng, hát chung sân khấu với danh ca Minh Vương, nữ hoàng sân khấu Thanh Nga, Hà Bửu Tân, Kim Lệ Thủy, Văn Ngà, Tuấn Hùng… Sự nghiệp trên đà thăng tiến thì ngày 30 tháng 4 ập đến, gánh hát tư nhân phải giải tán, Đức Minh trở về quê ở Bến Tre chờ thời.

Mặc dầu, tỉnh BếnTre có thành lập các đoàn hát cải lương nhưng Đức Minh trở lên Saigòn gia nhập đoàn hát cải lương Saigòn 3 đóng vai kép nhì, hát chung với kép chánh Minh Tâm, Thanh Kim Huệ, Tài Lương, Thanh Điền, Thúy Lan, hề An Danh…

Nghệ sĩ Đức Minh tuy đóng kép nhì trong các vở tuồng Mái Tóc Người Vợ Trẻ, Quán Hương Tràm, Nàng Sa Rết, Tình Ca Biên Giới… nhưng Đức Minh được khán giả nhiệt liệt khen giọng ca vọng cổ. Khi hai nghệ sĩ Minh Tâm và Tài Lương xuất ngoại định cư tại nước Pháp theo diện đoàn tụ gia đình, nghệ sĩ Đức Minh thế vai của Minh Tâm, trở thành kép chánh của đoàn cải lương Saigòn 3.

Năm 1980, Bà Tư Yến, bầu gánh hát Trùng Dương Vũng Tàu mời Đức Minh cộng tác với số tiền hợp đồng là 5 cây vàng và lương 70 đồng một suất hát. Thời kỳ này lương của nghệ sĩ còn bị Sở Văn Hóa quy định đồng loạt cho nghệ sĩ kép đào chánh là lương hạng A, 10 đồng một suất hát. Lương định cho nghệ sĩ hạng B là 5 đồng một suất hát.

Đức Minh theo đoàn hát Trùng Dương – Vũng Tàu đi lưu diễn ở miền Trung. Đức Minh hát cặp với đào chánh Xuân Lan. Được một năm, Xuân Lan và chồng là Tấn An rời đoàn, Nữ nghệ sĩ Kiều Lan, em của nữ nghệ sĩ Kiều Hoa, đóng cặp với Đức Minh tạo thành một liên danh rất ăn khách. Đức Minh có những vai hát để đời như vai Tony Done trong tuồng Hoa Thiên Lý, vai Tú Uyên trong vở Người Đẹp Trong Tranh .

Năm 1984, Đức Minh rời đoàn hát Trùng Dương trở về Saigòn gia nhập đoàn văn công của Tp. HCM, hát chung với các nghệ sĩ Minh Phụng, Mỹ Châu, Thoại Miêu, Thanh Hồng, Tô Kiều Lan, Hoàng Giang, Hùng Minh, Khả Năng, Phi Thoàn…hát các tuồng Nàng Hai Bến Nghé, Tiếng Sáo Đêm Trăng, Mùa Thu Trên Non Cao, Hai Phương Trời Thương Nhớ, Dốc Sương Mù…

Nghệ sĩ Đức Minh đoạt huy chương vàng Hội diễn Sân Khấu Cải Lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985.

Nghệ sĩ Đức Minh và Mỹ Châu hát chung trên một sân khấu liên tục 6 năm từ 1984 đến 1990. Đến năm 1989, Đức Minh và nữ nghệ sĩ Mỹ Châu chính thức kết hôn nhau.

Sáu tháng sau, Mỹ Châu không chánh thức cộng tác với một đoàn hát nào mà cô chỉ đi hát tăng cường cho đoàn cải lương Kiên Giang. Nghệ sĩ Đức Minh hát cho đoàn Huỳnh Long, với thành phần nghệ sĩ Ngọc Huyền, Vân Hà, Chí Linh, Đức Lợi, Tiểu Linh, Bạch Mai…

Năm sau Đức Minh về cộng tác với đoàn hát Phước chung, hát cặp với đào chánh Kiều Phượng Loan và các nghệ sĩ Kim Tử Long, Hồng Tơ, Bảo Trang, Hiếu Liêm.

Năm 1993, Đức Minh trở về cộng tác với đoàn cải lương Saigòn 2, hát cặp với vợ anh là nữ nghệ sĩ Mỹ Châu, với thành phần nghệ sĩ Tuấn An, Hoàng Minh Vương, Thanh Vân, Ngọc Hà, Tô Kiều Lan, Mai Thành…

Năm 1994, vợ chồng Đức Minh và Mỹ Châu về hát cho đoàn hát Tiếng Chuông Vàng – Minh Phụng, hát những vở tuồng cải lương cũ trong thời hoàng kim của sân khấu Kim Chung như tuồng Người Gọi Đò Bên Sông, Kiếp Chồng Chung, Hội Chọn Chồng, …với thành phần diễn viên Minh Phụng, Kiều Tiên, Đức Minh, Mỹ Châu, Ngân Giang, Ngọc Cẩm Thúy, Bảo Ngọc, Đường Tử Lang, hề Giang Tâm…

Nghệ sĩ danh ca Đức Minh chỉ hát 4 năm cho đoàn hát Trùng Dương – Vũng Tàu và 6 năm cho đoàn hát Văn công của thành phố, đó là hai đoàn hát mà anh cộng tác lâu nhất. Sau đó, Đức Minh đưọc nhiều đoàn mời về hát tăng cường, mỗi đoàn anh chỉ hát trong vòng một năm là anh thay đổi sang đoàn hát khác. Điều đó chứng tỏ giọng ca vọng cổ của Đức Minh rất ăn khách, có thể cứu giúp những đoàn hát đang suy yếu được tăng thêm doanh thu, nhưng điều đó cũng chứng tỏ là sân khấu cải lương ngày một xuống dốc. Hát tăng cường thì chỉ hát những tuồng cũ, quen thuộc, dùng sự thu hút của giọng ca lạ, nghệ sĩ mới chớ không thể đến một đoàn hát hát tăng cường mà lại phải tập tuồng mới. Sân khấu cải lương không có tuồng mới, khán giả cứ phải xem tuồng cũ, dù có giọng ca hay, khán giả cũng phải chán.

Đến năm 2001, Đức Minh được con của anh bảo lảnh sang định cư tại thành phố Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Năm 2003, Đức Minh bảo lảnh cho vợ anh là nữ nghệ sĩ Mỹ Châu sang Hoa Kỳ sum hợp gia đình.

Nghệ sĩ Đức Minh đã qua đời lúc 2 giờ ngày 14 - 1- 2014 tại Atlanta, Georgia, Mỹ. Thọ 62 tuổi.

Trước đó, nghệ sĩ Đức Minh phải nhập viện để điều trị căn bệnh ung thư. Ngày 17-4-2014, vợ anh nghệ sĩ Mỹ Châu đã hoàn thành tâm nguyện khi hoàn tất mộ phần của chồng - cố nghệ sĩ Đức Minh tại quê nhà của anh ở Bến Tre.



Giang Châu
Giang Châu - Trần Ngọc Châu (1952-20 .. )

Nghệ sĩ Giang Châu tên thật là Trần Ngọc Châu. Ông sinh năm 1952 tại Chợ Lách, Bến Tre. Vì nhà nghèo nên từ nhỏ ông đã đi chăn trâu, làm mướn để mưu sinh. Nhưng đồng thời ông sớm thể hiện năng khiếu thiên ca hát bẩm sinh.

Khoảng 14, 15 tuổi, ông bỏ việc chăn trâu mà chuyển sang làm tài công lái tàu cho chủ tàu là ông Hai Đực, một người biết đờn. Từ đây ông bắt đầu làm quen với bài bản đờn ca tài tử. Ông được thầy khen có giọng hát hay như Minh Cảnh.

Sau Tết Mậu Thân 1968, nhân một bữa đội văn nghệ quận về hát tại ấp nhà, một người bạn giới thiệu Giang Châu lên hát mấy bài vọng cổ. Người có trách nhiệm văn thể mỹ  có mặt trong buổi văn nghệ ấy khoái giọng ca của ông, đã tuyển chọn ông hát ở đội văn nghệ quận. Đó là lần đầu tiên Giang Châu chính thức trở thành người ca hát có lương. Sau đó, ông trốn nhà theo đoàn hát cải lương Phước Châu, gốc là đoàn hát bội của bầu Nhàn ở miệt Trà Ôn.

Thời gian sau ông đầu quân cho vài gánh hát khác. Thời điểm này giọng hát vang khỏe và hơi dài của ông tạo ấn tượng đặc biệt với công chúng, nhưng Giang Châu vẫn chưa trở thành một cái tên lớn.

Rồi Giang Châu theo gánh hát cải lương Hương Mùa Thu. Tại đây ông bắt đầu được giao những vai quan trọng.

Đến năm 1975, gánh hát Hương mùa thu ngưng hoạt động, tạm thời giải tán như tất cả các đoàn hát tư nhân lúc bấy giờ. Giang Châu và vợ  là nữ nghệ sĩ Ngọc Hiền về quê tạm rời xa sân khấu. Đến cuối năm 1975, Giang Châu gia nhập đoàn cải lương Saigòn 2. Ở đây,  nhờ có lối ca vọng cổ dài hơi và lối diễn xuất sống động nên ông nổi tiếng qua vai Trần Hùng trong tuồng cải lương Tìm lại cuộc đời.

Sau đó, nghệ sĩ Giang Châu lại thành công rực rỡ qua vai Thừa trong tuồng Tiếng hò sông Hậu. Giang Châu đã diễn vai một người nông dân bộc trực, đi chân đất, mặc áo không cài nút, hút thuốc rê vấn như một người nông dân chính hiệu. Dáng dấp cục mịch, lời ăn tiếng nói nghe rặc giọng nói của người miền quê sông nước, cùng giọng ca vọng cổ mùi mẫn ông đã làm khán giả say mê, vai Thiếu uý Thái Ngọc trong Khách sạn Hào Hoa cũng là vai diễn nổi tiếng. Sau đó, Giang Châu rời Sài Gòn 2 về cộng tác cho Sài Gòn 1. Tại đây, ông lại có cơ hội được những nghệ sĩ tài danh giúp đỡ, đặc biệt là sự giúp đỡ của Nghệ sĩ Thành Được. Trên sân khấu này, Giang Châu tiếp tục ghi thêm dấu ấn vai diễn để đời, đó là Trùm Sò trong vở Nghêu , Sò, Ốc , Hến.

Vai Trùm Sò trong vở Ngao Sò Ốc Hến làm cho cái tên Giang Châu vụt sáng thành một ngôi  sao trên bầu trời cải lương. Với lối diễn quá lạ và quá độc đáo, ông khiến cho khán giả vừa ghét cái tính ích kỷ keo kiệt và ác độc, lại vừa cười lăn cười bò trước những tình huống hài duyên dáng. Vai diễn này thành công đến mức, cho đến hiện chưa có ai đóng thế vai Trùm Sò mà khiến khán giả hài lòng như Giang Châu.

Đến đầu thập niên 1990 cải lương sa sút. Cái tên Giang Châu dần dần ít được nhắc đến. Ông gom góp tiền hùn với nghệ sĩ Dương Thanh mở quán rượu  mưu sinh. Nghe Giang Châu mở quán khán giả hâm mộ và đồng nghiệp nhiệt tình ủng hộ. Quán đông khách nhưng được một thời gian đóng cửa vì ai đến cũng muốn được cụng ly với nghệ sĩ mà họ yêu mến. Thời gian đầu ông còn hăng hái, nhưng sau tiếp rượu nhiều quá sức khỏe ông sa sút. Chịu không thấu tình cảm kiểu này ông nhường quán lại cho nghệ sĩ Dương Thanh.

Sự khó khăn chất chồng nên ông nhận thêm show hát sinh nhật và đám ma. Nghệ sĩ tên tuổi mà hát trong khung cảnh buồn thảm như đám tang khỏi phải nói cay đắng đến mức nào. Lạ thay khi hát đám tang ông có phần an ủi hơn đám cưới. Bởi vì, trong hoàn cảnh này chủ gia chú ý và trân trọng tiếng hát của ông. Vì thế mà Giang Châu có câu trào lộng về đời nghệ sĩ qua thời hoàng kim rằng “hát đám ma vui hơn đám cưới”.

Chưa dừng lại ở đó, ông còn chấp nhận lời mời đi hát ở các hội chợ, lôtô tổ chức ở các tỉnh. Ai cũng hiểu nơi tổ chức hội chợ là những bãi đất trống, hoặc là sân banh địa phương. Nơi mà khán giả đến tham quan vui chơi trong không khí khá xô bồ, ồn ào và mất trật tự. Ngôi sao từng đứng trên sân khấu lớn nhất mà hạ mình hát ở những chổ như thế còn nỗi đau nào hơn. Nhận ra mình không thể vì mưu sinh mà đánh đổi tư cách của một người nghệ sĩ đã được khán giả yêu mến, ông đã từ giã loại hình này sau khi gắn bó với nó vài năm. Từ đó, ông chỉ nhận show là những đám tiệc mà khách mời phải là những người thực sự yêu quý nghệ thuật cải lương. Ông an phận trong vai trò này cho đến hiện tại.


Hà Mỹ Xuân

Hà Mỹ Xuân Nguyễn Thị Xuân (1952-20 .. )

Nghệ sĩ Hà Mỹ Xuân tên thật Nguyễn thị Xuân, sanh năm 1952 tại Long Xuyên, cha tên Nguyễn Thành Long, một nghệ nhân đờn ca tài tử và mẹ là bà Nguyễn Thị Tâm. Ông Long và bà Tâm quê quán chính là ở xã Vị Thanh - Chương Thiện, tỉnh Cần thơ, nhưng vì có chiến tranh Việt Pháp, ông bà đã phải nhiều lần tản cư, khi ông bà về ở tỉnh Long Xuyên, ông bà tìm được một nơi yên ổn để sinh sống. Tại Long Xuyên, ông bà sanh được ba người con và cả ba đều trở thành những nghệ sĩ tài danh.

Người con trai lớn tên Nguyễn Ngọc Chiếu, sanh năm 1947, người con gái kế là Nguyễn Thị Thu Hà, sanh năm 1949 được hai nghệ sĩ Kim Hoàng - Như Mai đặt cho nghệ danh là Thanh Điền và Hà Mỹ Liên khi hai bạn trẻ nầy đi hát cho đoàn cải lương Kim Hoàng Như Mai năm 1960.

Nghệ sĩ danh ca Ngọc Ẩn và vợ là nữ nghệ sĩ Kim Trâm là những người thầy đầu tiên dạy cho Thanh Điền, Hà Mỹ Liên và Hà Mỹ Xuân ca cổ nhạc và hướng dẫn các nghệ sĩ trẻ nầy diễn xuất trên sân khấu. Năm 1962, đoàn hát Kim Hoàng – Như Mai rã gánh, Thanh Điền, Hà Mỹ Liên, Hà Mỹ Xuân gia nhập đoàn hát Bạch Vân – Út Hậu, sau đó lần lượt gia nhập các đoàn hát Thủ Đô, Trăng Mùa Thu và Kim Chung.

Năm 1972, ba ngôi sao cải lương trẻ Thanh Điền, Hà Mỹ Liên và Hà Mỹ Xuân thành lập gánh hát lấy tên là đoàn hát Xuân Liên Hoa, mời Dũng Thanh Lâm làm kép chánh hát với đào chánh Thanh Kim Huệ. Thanh Kim Huệ sau là vợ của nghệ sĩ Thanh Điền, cả hai trở thành những diễn viên nổi tiếng trên nhiều lãnh vực nghệ thuật sân khấu sau năm 1975.

Năm 1975, đoàn hát Xuân Liên Hoa cũng như tất cả các đoàn hát cải lương ở miền Nam vào thời đó đều bị giải tán. Sau vài tháng vận động, đoàn Xuân Liên Hoa được tổ chức lại và lưu diễn ở miền Hậu Giang.

Nhưng chỉ vài tháng sau, đoàn hát Xuân Liên Hoa được Sở Văn Hóa Thông Tin gọi về thành phố, đoàn hát bị giải tán lần nữa. Thanh Điền được đưa vào hát cho đoàn cải lương Saigon 3, Hà Mỹ Xuân được đưa về hát cho đoàn Thanh Minh. Hà Mỹ Liên vì có chồng là người Pháp nên cô theo chồng hồi hương về Pháp năm 1976.

Hà Mỹ Xuân là một nữ diễn viên có ưu thế về nhan sắc và giọng ca, thêm vào đó cô có những động tác múa võ, cầm kiếm gọn gàng, thể hiện oai phong dũng mãnh khi cô thủ diễn các vở tuồng ăn mặc theo cổ trang. Hà Mỹ Xuân xuất sắc trong các tuồng Tiếng Trống Mê Linh, Bên Cầu Dệt Lụa, Bài Thơ trên Cánh Diều bên cạnh một Thanh Nga kiều diểm.

Sau năm 1975, theo quy định của chánh quyền mới, những nghệ sĩ danh ca, đào kép chánh được định là nghệ sĩ hạng A, lãnh lương10 đồng một suất hát. Những nghệ sĩ hạng B gồm có những đào kép phụ, vũ nữ, vệ sĩ, soạn giả và các anh công nhân sân khấu thì mỗi suất diễn được lãnh 5 đồng mỗi người.

Nghệ sĩ đào kép chánh thấy tiền lương quy định như vậy là bất công đối với họ, những người mang lợi nhuận cho gánh hát. Khán giả đến xem đào kép chánh hát chớ đâu phải để xem các anh công nhân dọn cảnh trí, nhưng nghệ sĩ chưa dám có ý kiến vì nếu nói ra, họ sẽ bị chụp mũ là phản động. Vì vậy họ chịu đựng vài năm đầu, sau đó họ lén đi hát chầu cho các đoàn hát tỉnh với một số lương cao hơn gấp trăm gấp ngàn lần số lương chết đói đó.

Có diễn viên xuống tỉnh lập gánh hát như bầu Quới, bầu hề Sa, bầu Hai Néo; bầu Xuân, nữ nghệ sĩ Hà Mỹ Xuân cũng xuống tỉnh Mỹ tho lập gánh hát cải lương với bảng hiệu là đoàn hát Tiền Giang. Nhưng rồi vài năm sau, các gánh hát của nghệ sĩ đứng ra thành lập bị nhà nước lấy mất quyền làm chủ dưới hình thức là tập thể hóa gánh hát. Người chủ gánh hát trở thành nhơn viên của đoàn hát, cán bộ do nhà nước đưa tới thành trưởng đoàn gánh hát,  gánh hát tập thể đó là của nhà nước. Bà bầu Thanh Minh, ông Minh Tơ gánh hát tuồng cổ Minh Tơ, bà Bảy Hương gánh Huỳnh Long và Hà Mỹ Xuân, bầu Quới, bầu Sa đều lâm vào cảnh mất của trắng tay, số tài sản và công sức đã bỏ ra cho gánh hát đã thuộc về ”tập thể” tức là thuộc về nhà nước quản lý. Các nghệ sĩ Thanh Bạch, Bạch Lê và Hà Mỹ Xuân bỏ nước vượt biên chính là vì nguyên cớ nầy.

Hà Mỹ Xuân vượt biên bằng đường bộ, đi xuyên rừng rậm nước Cao Miên, đương đầu với biết bao cảnh khó khăn nguy hiểm, khi đến bến bờ tự do, Hà Mỹ Xuân cố gắng không ngừng trong việc học tiếng nước người, học một nghề mới, thay đổi mọi thói quen để hội nhập với một xã hội mới của nước Âu Tây. 

Hà Mỹ Liên, Thanh Điền, Thanh Kim Huệ, Hà Mỹ Xuân tại Paris

Hà Mỹ Xuân hành nghề thợ may, thợ luông cravate, mở tiệm bán thức ăn nhanh để ổn định cuộc sống và tham gia những show hát cải lương của nhóm nghệ sĩ Hữu Phước, Minh Đức, Kiều Lệ Mai vào những ngày cuối tuần để đở nhớ nghề.

Như một con ong siêng năng cần mẫn, hút nhụy hoa tích lủy mật và xây tổ ong, Hà Mỹ Xuân đã thành đạt vẻ vang trong cuộc sống riêng và cuộc đời nghệ thuật của cô.

Về nghệ thuật, ngoài những suất hát cải lương mà Hà Mỹ Xuân và Hà Mỹ Liên cộng tác với nhóm nghệ sĩ Minh Đức, Kiều Lệ Mai, Lý Kim Thành, Kim Chi, Minh Thanh, Trần Nghĩa Hiệp, Bạch Nhân Trang, Quốc Hương, nữ nghệ sĩ Hà Mỹ Xuân còn hợp tác với các nghệ sĩ Pháp thực hiện những show hát lấy tên là  “Chanson de geste Cai Luong”, hát về truyện Kiều. Chương trình diễn cho các học sinh Pháp các học đường lấy tên Nẻo Đường Kiều (Aux entrailles de la tendre fleur déchirée) Nổi lòng đòi đoạn của một đóa hoa tan tác. Diễn có dẫn giải bằng tiếng Pháp.

Nhóm nghệ sĩ nầy có 12 người, trong đó có 3 nữ nghệ sĩ VIệt Nam, Hà Mỹ Xuân đã bỏ công tập cho người bạn diễn Pháp để thể hiện những trích đoạn Kiều, lúc đầu bạn diễn người Pháp đó “hát nhép” theo dĩa về Truyện Kiều, Hà Mỹ Xuân cũng phải học lời dẫn giải bằng tiếng Pháp, để đáp ứng khi giao lưu với khán giả.

Được một cái may mắn là có chị Hà Mỹ Liên, có chồng Pháp từ năm 1965, qua định cư tại Phas từ năm 1976, cô Hà Mỹ Liên cũng là một diễn viên cải lương tài danh, nói tiếng Pháp như người Pháp chính cống, Hà Mỹ Liên đã tirếp tay với Hà Mỹ Xuân trong lúc tiếp chuyện với khán giả Pháp.

Hà Mỹ Xuân cho biết chương trình diễn Chanson de geste Cailuong có tiếng vang lớn, báo chí Pháp phỏng vấn, đăng tin và ngợi khen nhưng phải tốn thật nhiều công phu chuẩn bị, tập luyện. Vì yêu nghề mà Hà Mỹ Xuân muốn mở ra một lối hoạt động mới của cải lương, thu hút thêm một thành phần khán giả mới.

Hà Mỹ Xuân làm chủ một tiệm bán thức ăn Việt Nam, bảng hiệu Restaurant Hà Mỹ Xuân. Plats cuisinés traditionnels Vietnamiens ở số 106, đường Blomet Paris. Vào những giờ cao điểm, Hà Mỹ Xuân, Hà Mỹ Liên và hai người giúp việc làm không hở tay.

Về gia đình, Hà Mỹ Xuân lập gia đình với Phạm Văn Bình, làm chủ một chiếc xe taxi, anh tự lái taxi, cuộc sống tiền bạc thu nhập khá.

Hà Mỹ Xuân và anh Bình cho biết là hai anh chị có mua đất và xây một ngôi biệt thự ở VIệt Nam. Ngôi biệt thự với những phòng ốc được trang trí như biệt thự ở Pháp hay các nước Âu Mỹ, đẹp và sang trọng. Nguyện vọng của hai anh chị là hiện nay ráng làm ăn, tích lủy tiền bạc, vốn liếng để khi hưu, anh chị có thể sống hạnh phúc trong ngôi biệt thự đó.


Ngọc Đan Thanh
Ngọc Đan Thanh - Lê Thị Huệ (1952-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh tên thật Lê Thị Huệ, sanh năm 1952, tại Saigon. Cô học trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, chuyên khoa cải lương cùng lúc với các nghệ sĩ Kiều Phượng Loan, Tú Trinh. Khi lên năm thứ hai khóa cải lương, Ngọc Đan Thanh đã cùng với các nữ nghệ sĩ Phương Ánh, Tú Trinh được mời làm diễn viên của các Ban cải lương Phương Nam của soạn giả Nguyễn Phương, Ban Thành Công, Ban Mây Tần của Đài Phát Thanh Saigon và Đài Phát Thanh Quân Đội. Nữ nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh, Tú Trinh, Phương Ánh, Mộng Tuyền cũng là diễn viên của Ban Kịch Phương Nam, Ban Kịch Thẩm Thúy Hằng, Ban Kịch Sống Túy Hồng, Ban Cải Lương Phụng Hảo, Ban Cải lương Thanh Lịch của Đài Truyền Hình Việt Nam trong những năm từ 1967 đến 1972.

Nữ nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh rất đẹp, nước da bánh mật, nụ cười quyến rủ, đôi mắt long lanh, Ngọc Đan Thanh được đánh giá là nữ diễn viên đẹp sắc xảo, rất ăn ảnh khi được thu hình ở Đài Truyền Hình hay khi đóng phim. Giọng ca của Ngọc Đan Thanh được đánh giá là chuẩn mực khi ca các bài bản cổ nhạc dùng trong sân khấu cải lương, âm lượng khoẻ khoắn, lối ca đúng điệu, đúng bài bản như phần lớn các học viên của trường Quốc Gia Âm Nhạc, chưa có bản sắc riêng như các diễn viên Ngọc Giàu, Lệ Thủy, Mỹ Châu.

Ngọc Đan Thanh trước năm 1975 không đi hát cho các đoàn hát cải lương vì khi cô chưa tốt nghiệp trường Quốc Gia Âm Nhạc thì năm 1968 đô thành Saigon xảy ra vụ Tết Mậu Thân, chiến sự xảy ra nhiều đợt trong đô thành Saigon, Chợlớn khiến cho nhà cầm quyền phải ban bố tình trạng thiết quân luật ban đêm. Nhiều gánh hát không hát được, có gánh hát phải tan rả, có nhiều gánh hát phải đi lưu diễn ở các tỉnh Hậu Giang và miền Trung. 

Sau Tết Mậu Thân, Ngọc Đan Thanh gia nhập Ban văn nghệ Hoa Rừng của binh chủng Biệt Động Quân( 1968 – 1971 );  Rời Biệt Đông Quân, Ngọc Đan Thanh được điều về Tiểu đoàn 50 Chiến Tranh Chánh Trị đến1975. 

Năm 1972, Ngọc Đan Thanh đóng phim Kiếm hiệp Báo Kiếm Rửa Hận Thù, do hãng phim Mỹ Ảnh của ông Trương Dĩ Nhiên sản xuất. Ông Trương Dĩ Nhiên là chủ hãng phim Mỹ Ảnh, kiêm chủ rạp hát bóng Đại Nam và rạp Kinh Thành Chợ Lớn. Đạo diễn và équipe thu hình, thu thanh, chuyên viên ánh sáng đều là người Đài Loan, những người từng thực hiện nhiều bộ phim kiếm hiệp Hồng Kông và Đài Loan.

Diễn viên phim Báo Kiếm Rửa Hận Thù có các nghệ sĩ Út Bạch Lan, Hoàng Long, Ngọc Đan Thanh, Văn Ngà, Bảo Lâm, Ba Nghĩa, các võ sĩ của võ đường Việt Nam với võ sư Lý Huỳnh. Lúc đó Nguyễn Phương là phụ tá đạo diễn, viết lời thoại cho phim này. Cốt truyện phim của đạo diễn Đài Loan, thông dịch viên tiếng Quan Thoại là hai sinh viên Á Trần và Á Lâm. Chụp ảnh test và quảng cáo do nhiếp ảnh viên chuyên nghiệp Á Hùng.

Các nghệ sĩ Út Bạch Lan, Hoàng Long, Ngọc Đan Thanh, Văn Ngà được chuyên viên võ thuật Đài Loan và võ sư Lý Huỳnh dạy cho đánh từng lớp, chậm như khi học đánh võ trong tuồng hát bội, đánh chậm nhưng chú trọng điệu bộ và động tác đẹp như đánh võ thiệt. Khi quay phim, họ quây tốc độ chậm, 8 frames một giây, khi chiếu hình 24 frames một giây thì động tác nhanh như đánh võ thiệt. Ngọc Đan Thanh nhờ có học vũ, múa đẹp nên thành công xuất sắc trong phim này. Ngọc Đan Thanh còn quay thêm hai phim: Xóm Tôi, đạo diễn Lê Dân, và Chàng Ngốc Gặp Hên, đạo diễn Lưu Bạch Đàn.

Sau năm 1975, ở đoàn Kịch Kim Cương, Ngọc Đan Thanh diễn các vai quan trọng trong kịch Dưới Hai Màu Áo, Người Tình Trễ Xe, Về Nguồn, Trở Về Mái Nhà Xưa.

Năm 1980 – 1987, Ngọc Đan Thanh hát cho đoàn cải lương Sông Bé bầu Xuân. cựu bầu đoàn Dạ Lý Hương, sau đó cô cộng tác với đoàn hát Thanh Nga.

Vì cần tăng cường nghệ sĩ cải lương gốc miền Nam nên nữ nghệ sĩ trẻ đẹp Ngọc Đan Thanh được Sở Văn Hóa điều động về đoàn cải lương Trần Hữu Trang, Ngọc Đan Thanh thủ vai đào chánh, vai Thanh Vân trong tuồng Tình Yêu và Lời Đáp, cùng diễn xuất với các nghệ sĩ Phương Quang, Ngọc Giàu, Thanh Nguyệt, Phú Quý, Minh Châu, Thái Ngân, Công Tài…

Ngọc Đan Thanh diễn xuất sắc vai Thanh Vân trong tuồng Tình Yêu và Lời Đáp, được thu thanh và thu truyền hình trực tiếp trên sân khấu lúc đang diễn. Khán giả nhiệt liệt tán thưởng các vai do Ngọc Đan Thanh, Ngọc Giàu, Thanh Nguyệt, Phương Quang, Minh Châu thủ diễn. Ba tháng sau, đoàn Trần Hữu Trang thu nhận một nam danh ca và vợ. Ban Quản trị đoàn đã lấy vai tuồng của Ngọc Đan Thanh trao cho vợ của danh ca mới về đóng. Họ cho rằng khi đóng vai người nữ cán bộ thì lý lịch diễn viên phải trong sạch về chính trị. Họ tung tin là Ngọc Đan Thanh có chồng là cựu sĩ quan ngụy, đi tù cải tạo nên không được đóng vai Thanh Vân nửa. Thời kỳ nầy người ta thường lấy lý lịch để làm tình làm tội những kẻ yếu thế. Ngọc Đan Thanh không cần đính chánh là cô có chồng hay không mà cô trả lời bằng cách vượt biên tìm tự do và công bằng xã hội. Ngày 22 tháng 5 năm 1988, Ngọc Đan Thanh vượt biên đến đảo tỵ nạn Pulau Bidong, Malaysia.

Ngày 9 tháng 2 năm 1990 Ngọc Đan Thanh đến Hoa Kỳ, định cư tại California. Hai tháng sau cô cộng tác với Trung tâm băng nhạc Người Đẹp Bình Dương trong một số băng video ca nhạc.

Từ tháng 10 năm 1990, Ngọc Đan Thanh chuyển âm phim bộ Hồng Kông của Ánh Hằng, sau đó cộng tác với Việt Thảo trong những bộ phim Đài Loan, với Vina Film trong những bộ phim Đại Hàn.

Từ năm 2010, cộng tác với Đài Truyền hình SET tại Orange County với vai trò xướng ngôn viên tin tức, sau chuyển sang SBTN. Thời gian này Ngọc Đan Thanh làm MC cho Trung Tâm Asia với Nam Lộc, Thùy Dương và thực hiện chương trình Bảo tồn Cổ nhạc Tiếng Tơ Đồng với nghệ sĩ Chí Tâm.

Gần cuối tháng 12  năm 2017, Ngọc Đan Thanh bị đột qụy được con trai là Andy Nguyễn đưa đi nhà thương giải phẩu kịp thời. Sau thời gian điều trị trong nhà thương, Ngọc Đan Thanh đã hồi phục sức khoẻ, về nhà và có thể tiếp tục công việc mà cô ưa thích và đã cống hiến trọn đời cho khán thính giả bốn phương.

Thông qua quá trình hoạt động nghệ thuật của Ngọc Đan Thanh trong bối cảnh chiến tranh ở VN trong hai thập niên 60, 70 và trong thời kỳ cả  nước phải chịu đói nghèo và mất tự do dưới sự độc tài toàn trị của đảng CS, khán thính giả đều thương mến và thông cảm những trở lực đã ngăn bước tiến thân của nữ nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh. Cô vượt biên, đương đầu với biển khơi sóng cả, chín chết một sống để chọn cho mình được tự do trong đời sống, tự do suy nghĩ, không bị bắt buộc phải làm, phải nói hay suy nghĩ theo định hướng của chính trị độc tài của kẻ nào cả. 

Cô đã đến được đất nước Hoa Kỳ, được hưởng quyền tự do của công dân một nước văn minh tiên tiến. Cuộc sống kinh tế, vật chất dồi dào sung túc .Về nghề nghiệp và tinh thần thì Ngọc Đan Thanh được thoải mái, hài lòng với công việc phù hợp với khả năng của cô mà lợi nhuận lại cao, cuộc sống ổn định, gia đình hạnh phúc, các con học thành tài.

Khán thính giả của Trung Tâm Asia, thưởng thức giọng ca và cách giới thiệu duyên dáng của MC Ngọc Đan Thanh bên cạnh MC Thùy Dương, Nam Lộc đều có cảm tình mến yêu Ngọc Đan Thanh, tặng cho cô mỹ hiệu Loài Hoa Nở Muộn.
Nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh còn có một người anh ruột định cư ở Đức và hai vị thân sinh ở tuổi 90 vẫn sống khỏe tại căn nhà từ bấy lâu nay ở Xóm Sở Rác vùng Nguyễn Cư Trinh, Sài Gòn. Ngọc Đan Thanh hiện sống với hai con trai tại Quận Cam, Nam Cali.



Thoại Miêu
Thoại Miêu- Nguyễn Thị Ngọc Hoa (1953-20 .. )

Nghệ sĩ Thoại Miêu tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Hoa, sanh năm 1953, tại Sàigòn. Xuất thân trong gia đình đông con có tới tận 12 người con, trong đó 5 nam 7 nữ thì nghệ sĩ Thoại Miêu là con thứ 5 trong gia đình và em gái là nghệ sĩ thoại Mỹ. Khi còn nhỏ chị rất mê cải lương mặc dù gia đình không có điều kiện, nhưng khi thấy Thoại Miêu có năng khiếu bà nội nuôi của chị đã đưa chị đi học ca tài tử, cải lương tại thầy đờn Mười Phú.

Cũng từ đó Thoại Miêu bắt đầu theo thầy đi hát tại các quán cũng như các cuộc chơi đờn ca Tài tử. Cùng với niềm đam mê mà sau này khi học lên trên Thoại Miêu đã lựa chọn con đường ca hát là sự nghiệp cho bản thân mình, dù cho sau này con đường đi ấy không hề đơn giản chút nào, nhưng cho đến tận bây giờ chị vẫn vui, tự hào cảm thấy yêu nghề hơn nữa.

Năm 1969, Thoại Miêu trúng tuyển vào trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Sàigòn khoa diễn viên cải lương. Tại đây, chị và các bạn của mình là nghệ sĩ Tài Lương, nghệ sĩ Đỗ Quyên được các thầy cải lương tài danh truyền dạy trong số đó phải kể đến Kim Cúc, Bích Thuận, Mai Thành, Duy Lân, Nguyễn Thành Châu, Phùng Há. Cũng trong thời gian này, Thoại Miêu được Ban ca kịch của nghệ sĩ Chín Sớm và ban ca kịch của nghệ sĩ Duy Chức mời cộng tác ca trên đài Sàigòn và đã nổi danh trên đài với vở Cải lương truyền thanh Trần Minh khố chuối. Chị đã diễn xuất sắc trong vở Trường hận. Vì vậy, sau 3 năm được rèn luyện tại trường chính quy, năm 1971, chị đã vững vàng đi diễn ở khắp nơi. Tuy vậy, bà nội chị cấm cản không cho chị đi hát.

Mãi cho đến năm 1975 các đơn vị nghệ thuật cũng bắt đầu hoạt động, những người nghệ sĩ tự do được đăng ký với ngành Văn hóa Thông tin để được bố trí biên chế đơn vị theo đúng chuyên môn của người nghệ sĩ. Thoại Miêu đã thuyết phục bà nội của mình rồi đăng ký tham gia và được phân công làm diễn viên dự bị cho đoàn Cải Lương Sàigòn. Những ngày đầu ở trong đoàn chị không được nhận bất kỳ một vai diễn nào dù là vai nhỏ nhất.

Đến cuối năm 1975, khi Đoàn văn công giải phóng ra đời sát nhập ba nguồn lực lượng diễn viên từ Bắc vào, trong chiến khu ra và người ở tại Sàigòn, chị được nhận hát đào ba trong vở  Ngày tàn bạo chúa. Đây được coi là dấu mốc trong cuộc đời đi hát của nghệ sĩ Thoại Miêu.

Sau vở diễn Ngày tàn bạo chúa Thoại Miêu được nhận vào vai diễn Tuyết Mai trong vở  Cây sầu riêng trổ bông chị đã hóa thân vào nhân vật hoàn hảo đến mức khi đi tới đâu khán giả cũng đều gọi chị là Tuyết Mai và vở diễn này ăn khách kéo dài tới tận 5 năm. Không lâu sau vở diễn Cây sầu riêng trổ bông chị lại tiếp tục thành công với các vai diễn Ngọc Hà trong vở  Tâm sự Ngọc Hân của tác giả Lê Duy Hạnh, vai Thiên Hương trong  Muôn dặm vì chồng của nhà văn Ngọc Linh, vai Hoàng Anh trong vở  Nàng hai Bến Nghé của nhà văn Ngọc Linh.

Năm 1985, nghệ sĩ Thoại Miêu giành giải huy chương vàng với vai diễn Hồng trong vở  Dốc Sương Mù của tác giả Lê Duy Hạnh. Sau đó nghệ sĩ về đoàn 2-84 chị tiếp tục với nhiều vai diễn đào nhì khác nhau trong các vở Những vì sao không tên, Thiên Kiều Công Chúa, Kiếp chồng chung,.... Đến năm 1989, chị sang Pháp biểu diễn phục vụ cho kiều bào ở nơi đây.

Có thể nói với từng vai diễn khác nhau, trong từng hoàn cảnh khác nhau, với mức độ thành công của vai diễn, nhưng từng vai diễn ấy của nghệ sĩ Thoại Miêu lại gắn liền tên tuổi của chị, nó được khắc sâu trong lòng khán giả.

Thoại Miêu lập gia đình với Trưởng đoàn Văn Công Tp. HCM Phan Quốc Hùng, sau nầy là Giám đốc Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang. Không chỉ thành công trên nghệ thuật mà cuộc sống gia đình của nghệ sĩ Thoại Miêu cũng rất hạnh phúc, hiện tại chị sống vui vẻ cùng chồng với con và cháu của mình.



Tuấn Thanh
Tuấn Thanh - Đặng Văn Đông (1953-20 .. )

Nghệ sĩ Tuấn Thanh tên thật là Đặng văn Đông, sinh năm 1953 tại Sàigòn. Song thân của anh là ông Đặng Văn Ngữ và bà Đặng Thị Nhân đều đã qua đời.
Thân phụ của anh, ông Đặng Văn Ngữ bìết đờn cò, từng tham gia ban đờn ca tài tử của nhạc sĩ Hai Khuê ở đường Cao Thắng, quận ba. Ông Ngữ là một nhà buôn bán bất động sản kiêm thầu xây cất nổi tiếng ở Saigon, Chợ Lớn trong hai thập niên 1950, 1960.
Thuở bé, ngoài giờ học văn hóa, em Đông còn được theo cha học nghề. Khi ông Ngữ lãnh thầu xây cất nhà, Đông đã theo ông trong việc thực hiện xây cất. Đông học vẻ các bản kiến trúc và tính toán việc mua vật liệu. 14 tuổi Đông đã kiếm ra được nhìều tiền và giúp cha đắc lực trong nghề nghiệp của gia đình.
Đông cũng giống cha về niềm đam mê đờn ca cổ nhạc. Đông theo cha đi đờn ca với Ban đờn ca tài tử cổ nhạc của nhạc sĩ Hai Khuê, Đông đóng tiền học ca cổ nhạc với nhạc sĩ Ba Giác ở quận 6. Năm sau, Đông học thêm hai năm trong lớp cổ nhạc Văn Vĩ.
Sau đó, Đông được anh Lê Hoàng Nhi và ban cổ nhạc Ngọc Thạch – Văn Vĩ đưa đi ca ở đài phát thanh Saigon. Đông lấy nghệ danh là Thanh Tài. Nghệ sĩ Thanh Tài tham gia đờn ca tài tử ở các quận huyện đô thành như Phú Xuân, Nhà Bè, Quận 8, Bình Chánh và anh cũng được hãng dĩa Continental mời thu thanh. Tuy nhiên tên tuổi của nghệ sĩ Thanh Tài vẫn còn ít người biết đến.
Năm 1970, nghệ sĩ Thanh Tài được 17 tuổi, anh theo các đoàn hát cải lương ở tỉnh để được hát trên sân khấu. Thanh Tài đã hát qua các đoàn hát Hồng Vũ, Hoa Đăng, Quy Sắc, Tuyết Hoa.
Đến năm 1975, Thanh Tài gia nhập đoàn hát Kiên Giang. Anh thay đổi nghệ danh thành Thanh Thanh Tuấn, hát chung sân khấu với các nghệ sĩ Hà Mỹ Hạnh, Đức Anh, Vương Tùng, Hề Phi Phi, hề Tẩu Tẩu. Thanh Thanh Tuấn đã được hát chánh qua các vở tuồng Hoa Mộc Lan, Suối Mơ Rền Pháo Cưới, Lưu Bình Dương Lễ, Bên Vòng Tay Mẹ, Manh Áo Quê Nghèo. Thanh Thanh Tuấn được nhiều khán giả miền Tây ái mộ. Anh nổi tiếng là một nghệ sĩ trẻ ăn khách của sân khấu cải lương vùng Hậu Giang.
Năm 1977, Thanh Thanh Tuấn đổi nghệ danh thành Tuấn Thanh khi anh được đoàn cải lương Saigon 2 mời cộng tác. Ngôi sao cải lương Tuấn Thanh bắt đầu rực sáng trên bầu trời nghệ thuật. Nghệ sĩ Tuấn Thanh diễn chung với các diễn viên tài danh như nữ diễn viên Ngọc Bích, Hồng Nga, Kiều Lan, Thanh Vân, Liên Chi, Tô Kiều Lan, Ngọc Hà và các nam diễn viên Giang Châu, Tuấn An, Tư Rọm, Văn Chung, Hoàng Liêm, Hoàng Linh, Diệp Lang.
Vai hát đầu tiên của nghệ sĩ Tuấn Thanh trên sân khấu Saigon 2 là vai Cung trong tuồng Ánh Lửa Rừng Khuya. Tuấn Thanh hát thành công nên được vào vai chánh các vở Tiếng Hò Sông Hậu, Khách Sạn Hào Hoa, Tìm Lại Cuộc Đời…Tuấn Thanh đã được giới nghệ sĩ và khán giả công nhận Tuấn Khanh là một kép trẻ thinh sác lưỡng toàn.
Năm 1979, nghệ sĩ Tuấn Thanh cộng tác với đoàn cải lương Saigon 3, hát chung với các nghệ sĩ Bình Trang, Linh Huệ, Văn Chung, Kim Quang, Lan Chi, Thúy Lan, Tuấn Kiệt, tức Châu Thanh sau này, Hà Mỹ Xuân và Kiều Lệ Tâm. Tuấn Khanh đã hát qua các tuồng Mái Tóc Người Vợ Trẻ, Tình Ca Biên Giới, Phụng và Hoàng.
Thời gian năm 1980, Tuấn Thanh và nữ nghệ sĩ Mỹ Châu hát trên sân khấu đoàn Trúc Giang mới là thời gian mà tên tuổi của nghệ sĩ Tuấn Thanh được sáng chói nhất. Đoàn hát Trúc Giang là một đoàn hát nhỏ, với những kịch bản thuộc loại trung bình như vở Vòng Cưới Anh Trao, Thoại Khanh Châu Tuấn nhưng dưới sự diễn xuất của cặp đào kép ăn khách nhất lúc bấy giờ là Mỹ Châu và Tuấn Thanh, đoàn hát Trúc Giang luôn luôn có một số thu vượt trội hơn các đoàn hát khác.
Về phương diện nghệ thuật thì phải đợi đến khi Tuấn Khanh diễn những vở tuồng có giá trị văn học như vở Tâm Sự Ngọc Hân, Dòng Sông Đầm Lầy, Thái Hậu Dương Vân Nga, ngôi sao sân khấu của Tuấn Thanh mới thật sự bật sáng. Nhất là sau tháng 2 năm 1979, hơn mười đoàn hát cải lương đồng loạt hát vở cải lương Thái Hậu Dương Vân Nga, biểu lộ ý chí chống xăm lăng Trung Cộng do Sở Văn Hóa phát động. Tuấn Thanh vào vai Lê Hoàn, anh hát thật là oai dũng, biểu dương được ý chí không khuất phục trước sự xăm lăng của nước Tàu ở phía Bắc.
Năm 1986, Tuấn Thanh gia nhập gánh hát Phước Chung, hát với nữ diễn viên Bình Trang, Trang Bích Liểu, các nam diễn viên Thanh Tú, Hồng Tơ, Hoàng Liêm, Giang Tâm, Hồng Hoa, Linh Tuấn, Dũng Tâm…
Năm 1987, Tuấn Thanh được đoàn Thanh Nga mời cộng tác, anh đứng chung sân khấu với Kiều Phượng Loan, Hương Huyền, Diệu Huê, Hoài Trúc Phương, Bích Sơn, Thanh Thanh Hoa, Tám Vân, Phương Hùng, Phương Tâm. Anh đã hát qua các vở Thiên Phúc Hoàng Đế, Nhiếp Chính Ỷ Lan, Đầm Tiên Sa, Đường Gươm Dũng Tướng…
Năm 1989, Tuấn Thanh trở về hát trên sân khấu đoàn Saigon 2, hát chung với các nghệ sĩ diệu Hiền, Mỹ Châu, Văn Chung, Phi Thoàn, Tô Kiều Lan, Kiều Mai Lý và hát trong hai kịch bản Nắng Ấm Ngoại ÔNữ Tướng Cờ đào.
Tuấn Thanh cũng từng đóng tuồng chung sân khấu với các nữ diễn viên tài danh Phượng Liên, Ngân Hà, Ngọc Giàu, Hồng Nga và các nam diễn viên Minh Vương, Tấn Tài, Hoàng Giang, Hoàng Hải, Tám Vân…
Năm 1990, đột nhiên Tuấn Thanh xa rời sân khấu. Anh trở về cái nghề buôn bán bất động sản và thầu xây cất nhỏ. Từ năm 1990, sân khấu cải lương mất dần khán giả, cuộc sống của nghệ sĩ không được sung túc như xưa, có lẽ vì lẽ đó mà Tuấn Thanh quay trở về với nghề cũ của gia đình. Cha anh không còn nhưng Tuấn Thanh đã có nhiều kinh nghiệm nên anh trở về nghề cũ của gia đình không gặp khó khăn nào cả. Tuấn Thanh vắng bóng trên sân khấu các đoàn hát, anh kinh doanh thành công rất khả quan.
Tuy cuộc sống của anh và gia đình rất sung túc nhưng anh vẫn nhớ sân khấu và bạn diễn nên những khi rỗi rãnh, anh hát thu thanh cho hãng dĩa hoặc băng video. Trong lãnh vực băng video, Tuấn Thanh thu được nhiều tuồng hay như tuồng Tiếng Hò Sông Hậu, Đôi Mắt Tình Yêu, Quán Khuya Sầu Viễn Khách, Đơn Hùng Tín, Lã Hậu, Hạng Võ Biệt Ngu Cơ, Anh Hùng Lương Sơn Bạc, Nữ Tú Tài, Kiếm Sĩ Dơi, Bài Thơ Trên Cánh Diều, Hoa Khuê Các Bướm Giang Hồ…
Năm 2005, sau 15 năm xa rời sàn diễn cải lương, nghệ sĩ Tuấn Thanh xuất hiện trong vai Nguyễn Huệ trong tuồng Hoàng đế Quang Trung, nghệ sĩ Tuấn Thanh có một phong độ ca diễn tiến triển hơn trước.
Hiện nay Nghệ sĩ Tuấn Thanh vẩn thường xuyên tham gia các show sân khấu cải lương tại Tp.HCM và các tỉnh, các chương trình truyền hình trực tiếp. Khi trở lại sân khấu, anh vẩn oai phong, càng tỏa sáng hào khí của tướng lĩnh trong các vở cải lương lịch sử qua các vai: Nguyễn Huệ, Trần Hưng Đạo, Thập Đạo Lê Hoàn, Trần Nguyên Hản, Bùi Hữu Nghĩa…
Có thể nói, nghệ sĩ Tuấn Thanh đã cống hiến hơn nửa đời mình cho sân khấu cải lương nhưng đối với anh gia đình vẩn là nền tảng cơ bản nhất. Quan điểm của anh về gia đình, sống thủy chung một vợ một chồng  chính là căn cơ để tạo sự nghiệp vững chắc.  Chị Nguyễn Thị Hồng Nhung là người vợ duy nhất của anh, một người vợ vừa đẹp người đẹp nết, giỏi việc kinh doanh nhưng cũng rất tuyệt vời việc đảm đang chăm sóc chồng con. Vợ chồng anh có một người con trai đã thành đạt và một đứa cháu nội gái ngoan hiền mới 8 tuổi đã biết đàn violon cho ông bà Nội nghe…



Kim Hương
Kim Hương (1954-20 .. )

Nghệ sĩ Kim Hương sinh năm 1954 tại Sàigòn, 8 tuổi đã theo học ca cổ với thầy Út Trong nổi tiếng. Sau học thêm với thầy Hai Khuê, giảng viên trường Quốc gia Âm nhạc Sàigòn. 14 tuổi vào đoàn Trăng Mùa Thu. Sau đó đi đoàn Kim Chưởng, Thanh Minh.
Năm 1975, Kim Hương tham gia diễn Bên Cầu dệt lụa với Thanh Nga, Thanh Tú, Thanh Sang.
Năm 1977, vai nàng Tía trong vở Tiếng trống Mê Linh, Kim Hương lại tiếp tục khắc họa một nhân vật lém lỉnh, thông minh. Nàng Tía giả dạng người bán rượu để trà trộn vào hàng ngũ quân Hán lấy tin tức cho thủ lĩnh Trưng Trắc. Nàng Tía vừa xinh xắn, vừa phản ứng nhanh nhẹn, rõ ràng là một “gián điệp” tin cậy. Nàng Tía lật tẩy Chương Hầu - Bảo Quốc, khiến ai nấy cười vui vẻ. Hài mà vẫn tử tế, hài mà không lạm dụng mảng miếng phá vỡ nhân vật. Hài như thế đâu phải dễ. Chỉ cần hai vai diễn đã đưa cô đào trẻ vào lòng người ái mộ.
Năm 1978, tham gia cùng với Thanh Nga diễn tuồng Thái hậu Dương Vân Nga, rồi nghệ sĩ Thanh Nga qua đời ngay sau đó, kết thúc giai đoạn rực rỡ của đoàn Thanh Minh – Thanh Nga. Kim Hương được đôn lên đóng vai Dương Vân Nga, đi diễn khắp các tỉnh và tận miền Bắc.
Kim Hương đã hát tròn vai Thái Hậu Dương Vân Nga, nh chịu ảnh hưởng của thần tượng Thanh Nga từ giọng ca đến nét diễn, nên khi vào vai Thái Hậu Dương Vân Nga, nữ nghệ sĩ Kim Hương có gương mặt và phong thái diễn xuất phảng phất bóng dáng của Thanh Nga. Nhất là nhờ các nghệ sĩ tài danh từng đóng với Thanh Nga trong tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga như nghệ sĩ Thanh Sang, Hùng Minh, Hoàng Giang, Văn Ngà, Ngọc Nuôi, Xuân Lan, Bảo Quốc đều biểu diễn rất trang trọng, nghiêm túc như là các bạn đó đang hát với Thanh Nga.
Nữ nghệ sĩ Kim Hương dù thay vai đào chánh của Thanh Nga, hát thành công vai Thái Hậu Dương Vân Nga nhưng cô cũng không thể thành một cô đào chánh được. Khán giả vẫn nhớ những vai đào nhì, đào ba của Kim Hương nhất là vai Tiểu Loan trong tuồng Bên Cầu Dệt Lụa và vai Nàng Tiá trong tuồng Tiếng Trống Mê Linh.
Khi các ngôi sao từ giã đoàn Thanh Minh ra đi thì Kim Hương cũng theo gót, cô được đoàn hát Long An mời về thủ các vai chánh của đoàn hát Long An. Nhưng chỉ một thời gian sau, Kim Hương rời đoàn Long An, cô thành lập nhóm nghệ sĩ đờn ca tài tử ở Long An, chuyên đờn ca tài tử trong các dịp hội hè đình đám ở Long An khi nhóm của cô được mời. Kim Hương dành nhiều thì giờ để đào tạo lớp nghệ sĩ trẻ, rèn luyện giọng ca cổ trong các câu lạc bộ văn hóa trong tỉnh Long An. Sau đó, gia nhập các đoàn Phước Chung, Trung Hiếu, Hương Mùa Thu.
Đến năm 1996, Kim Hương về Nhà hát múa rối Tp. HCM với vai trò người quản lý. Cải lương trở thành một kỷ niệm...
Nghệ sĩ Kim Hương dù đã nghỉ việc, hoạt động tự do, vẫn là người chuyên chạy tài trợ và tổ chức biểu diễn cho múa rối và nhiều chương trình khác. Chị học được “nghề” tiếp thị trong những tháng ngày xa sân khấu. Từ chỗ bất đắc dĩ, chị trở thành chuyên nghiệp hồi nào không hay, và mối quen biết mở rộng khiến chị sống thoải mái hơn. Chị nói: “Tôi sẽ trở lại cộng tác với đoàn Thanh Nga, trưởng đoàn là ông Hoàng Ngọc Ẩn, vì đó là mái nhà đã giúp tôi phát triển nghề nghiệp, tôi vẫn tri ân. Hôm nọ, đi xem đoàn diễn một tuồng Phật, khán giả đông quá, tôi thật xúc động. Cho nên, tôi không chỉ trở lại làm diễn viên, mà còn muốn tổ chức sự kiện gì đó cho đoàn. Mình lớn tuổi rồi, không chỉ đi hát kiếm tiền ào ào như hồi xưa, mà muốn làm việc hướng thiện nữa”. Kim Hương biết cải lương đang hồi khó khăn, nên ước mơ tạo ra những cơ hội để cải lương được sống còn. Bàn tay nhỏ bé nhưng nếu vỗ thì ắt có tiếng kêu, còn hơn ngồi im lặng chờ đợi ngày cải lương tàn rụi.
Thật sự chị rất nhớ nghề. Bao nhiêu năm làm quản lý, tưởng nỗi nhớ đã ngủ yên, không ngờ nó lại sống dậy trong những ngày đi xem danh hài Hoài Linh diễn kịch. Công ty Nụ Cười Mới thuê rạp Măng Non của Nhà hát múa rối Tp. HCM, chị lui tới, rồi đam mê. Chị kể một giấc mơ rất lạ, trong mơ chị thấy Hoài Linh mặc áo vua mà đi chân đất, tới kéo tay chị: “Kim Hương, đi hát đi!”. Chị choàng tỉnh, bàng hoàng linh cảm đó là tổ nghiệp lay gọi chị chứ không phải Hoài Linh ngoài đời. Sau đó tự nhiên Đài truyền hình Tp.HCM mời chị đóng hai tuồng cải lương, rồi một bộ phim dài tập cũng đang mời chị. Chị mừng quá, lăng xăng luyện giọng mỗi ngày. Kim Hương cười rất tươi, ăn ngon lành không cần giữ eo, eo đâu nữa mà giữ! Chồng chị qua đời đã mười năm nay, chị ở vậy nuôi đứa con gái, giờ đang học ngành du lịch.
Kỷ niệm 64 năm thành lập đoàn Thanh Minh Thanh Nga, gia đình nghệ sỹ Thanh Nga thực hiện chương trình Chút tình gởi lại nhân gian với hai vở cải lương kinh điển Bên cầu dệt lụaTiếng trống Mê Linh.
Nghệ sĩ Kim Hương từng đóng vai nàng Tía, Tiểu Loan, Thái hậu Dương Vân Nga háo hức phát biểu: “Mập quá trời đi! Mắc cỡ quá! Thôi lên hát một chút để kỷ niệm với đoàn, chứ bao nhiêu tâm tư xin truyền lại các em sau này, mong giữ gìn cải lương đừng mai một”.
Hai mẹ con nghệ sĩ Kim Hương đang sống vui vẻ trong căn hộ nhỏ ở chung cư tại Sàigòn. Đời nghệ sĩ xem ra cũng không đến nỗi... bèo dạt mây trôi!


Thanh Kim Huệ
Thanh Kim Huệ - Bùi Thị Huệ (1955-20.  )

Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ tên thật là Bùi Thị Huệ, sinh ngày 14 tháng 11 năm 1955 tại Saigon. Thân phụ là Bùi Văn Lang, Mẹ là bà Ngô Thị Kim.
Năm 12 tuổi bé Huệ theo cha mẹ ở đoàn hát Hằng Xuân – An Khương của ông bà bầu Sáu Đặng, một gánh hát bực trung mới thành lập năm 1967. Ông Bầu Sáu Đặng nguyên là nhạc sĩ cổ nhạc đoàn Thanh Minh Thanh Nga, lập gánh hát để tạo cơ hội phát triển cho hai đứa con của ông là nữ nghệ sĩ trẻ Hằng Xuân và bé An Khương. Bé Huệ được cho ca vọng cổ ngoài màn trước giờ hát, giọng hát của bé Huệ 12 tuổi đã được các ký giả kịch trường và khán giả khen ngợi và tiên đoán có nhiều triển vọng trở thành một danh ca nhanh chóng như trường hợp của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu. Nhưng vận số của Bé Huệ chưa thông, đoàn hát Xuân Hằng – An Khương sau đợt hát khai trương tại rạp Nguyễn Văn Hảo, lưu diễn ở các rạp quanh Saigon, Chợlớn, chuẩn bị hát bán dàn ở tỉnh Tây Ninh. Ngày đoàn hát đi Tây Ninh, xe đò chở nghệ sĩ đổ xăng tại ngã tư Bảy Hiền, nghệ sĩ Phi Hùng quẹt ống quẹt đốt thuốc hút, vòi đổ xăng bắt lửa phựt cháy, anh tài xế quăng vòi xăng bỏ chạy, xăng văng vô xe, lửa cháy trong xe nghệ sĩ, nữ nghệ sĩ Hằng Xuân, con gái của ông bà Bầu Sáu Đặng bị phỏng nặng và chết ngay sau đó. Gánh hát Hằng Xuân – An Khương tan rã. Bé Huệ được đoàn Thanh Minh Thanh Nga nhận cho vào học hát, đóng vai em bé trong các tuồng hát của đoàn.
Năm 1968, ông Lang, cha của bé Huệ thấy Bé Huệ không có cơ hội phát triển khi hát trên một sân khấu mà có quá nhiều nghệ sĩ thượng thặng như Thanh Nga, Bích Sơn, Ngọc Nuôi, Ngọc Giàu…ông dẫn bé Huệ gia nhập đoàn hát cải lương Thiên Hương, một đoàn hát nhỏ, chuyên hát ở các quận huyện và tỉnh nhỏ với hy vọng ở đoàn hát nhỏ, Bé Huệ sẽ có những vai tuồng để hát chớ không phải chỉ ca salon ngoài màn. Nhưng rồi đoàn hát Thiên Hương cũng bị rã gánh sau cái Tết Mậu Thân máu lửa.
Năm 1969, bé Huệ theo cha mẹ đi theo đoàn hát cải lương Hoa Phượng của ông Bầu Trung, lưu diễn miền Trung, sau đó đoàn cải lương Thiên Hương về hát các tỉnh Hậu Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long Xuyên. Chiếc ghe chở nghệ sĩ và tranh cảnh của đoàn hát bị chìm trên sông gần Bắc Vàm Cống, nghệ sĩ Thanh Điền đã đeo phao cứu được Bé Huệ và nhiều nghệ sĩ khác. Gánh hát Hoa Phượng tan rã tại đây nhưng tình cảm giữa Bé Huệ và Thanh Điền bắt đầu chớm nở.
Năm 1970, thân phụ của nghệ sĩ Thanh Điền giới thiệu Thanh Điền và Thanh Kim Huệ với ông Bầu Long. Sau khi thử giọng ca, ông Bầu Long chấp nhận cho Thanh Điền và Thanh Kim Huệ vào hát kép nhì, đào nhì trong đoàn Kim Chung 2. Thanh Kim Huệ đã hát các vai đào nhì trong các tuồng Manh Áo Quê Nghèo, Mây Chiều Phú Sĩ Sơn, …Giọng ca của Thanh Kim Huệ được khán giả nhiệt liệt ngợi khen nhưng năm 1970, thời điểm sau cái Tết Mậu Thân, nghệ sĩ cải lương long đong vì đô thành Saigon giới nghiêm ban đêm, hát suất ban ngày không có khán giả, các đoàn hát hát để kiếm sống lây lất qua ngày nên Thanh Kim Huệ không được may mắn như các danh ca nổi lên trong những năm 1960, 1961, 1962….
Năm 1972, nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ được soạn giả Loan Thảo giới thiệu với bà Sáu Liên, chủ hãng dĩa Việt Nam để thu dĩa vọng cổ. Thanh Kim Huệ nổi danh qua các dĩa vọng cổ Yêu Lầm, Biển Tình, Thà Như Giọt Mưa… Bầu Long – Kim Chung bèn nâng Thanh Kim Huệ lên hát vai đào chánh trong đoàn Kim Chung 2.
Năm 1974, Thanh Điền thành lập gánh hát Xuân Liên Hoa, Thanh Kim Huệ là đào chánh. Hai nghệ sĩ Thanh Điền và Thanh Kim Huệ thành hôn vào dịp Tết năm 1975.
Thanh Kim Huệ có chất giọng kim, làn hơi trong suốt và cao vút, kỹ thuật ca khi vô vọng cổ có nhiều lúc lạng, bẻ, uốn éo kiểu như nhiều nghệ sĩ ca vô bài Sương Chiều nhưng giọng ca của Thanh Kim Huệ dầu có luyến láy đến mấy thì vẫn nghe rõ lời, rõ ý, tiếng ca nghe mềm mại, uyển chuyển như vuốt ve mơn trớn, tạo thành một lối ca lạ, hấp dẫn người nghe.
Sau năm 1975, nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ sử dụng nhuần nhuyễn các bài lý, các điệu hò miền Nam vào trong lòng câu vọng cổ hoặc ca gát trước vọng cổ, Thanh Kim Huệ và nam danh ca Thanh Tuấn hợp lại thành một đôi danh ca vọng cổ được giới trẻ ưa thích với các điệu lý ca lồng trong bài vọng cổ.
Sau năm 1975, Thanh Kim Huệ đã đi hát ở các đoàn cải lương Saigon 2, Saigon 3, đoàn cải lương Kiên Giang, đoàn Saigon 1 rồi trở lại Saigon 3.
Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ từ khi mới theo nghiệp sân khấu đến nay, đã hát qua trên cả trăm tuồng hát như Mây Chiều Phú Sĩ, Manh Áo Quê Nghèo, Khói Cỏ Quê Hương, Áo Vũ Cơ Hàn, Mắt Em Là Bể Oan Cừu, Tiếng Hát Rừng Hoang, Linh Hồn Của Quỷ, Quỷ Kiến Sầu, Lỡ Bước Sang Ngang, Ánh Lửa Rừng Khuya, Tiếng Hạc Lưng Trời, Công Chúa Alysa…
Thanh Kim Huệ cũng là nữ tác giả cải lương có nhiều tuồng được dàn dựng trên đoàn hát Kim Chung 2 và đoàn cải lương Saigon 1. Vở cải lương sáng tác đầu tiên của Thanh Kim Huệ là tuồng Quỷ Kiến Sầu. Thanh Kim Huệ có được 20 soạn phẩm cải lương được dàn dựng trên sân khấu Kim Chung 2 và Saigon 1, đó là các tuồng  Nắng Đẹp Muôn Màu, Linh Hồn Của Quỷ, Tiếng Hát Rừng Hoang, Công Chúa Alysa, Em ơi, Đừng Khóc Nữa, Xin Đừng Nói Yêu Em, Bến Tương Tư, Yêu và Ghen…
Thanh Kim Huệ đã thu dĩa, băng, đài truyền hình hơn 300 bài vọng cổ đủ loại.
Nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, mặc dầu có hơi rong, giọng ca lạ, uyển chuyển, có khả năng thu hút cảm tình của người nghe, Thanh Kim Huệ cũng là một cây viết nữ có nhiều tuồng được dàn dựng trên nhiều sân khấu lớn ở Saigòn nhưng có thể nói là khả năng thiên phú cộng với sự nổ lực thường xuyên của cô cũng chỉ làm cho cô ở vào một hoàn cảnh lưng chừng, khi vừa tỏa sáng thì lại gặp khó khăn ngay trong lúc tình hình sân khấu cải lương đang hồi xuống dốc.
Thanh Điền và Thanh Kim Huệ đã bán nhà cửa, xe cộ để đổ vào việc duy trì hoạt động của đoàn cải lương Saigon 1.
Thanh Điền và Thanh Kim Huệ về sau mua được nhà, sắm được xe nhờ vào cái nghề chụp hình cho nghệ sĩ và các khách hàng.
Về gia đình, Thanh Kim Huệ và Thanh Điền có hai con: con trai là Nguyễn Đăng Quang sinh năn 1977 và con gái Nguyễn Đức Hồng Loan, sinh năm 1986. Nguyễn Đăng Quang đang nối nghiệp Thanh Điền trong nghề chụp ảnh. Hai cha con có hai tiệm chụp ảnh rất đông khách tại Saigon.


Hương Lan
Hương Lan - Trần Thị Ngọc Ánh (1956-20 .. )

Nghệ sĩ Hương Lan tên thật là Trần Thị Ngọc Ánh, sinh ngày 9 tháng 5 năm 1956 tại Sàigòn, là con cả trong gia đình có năm người con. Thân phụ là nghệ sĩ Hữu Phước, nghệ sĩ cải lương ở miền Nam Việt Nam thập niên 1960. Dưới sự giáo dục của thân phụ, Hương Lan khởi nghiệp ca hát bằng thể loại vọng cổ. Năm 1961, thân phụ Hương Lan đã đưa cô lên sân khấu và cùng diễn trong vở cải lương Thiếu phụ Nam Xương, khi chỉ mới 5 tuổi. Nghệ danh Hương Lan được ghép từ 2 nghệ danh Thanh Hương và Út Bạch Lan, đó là 2 nghệ sĩ thân thiết với gia đình cô.
Năm 1966, Hương Lan khởi đầu sự nghiệp hát tân nhạc dưới sự dìu dắt của nhạc sĩ Trúc Phương. Nhiều bài tân nhạc do Hương Lan trình diễn đơn hoặc song ca với các danh ca khác được phát trên đài phát thanh hoặc thu âm trên các đĩa nhựa. Ca khúc tiêu biểu của Hương LanAi ra xứ Huế của Duy Khánh nhận nhiều sự chú ý và mến mộ do có chất giọng ngọt ngào và thanh khiết. Hương Lan được hầu hết các nhật báo cũng như tạp chí ở Sàigòn lúc bấy giờ mệnh danh là "thần đồng".
Từ cuối năm 1974, nhạc sĩ Ngọc Chánh đã có những cuộc thương thảo nhằm thực hiện tuyển tập thu băng đầu tiên mang tên Tiếng hát Hương Lan, trong bộ băng nhạc Shotguns thời bấy giờ. Tuy nhiên, dự án này không thể thực hiện do thời cuộc đầu năm 1975.
Đầu năm 1975, Hương Lan cùng cha được mời về diễn cải lương và tuồng cổ với đoàn Kim Chung. Thời gian này, Hương Lan thường diễn chung với kép hát trẻ lừng danh thập niên 1970 với nghệ sĩ Chí Tâm. Chỉ trong một thời gian ngắn, cặp đôi Chí Tâm - Hương Lan là một trong những cặp diễn thu hút khán giả nhất ở Sài Gòn với các vở diễn Hán đế biệt Chiêu Quân, Cây sầu riêng trổ bông, Nắng thu về ngõ trúc…
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hương Lan vẫn tiếp tục sự nghiệp ca hát trong đoàn cải lương Văn Công với các vở Tình yêu và Bạo chúa, Cây sầu riêng trổ bông, ... Tháng 12 năm 1975, Hương Lan lập gia đình với nghệ sĩ Chí Tâm, khi mới 20 tuổi. Năm 1977, Hương Lan sinh hạ người con trai đầu, đặt tên là Bảo Nhi.
Hữu Phước thân phụ Hương Lan, có quốc tịch Pháp, nên đã sang Pháp định cư theo diện "hồi hương" sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Tháng 2 năm 1978, Hương Lan cùng chồng và người con trai được thân phụ bảo lãnh xuất ngoại định cư tại Pháp. Khi đó Hương Lan đang mang thai người con trai thứ 2.
Thời gian đầu ở Pháp, Hương Lan cùng chồng và hai con trai cư ngụ tại Saint Tolomon, ngoại ô thủ đô Paris. Cuộc sống chật vật, dù mới sinh hạ người con trai thứ 2, bà phải đi làm thuê ở nhà hàng kiếm sống, vừa hỗ trợ chồng có thể học tiếng Pháp và học nghề. Sang năm 1979, Chí Tâm may mắn xin được việc làm ở công ty Alcatel Thompson, một liên danh sản xuất bản mạch điện tử, nhờ đó cuộc sống gia đình cũng đỡ phần nào. Sau đó, gia đình Hương Lan dọn về quận 13 ở Paris.
Hoạt động nghệ thuật của Hương Lan - Chí Tâm bấy giờ, chỉ giới hạn thỉnh thoảng đi hát trong các buổi lễ của cộng đồng Việt Nam tại Pháp. Thời gian này, giữa hai người bắt đầu nảy sinh những rạn nứt và mâu thuẫn. Năm 1982, Hương Lan ly dị và dẫn hai con trai sang Mỹ. Tại Mỹ, Hương Lan tham gia sinh hoạt văn nghệ trong cộng đồng người Việt. Năm 1983, Trung tâm Thúy Nga mời Hương Lan tham gia thu âm và ghi hình cho tuyển tập chương trình Paris By Night, Hương Lan tham gia biểu diễn với 2 nhạc phẩm Muộn màng của tác giả Tấn Phát, song ca với Tấn Phát và Trên đỉnh mùa đông của tác giả Trần Thiện Thanh. Sau khi chương trình được phát hành dưới dạng băng VHS, đã nhanh chóng phổ biến trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Cũng nhờ đó, Hương Lan có sự thành công trở lại trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại.
Trong những năm sau đó, Hương Lan trở nên một trong những giọng ca trụ cột của Trung tâm Thúy Nga. Bên cạnh đó, Hương Lan cũng biểu diễn và thu âm cho một số chương trình âm nhạc khác như Trung tâm Asia, Bước chân hai thế  hệ, qua đó được cộng đồng người Việt hoan nghênh. Thập niên 1980 từng được mệnh danh là "thập niên của Hương Lan", khi Hương Lan liên tiếp thành công trên cả hai lĩnh vực tân nhạc lẫn cổ nhạc. Cặp Tuấn Vũ – Hương Lan được xem là cặp song ca lừng danh trong thị trường âm nhạc hải ngoại vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990.
Đầu năm 1986, trong buổi tiệc mừng sinh nhật của ca sĩ Elvis Phương, Hương Lan gặp ông Đặng Quốc Toàn, một kỹ sư cơ khí hàng không. Hai người nảy sinh tình cảm và chính thức đi đến hôn nhân vào năm 1988. Ông Toàn có 3 người con riêng trước khi về sống với Hương Lan.
Trong một số bài phỏng vấn, Hương Lan vẫn thường cho biết rằng cuộc đời Hương Lan chỉ phụng sự cho nghệ thuật và mơ ước của cô là được trở về hát trên chính quê hương của mình. Năm 1994, lần đầu tiên Hương Lan trở về Việt Nam cùng với những nghệ sĩ hải ngoại Quốc Anh, Đức Huy và Thảo My. Hai năm sau, Hương Lan được phép trình diễn trước khán giả tại Việt Nam nhờ ở "thiện chí phục vụ khán giả và niềm ước mơ tầm thường của mình" được nhận biết.
Tháng 5 năm 2009, Hương Lan tổ chức liveshow của mình tại Việt Nam với tên: Ơn đời một khúc dân ca. Tuy có nhiều trục trặc về khâu dàn dựng, cả Hương Lan và khán giả đều không vừa ý với cách làm việc của ông bầu Hữu Lộc và sự cố về tiền thù lao của công ty Nụ cười mới, nhưng liveshow đã kết thúc tốt đẹp và thu hút đông đảo khán giả với giá vé mức cao nhất lên đến 1,5 triệu đồng/vé.
Hiện nay, tuy tuổi đời đã cao nhưng Hương Lan vẫn hoạt động tích cực, tiếng hát của Hương Lan vẫn có sức sống vượt thời gian trong lòng thính giả.



Phượng Mai
Phượng Mai - Trương Thị Bích Phượng (1956-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Phượng Mai tên thật là Trương Thị Bích Phượng sanh ngày 29 tháng 10 năm 1956, tại Tỉnh Bến Tre. Con của một gia đình đông con. Cha mẹ của Phượng Mai có tất cả 13 người con mà Phượng Mai là con gái thứ 7, vì nhà nghèo, khổng thể nuôi 1 đàn con đông như vậy nên cha mẹ của Phượng Mai cho cô làm con nuôi của bà cô ngoại là nữ nghệ sĩ tiền phong Cao Long Ngà.

Gia đình của Phượng Mai bên nội, ngoại đều là những nghệ sĩ nổi danh trong sân khấu tuồng cổ. Phượng Mai thuộc về thế hệ thứ 5 trong gia đình nghệ sĩ nầy. Ông Ngoại là nghệ sĩ tài danh Cao Tùng Châu, bầu gánh hát bội Phước Tường. Nữ nghệ sĩ Cao Long Ngà, em gái của ông Cao Tùng Châu là 1 diển viên hát bội tài danh được Hội Khuyến Lệ Cổ Ca liệt vào danh sách Ngũ Trân Châu của ngành hát bội, gồm có các viện ngọc quí như Cô Năm Nhỏ, Năm Đồ, Cao Long Ngà, Năm Sa Đét và Ba Út.
    
Tuy vai vế của nghệ sĩ Cao Long Ngà ngang hàng với bà nội, bà ngoại của Phượng Mai, nhưng bà cho Phượng Mai gọi bà bằng Má và gọi chồng bà, ông Sáu Xường bằng Cha. Sáu Xường là cầu thủ nổi danh của đội banh Étoile Gia Định, cùng với thủ môn Tịnh, đấu ngang ngửa với đội banh Hương Cảng mà trung phong Lý Huệ Đường của đội banh Quốc Tế này đã thán phục hậu vệ Xường và thủ môn Tịnh của Việt Nam.

Ông cậu của Phượng Mai là em vợ của ông bầu Nguyễn Phước Cương, cha ruột của nữ nghệ sĩ Kim Cương; do quan hệ gia đình nên lúc Phượng Mai được 5 tuổi, Kim Cương đã đưa Phượng Mai đi đóng phim, 1 vai con trong phim Ảo Ảnh của đạo diển Hoàng Vĩnh Lộc.
    
Phượng Mai hát vai con trong vở Thiếu Phụ Nam Xương trong ban kịch Kim Cương, diển mổi sáng chúa nhựt tại rạp Thanh Bình Sài Gòn. Cô còn được Kim Cương tập cho các vai đào con trong các vở kịch: Tôi Là Mẹ, Cuối Đường Hạnh Phúc, Sắc Hoa Màu Nhớ.
    
Ngoài việc đóng phim, đóng kịch, hàng đêm Phượng Mai đều theo bà mẹ nuôi Cao Long Ngà đến rạp hát, xem bà hát nên từ nhỏ đến lớn, tiếng đàn, giọng ca, trống, phách và các điệu múa hát của nghệ sĩ trên sân khấu tiêm nhiễm vào tiềm thức nên Phượng Mai tuy không chánh thức được truyền nghề, cô vẩn múa hát rất có duyên.
    
Phượng Mai học trường tiểu học Phan Văn Trị, ngang rạp hát bóng Đại Nam ở đường Trần Hưng Đạo.

Trong những năm 1960, 1961, rạp hát bóng Đại Nam chiếu phim Đài Loan Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Thanh Xà Bạch Xà, nhân viên gác cửa rạp chiếu bóng quen biết các nghệ sĩ đoàn hát Bầu Thắng và Bầu Cung nên cho các nghệ sĩ vào xem hát bóng mà khỏi mua vé. Phượng Mai nhân đó được xem phim Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài. Cô mê 2 diển viên tài danh Trung Quốc: Lăng Ba và Lạc Đế trong 2 vai Lương Sơn Bá & Chúc Anh Đài nên trốn học, xem liền cả tuần lể, nhập tâm học cách ca diển của 2 diển viên tài danh Đài Loan đó.

Nhà trường gởi thơ cho bà Cao Long Ngà, báo tin Phượng Mai thường trốn học, bà giận lắm, bắt Phượng Mai cúi xuống cho bà đánh, răn dạy. Phượng Mai mới bị 1 roi, mếu máo khóc nói: “Má ơi, đừng đánh con đau. Để con hát bội làm đào má coi.”
    
Bà Cao Long Ngà và Ông Sáu Xường tức cười, nói: “Được! Má không đánh nửa, con nói làm đào hát, hát cho má coi, không hát được thì ăn 5 roi về tội nói láo đó.”

Phượng Mai dạ 1 tiếng thật lớn rồi chạy kiếm tấm khăn lông, choàng vào vai, cầm cây quạt, múa, ca, diển lớp Lương Sơn Bá gặp Chúc Anh Đài lần đầu tiên gặp nhau nơi trường đình. Cô đóng cả 2 vai và nhại ca theo tiếng Tàu trong phim, dĩ nhiên là không thật đúng, nhưng nghe ra tiếng Tàu và điệu ca hát Đài Loan, điệu hát rất thịnh hành trong giới ca cổ.
Bà Cao Long Ngà sửng sốt, gọi chồng: “Anh Sáu! Con Mai nó hát giống Lăng Ba quá.”
Ông Sáu cũng mừng, bảo bà đi vô Chợ Lớn đặt may cho Phượng Mai mấy bộ đồ Tàu để Phượng Mai thủ diển 2 vai Lương Sơn Bá & Chúc Anh Đài vì nét diển, giọng ca, cách hát của Phượng Mai rất giống Lăng Ba và Lạc Đế, 2 danh tài phim ảnh Đài Loan.
Giổ Tổ năm đó, bà Cao Long Ngà dẩn Phượng Mai tới nhà Hội Ái Hữu Nghệ Sĩ đường Cô Bắc, cho Phượng Mai lạy Tổ và hát vai Lương Sơn Bá nơi trường đình để hầu Tổ. Các nghệ sĩ tiền phong, các ký giả kịch trường đều khen hay, khen giống Lăng Ba. Ký Giả Nguyễn Ang Ca tặng cho Phượng Mai danh hiệu “Thần Đồng Tiểu Lăng Ba.”
Mới 7 tuổi, Phượng Mai đã nổi danh Thần Đồng Tiểu Lăng Ba, cô đã hát trong các xuất Đại Nhạc Hội trong 2 vai của Lăng Ba và Lạc Đế và được khán giả hoan nghinh nhiệt liệt.
Cha nuôi của Phượng Mai, ông Sáu Xường, cầu thủ bóng dá, phó Hội Trưởng Hội Ái Hữu Nghệ Sĩ, vi ông cũng là kép hát bội lừng danh, muốn đào luyện cho Phượng Mai trở thành 1 nghệ sĩ chuyên nghiệp nên ngăn cấm không cho Phượng Mai đi học lóm như trước nay vì học lóm rất dể “hư nghề.”
Ông nói: “Phượng Mai là viên ngọc quí chưa được dũa mài, nếu để tự phất sẽ không có giá trị lớn mà phải nhờ những tay thợ chuyên môn dũa mài, đào luyện 1 cách quy mô và căn bản.”
Ông gửi Phượng Mai vào học lớp Đồng Ấu Minh Tơ, do chính danh sư Minh Tơ dạy ca, hát, múa theo đúng căn bản của nghành hát Bội. Về cổ nhạc cải lương, học với nhạc sĩ Tư Tần, nhạc trưởng dàn nhạc cổ Minh Tơ. Học tân nhạc với nhạc sĩ Bảo Thu. Học múa lân với nghệ sĩ Mười Vàng. Học ca Hồ Quảng với nhạc sĩ Há Thầu Chợ Lớn. Học tổng hợp, tức diển 1 vai tuồng đã được định hình trên sân khấu như vai Lữ Bố, vai Điêu Thuyền, vai Lưu Kim Đính … thì học trực tiếp với nữ nghệ sĩ Phùng Há. Học các vai đào trong tuồng Ngũ Biến Báo Phu Cừu, học vai Giả Thị trong tuồng Hoàng Phi Hổ Quy Châu thì học nơi bà Cao Long Ngà và bà Năm Đồ. Ngoài ra, Phượng Mai vẩn phải tiếp tục học Văn Hóa ở trường Tiểu học Phan Văn Trị.
Trong thời gian học nghệ, nếu có biểu diển ở các Đại Nhạc Hội thì Phượng Mai diễn những vai những trích đoạn học được nơi các danh sư kể trên, coi như làm bài kiểm hay học ôn.
7 năm khổ luyện, mổi năm học nghệ, Phượng Mai đều có những thành tựu xuất sắc.
Năm 9 tuổi, Phượng Mai đã nổi tiếng với Vũ Đức ở nhóm Đồng Ấu Minh Tơ qua nhiều vở tuồng như Na Tra, Ngũ Biến, Hoa Mộc Lan, Lương Sơn Bá & Chúc Anh Đài.
 Năm 1970, Phượng Mai 14 tuổi đã vững vàng trong các vai đào chánh ở Ban Cải Lương Hoa Thế Hệ, Phụng Hảo và nhiều ban kịch, cải lương trên Đài Truyền Hình, đóng cặp với Thanh Tòng, La Thoại Tân, Vũ Đức, Thanh Bạch, Đức Lợi, Hùng Cường …
Các chương trình cải lương Hồ Quảng có Phượng Mai làm đào chánh, được Đài Truyền Hình phát đi vào các tối thứ bảy, thu hút đông đảo khán giả ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định và các vùng phụ cận.
 Sau năm 1975, Phượng Mai hát vai đào chánh ở Đoàn Minh Tơ với Thanh Tòng qua các tuồng Dưới Cờ Tây Sơn, Xuân Về Trên Đỉnh Mã Phi, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài.
 Năm 1977 hát trên sân khấu Huỳnh Lon với Thanh Bạch, Hữu Lợi, Đức Lợi qua các tuồng Con Tấm Con Cám, Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu, Về Đất Kinh Châu, Đường Về Núi Lam
 Đầu năm 1979, hát cho đoàn Dạ Lý Hương – Sông Bé thay vai Mộng Tuyền trong tuồng Bao Công Xử Án Trần Thế Mỹ.
Cuối năm 1979, Phượng Mai theo chồng định cư ở Tây Đức trong 15 năm.
Năm 1982 bà Cao Long Ngà, bà cô mà cũng là má nuôi của Phượng Mai mất. Cô không về thọ tang được, chỉ biết hướng về Việt Nam van vái, và đến chùa cầu siêu cho vong hồn bà được siêu thăng.
Từ năm 1991, Phượng Mai có về Việt Nam thực hiện băng Hồ Quảng, kỷ niệm 40 năm hát Hồ Quảng, đóng chung với các diển viên Vũ Linh, Thanh Hằng, Kim Tử Long, Chí Linh, Minh Vương, Thanh Sang, Tuấn Châu.
 Từ năm 1994, gia đình đổ vở, cô sang qua California định cư, sống với 2 con. Ở hải ngoại suốt 19 năm, Phượng Mai vẩn sống bằng nghề hát vì cô giỏi về mọi mặt. trong lãnh vực tân nhạc, cô được các trung tâm băng nhạc lớn mới thu thanh thu hình cho các trung tâm băng nhạc Thúy Nga, Làng Văn, Giáng Ngọc, được mời đi show tân nhạc, cải lương và Hồ Quảng, hát chung với Hương Lan các vở tuồng: Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Cho Trọn Cuộc Tình, Tấm Lòng Của Biển, Áo Cưới Trước Cổng Chùa, Khi Hoa Anh Đào Nở, Người Đẹp Bạch Hoa Thôn, Hoa Đồng Cỏ Nội, Dương Quí Phi …
Số đông nghệ sĩ tuồng cổ như hát hội, hát bội pha cải lương, hồ quảng thường gỏi về vũ đạo mà yếu v ca, hơi khan hoặc tiếng hát rè rè, riêng Phượng Mai là cô đào hiếm hoi hội đủ hai yếu tố: ca và diển xuất sắc.
Giọng Phượng Mai ấm áp, ngọt ngào, truyền cảm, có hơi thổ như giọng ca của Thanh Nga, Mỹ Châu. Phượng Mai ca cổ nhạc theo điệu cải lương rất chuẩn mực, đúng bài bản, đúng điệu, theo đúng chân truyền, ca Hồ Quảng cũng rất hay, rõ lời.
Phượng Mai diển xuất đằm thắm, tinh tế, biết tiết chế hành động tối đa để các động tác vũ đạo dịu dàng, nhuần nhuyễn. Trong vai Văn cũng như vai Võ, Phượng Mai đều có những bước đi, vung tay đẹp, đúng cách, chỉ cần nhìn từng bước đi, điệu bộ của Phượng Mai, người xem khẳn định đây là 1 nghệ sĩ nhà nghề.



Hữu Huệ
Hữu Huệ - Nguyễn Công Đến (1956-20 .. )

Nghệ sĩ Hữu Huệ tên thật là Nguyễn Công Đến sanh năm 1956, con của ông Nguyễn Công Đoan, tài xế, mẹ là bà Lê Thị Lan. Bà Lê Thị Lan thứ sáu, em ruột của nghệ sĩ Ngọc Hương, thứ ba, còn vợ của ông Bầu Huỳnh, cha mẹ ruột của các nghệ sĩ Bạch Mai, Thanh Bạch. Nghệ sĩ Hữu Huệ và các nghệ sĩ Bạch Mai, Thanh Bạch là anh em bạn dì ruột, họ sống gần nhau từ nhỏ cho đến lớn trong đoàn hát, lấy rạp hát làm nhà. Nghệ sĩ tuồng cổ tài danh Minh Ngà là người cậu thứ tư của Hữu Huệ.
Từ lúc 8 tuổi, Hữu Huệ đã theo đoàn hát Chánh Thành – Kim Mai của bà Bầu Tám Chánh, vừa học văn hóa, vừa học hát. Khi gánh hát của Bà Tám Chánh trao lại cho ông Bảy Huỳnh phụ thân của Bạch Mai Thanh Bạch điều khiển, ông đổi bảng hiệu thành Thanh Bình Kim Mai, Kim Mai là tên cũ của nghệ sĩ Bạch Mai, Hữu Huệ được ông Bảy Huỳnh, ông Bữu Ngọc, thân phụ của Bữu Truyện và nghệ sĩ Minh Ngà truyền nghề, ngoài ra hàng đêm Hữu Huệ ngồi bên cánh gà, theo dõi cách ca diễn của các nghệ sĩ đàn chú bác trình diễn để học theo.
Hữu Huệ cũng bắt đầu nghề hát bắt việc đóng các vai quân hầu, quân báo, kép con, kép phụ, kép mặt vằn, kép mặt trắng, luyện cách nói lối, luyện giọng ca và nhứt là phải học rành các loại vũ đạo trên sân khấu tuồng cổ. Nghệ sĩ Hữu Huệ đã đóng nhiều vai võ tướng trong các tuồng của Ban Huỳnh Long thu trên đài truyền hình.
Sau năm 1975, khi bà Ngọc Hương thân mẫu của nghệ sĩ Thanh Bạch, thành lập đoàn hát cải lương tuồng Cổ Huỳnh Long thì nghệ sĩ Hữu Huệ là diễn viên dàn bao chánh của gánh hát. Vai trò của Hữu Huệ trên sân khấu Huỳnh Long quan trọng như vai trò của anh Việt Hùng và Hoàng Giang trên sân khấu Thanh Minh Thanh Nga ngày trước.
Hữu Huệ hát xuất sắc các vai Bằng Phong trong tuồng Lá Chắn Biên Thùy, sau đổi tựa tuồng là Nữ Tướng Hồ Đề, vai Tạ Ôn Đình trong tuồng cải lương San Hậu, vai Ngô Tôn Quyền trong tuồng Lưu Bị Cầu hôn Giang Tả, sau đổi tựa là Về đất Kinh Châu. Anh cũng có nhiều vai hát thành công trong các tuồng Hùm Thiêng Yên Thế, Tấm Cám, Đường Về Núi Lam
Cuối thập niên 90, nghệ sĩ Hữu Huệ được giới nghệ sĩ đánh giá là có tay nghề cao trong lãnh vực biểu diễn vũ đạo tuồng cổ, anh chỉ dạy vũ đạo tuồng cổ cho nhiều nghệ sĩ cải lương tài danh như Thanh Thanh Tâm, Thoại Mỹ, Chí Linh, Vân Hà, Ngân Tuấn, Tiểu Linh….
Tưởng cũng nên giới thiệu qua đặc trưng của nghệ thuật hát cải lương tuồng cổ mô phỏng theo lối hát Hý Khúc Trung Quốc của các đoàn hát Quảng ngày xưa ở Việt Nam như đoàn hát Tiến Hóa, đoàn Phụng Hảo, đoàn Vĩnh Xuân – Khánh Hồng, đoàn Minh Tơ…
Trong nghệ thuật biểu diễn tuồng Tàu, yếu tố âm nhạc chiếm một địa vị trọng yếu. Vì vậy những lời đối thoại giữa các nhân vật không hát tự nhiên như ngôn ngữ ngoài đời thường mà phải ngâm nga, nhấn nhá theo tiết tấu và âm điệu nhạc. Người ta gọi đó là ngôn ngữ đã được âm nhạc hóa.
Về động tác hình thể thì cũng không phải diễn như ở cuộc sống bình thường mà phải được nâng lên thành múa, thành vũ đạo. Người trong nghề gọi là các động tác được cường điệu hóa, vũ đạo hóa. Ví vụ từ việc dâng trà, cách phất tay áo, tay vuốt râu, mỗi bước đi…nói chung để biểu lộ cảm xúc của nhân vật thì động tác hình thể phải được cách điệu hóa, được nâng lên thành vũ đạo kết hợp nhuần nhuyễn với cách ca ngâm và hát thay cho những lời đối thoại bình thường.
Trong nghệ thuật hát tuồng Tàu, khi động tác hình thể được vũ điệu hóa, lời thoại được âm nhạc hóa thì tiết tấu của ca và diễn phải được cường điệu hóa. Tiếng trống, tiếng mõ, tiếng thanh la đệm theo diễn xuất của diễn viên làm tăng thêm biểu cảm tâm lý của nhân vật, tăng thêm kịch tính của lớp diễn đó, đến độ diễn viên chớp mắt, đão tròng con ngươi, ngón tay run rẩy đều theo nhịp trống.
Tuy lối diễn của các đoàn hát Phụng Hảo, Khánh Hồng, Minh Tơ, Huỳnh Long sau nầy có giản lược bớt những bài bản và âm điệu nhạc Tàu nhưng cách diễn xuất, điệu bộ, nhạc nền vẫn giữ lối cách điệu hóa như xưa.
Một số nghệ sĩ còn biết theo lối diễn xuất nầy như Thanh Tòng, Công Minh, Trường Sơn, Minh Long, Hữu Huệ hiện còn sống và còn xuất hiện trên sân khấu thì Hữu Huệ là người trẻ nhất, có đầy đủ sức khoẻ và xông xáo nhất trong việc tập luyện đào tạo các diễn viên trẻ.
Nghệ sĩ Hữu Huệ có được nhiều suất hát trong nước và ở hải ngoại vì anh vừa có thể đóng nhiều vai tuồng và hướng dẫn vũ đạo tuồng cổ cho nhiều nghệ sĩ chuyên hát xã hội hay các nghệ sĩ trẻ mới thành danh sau nầy.
Nguyện vọng của nghệ sĩ Hữu Huệ là được mở một lớp dạy hát theo nghệ thuật tuồng cổ như lối truyền nghề xưa kia của ông Minh Tơ qua lớp Đồng Ấu Minh Tơ hay lớp đồng ấu Bạch Long.
Về gia đình, Hữu Huệ thành hôn năm 1980, vợ của anh tên Ngọc Bích, công nhân viên, anh chị có 4 con tên Đông, Đăng, Ngân và Hà. Đăng là diễn viên sân khấu có nghệ danh Đăng Lưng, học được khả năng ca diễn theo nghệ thuật hát tuồng cổ của cha và có giọng ca ngọt, Đăng Lưng cũng là một ngôi sao sân khấu tuồng cải lương xã hội. Các người còn lại sau khi tốt nghiệp ở học đường đều là công nhân viên của nhà nước.


Tài Linh
Tài Linh - Huỳnh Thị Phú Nhuận (1956-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Tài Linh, tên thật là Huỳnh Thị Phú Nhuận, sinh năm 1956 tại Sàigòn. Cha cô quê ở Bình Định, mẹ là người ở tỉnh Bến Tre. Hai ông bà là chủ tiệm may "Ngọc Châu’’ ở đường Ngô Tùng Châu, một tiệm chuyên may âu phục rất nổi tiếng ở Saigon.
Tài Linh có tên khai sinh là Phú Nhuận. Phú Nhuận là tên một làng quê xa của cha cô. Đó là thôn Phú Nhuận, tổng Tài Lương, phủ Bồng Sơn, tỉnh Qui Nhơn. Cho nên tên của chị là Tài Lương, tên em là Phú Nhuận.
Tài Linh có 7 chị em mà 3 người theo nghề hát và cùng nổi danh : Chị là nữ nghệ sĩ Tài Lương, đoàn cải lương Saigon 3. Tài Lương đã cùng chồng là nghệ sĩ Minh Tâm đi định cư tại Pháp hồi tháng 5 năm 1981. Kế đó là nữ nghệ sĩ Tài Linh và em trai tên Huỳnh Trung Đức sanh năm 1964, nghệ danh là Chí Linh; vợ của Chí Linh là nữ nghệ sĩ Vân Hà, con gái của soạn giả Vân An.
Tài Linh theo nghề hát cải lương là do hoàn cảnh đẩy đưa chớ không phải do Tài Linh thích cổ nhạc, xin gia đình cho đi học cổ nhạc như trường hợp của Vũ Linh, hay của Kim Tử Long, Ngọc Huyền.
Về cổ nhạc, tân nhạc và tấu hài, trên lãnh vực nghệ thuật nào Tài Linh cũng thành đạt khó có người hơn cô.
Về đời sống gia đình, chồng của Tài Linh là nhạc sĩ Viết Cường, Viết Cường và Tài Linh là đôi bạn học thân thiết và yêu nhau từ khi còn cùng chung mái trường, cả hai chung sống hạnh phúc đến nay hơn hai mươi năm, có được hai con trai nay đã học thành tài.
Tài Linh phấn đấu không ngừng về nghề nghiệp, tánh tình hiền lành, dịu dàng, nếp sống bình dị nên thành công trong sự nghiệp sân khấu và đạt được hạnh phúc gia đình bền vững.
Hiện nay Tài Linh và gia đình định cư ở nước Hoa Kỳ, gần đây cô tham gia những chương trình hát cải lương ở quận Cam, ở San José và rất được khán giả đồng hương ở hải ngoại tán thưởng.
Năm 1977, cha của Tài Linh bị bệnh, mất, thời buổi này tiệm may âu phục ế ẩm, bà mẹ giao cho cô con gái lớn quán xuyến tiệm may, bà dẫn Tài Linh, Chí Linh và đứa con gái út về quê ở Bến Tre sinh sống. Nữ nghệ sĩ Tài Lương hát ở đoàn cải lương Saigon 3, khi có dịp là cô về Bến Tre thăm mẹ và các em.
Cuộc sống ở dưới quê khó khăn nên Tài Lương đưa Tài Linh về Saigon, làm nhân viên bán vé hát của đoàn cải lương Saigon 3. Năm 1977, Tài Linh được 21 tuổi, cô thường ca tân nhạc trong các dịp sinh hoạt Thanh niên trong đoàn cải lương Saigon 3, cô được các nghệ sĩ trong đoàn như Thanh Điền, Thanh Kim Huệ ngợi khen.
Các nữ nghệ sĩ Lan Chi và Thúy Lan dạy cho Tài Linh ca cổ nhạc. Tài Linh học thêm ca cổ nhạc với nhạc sĩ Duy Khanh, con của nhạc sĩ đàn tranh Vũy Chổ, trưởng ban cổ nhạc đoàn cải lương Saigon 3.
Tài Linh may mắn được các nghệ sĩ đàn anh đàn chị như Thanh Điền, Thanh Kim Huệ, Thúy Lan, Lan Chi, hề Thanh Việt trong đoàn cải lương Saigon 3 chỉ dạy nghệ thuật ca diễn nên Tài Linh đã diễn xuất thành công hai vai diễn đầu tiên trên sân khấu đoàn Saigon 3 là vai Mai trong vở Mái Tóc Người Vợ Trẻ và vai ‘’Sa Rong’’ trong vở Tình Ca Biên Giới. Tài Linh nghĩ đến người cha đã mất nên cô lấy tên cha là ‘’Ngọc Châu’’ làm nghệ danh của mình.
Tài Linh (Ngọc Châu) có nét đẹp thùy mị, như một con búp bê nhỏ nhắn dể thương, giọng ca trong vút nhưng khi diễn chung với hai ngôi sao sân khấu Thanh Kim Huệ và Tài Lương thì Tài Linh ( Ngọc Châu) không thể nào bật sáng lên được.
Năm 1981, dịp may mắn đã đến với Ngọc Châu khi nghệ sĩ Quốc Trầm, bầu đoàn cải lương Nha Trang mời Ngọc Châu vế làm đào chánh. Ngọc Châu thay đổi nghệ danh thành tên Tài Linh. Tài Linh đã diễn ở nhiều tỉnh miền Trung với các nghệ sĩ Quốc Trầm, Phương Dung, Vương Tuấn, Lệ Huyền, Thanh Hùng, được khán giả miền Trung rất ái mộ qua các vở tuồng Công Chúa Tóc Thơm, Cây Gậy Thần, Tình Ca Biên Giới.
Từ năm 1981 đến năm 1988, trong 7 năm liên tục, Tài Linh đã là đào chánh của các đoàn hát Tiếng Ca Sông Cửu, Tây Ninh 2, Long Giang, Vũng Tàu 2, Cữu Long 1, Tài Linh đã đi lưu diễn qua các tỉnh miền Trung, miền Đông, miền Tây Hậu Giang với các tuồng Công Chúa Tóc Thơm, tức là tuồng cũ Sĩ Vân Công Chúa được đổi tên, tuồng Tội Của Ai, tức tuồng Máu nhuộm sân chùa và các tuồng cổ tích dân gian như Khoai Lang Dương Ngọc, Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, Lâm Sanh Xuân Nương…
Đến năm 1989, Tài Linh được đoàn cải lương Minh Tơ mời về hát thế vai cho nữ nghệ sĩ Thùy Dương vì Thùy Dương theo chồng đi định cư ở Canada. Đây là một dịp may mắn đã chắp đôi cánh thiên thần cho Tài Linh, bay cao và bay cao mãi trên bầu trời nghệ thuật.
Ở đoàn Minh Tơ, Tài Linh được diễn viên kiêm đạo diễn Thanh Tòng chỉ dạy cho những vũ đạo cơ bản của sân khấu tuồng cổ, những bài ca Hồ Quảng. Tài Linh sáng dạ, tiếp thu mau, có duyên sân khấu, có sắc đẹp đằm thắm dịu dàng lại được mặc y phục cổ trang rực rở, Tài Linh xuất hiện trong các vai Nữ Hoàng, Công Chúa, Tài Linh xinh đẹp một cách lạ lùng, sang trọng, giọng ca sâu lắng mượt mà khiến cho khán giả si mê thần tượng Tài Linh thinh sắc lưởng toàn.
Tài Linh hát trên sân khấu Minh Tơ, thành công trong nhiều vai như Hàn Tố Mai trong tuồng Trảm Trịnh Ân, vai Điêu Thuyền trong tuồng Phụng Nghi Đình, vai Chúc Anh Đài trong tuồng Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, vai Võ Tắc Thiên và vai Thái Bình Công Chúa trong tuồng Thái Bình Công Chúa, đặc biệt Tài Linh sáng chói nhất là vai Lý Thần Phi trong tuồng Bích Vân Cung Kỳ Án và được khán giả ưa thích qua kỹ thuật ca diễn và hình ảnh tuyệt đẹp của Tài Linh trong vai Bàng Quí Phi tuồng cải lương Hồ Quảng Bàng Quí Phi.
Vở Bích Vân Cung Kỳ Án được diễn hai năm liên tục ở Sàigòn và các tỉnh, đêm nào cũng đông nghẹt khán giả. Báo chí không ngớt khen ngợi Tài Linh, khán giả săn đón, xin ảnh thần tượng Tài Linh, xin chữ ký và gần như lúc nào Tài Linh xuất hiện trên đường phố cũng bị rất đông khán giả vây quanh, chào hỏi, chụp ảnh.
Năm 2004 theo diện đoàn tụ gia đình, nghệ sĩ Tài Linh rời quê nhà trong nước mắt. Gia đình chị được cha chồng bảo lãnh, lúc rời Việt Nam, con trai chị là Đoàn Duy An mới 23 tuổi, nay chàng trai này đã là cha của hai cô bé và nghệ sĩ Tài Linh đã lên chức bà nội. Những năm đầu sang Mỹ, chị sinh sống bằng nghề làm móng ở Victor Ville.

Ba năm sống ở đây đối với chị là những chuỗi ngày dài nhớ quê hương và ánh đèn sân khấu. So với các nghệ sĩ định cư tại Mỹ, ngh
ệ sĩ Tài Linh ít nhận sô biểu diễn.

Năm 2008, khi gia đình Tài Linh dọn về Huntington Beach, thành phố biển nằm trong khu Santa Ana, trung tâm định cư của người Việt, ngoài nghề trang điểm và làm đẹp ở tiệm “neo” nổi tiếng của chị, khán giả kiều bào đã gặp lại một Lý Thần Phi - Tài Linh và nhiều vai diễn khác của ngh
ệ sĩ Tài Linh trên đất Mỹ.


Bình Trang
Bình Trang (1957-20 .. )

Nghệ sĩ Bình Trang tên thật là Đoàn Hồng Lê, sanh năm 1957 tại Saigon, gia đình khá giả, không có ai theo nghề sân khấu.
Hồng Lê bắt đầu làm quen với câu ca vọng cổ khi mới được 7 tuổi. Khi đó Hồng Lê có 2 người chị họ, là con gái của người cô thứ Tư, là chị Ngọc Mai và Ngọc Xuân, 2 chị này chỉ đi ca tài tử thôi, chứ không tham gia đoàn hát. Còn cô hai của Hồng Lê có người con trai chuyên về đàn kìm, là Ba Của, và người phụ đờn guitare phím lõm với anh là anh Triệu. Chính những giai điệu ngọt ngào của vọng cổ, cải lương từ tiếng đàn, lời ca của người anh, người chị họ trong gia đình đã dưỡng nuôi trong cô bé Hồng Lê bấy giờ một tình yêu nồng đượm với cổ nhạc miền Nam.
Hồng Lê kể: “Nhớ hồi đó, chừng 7, 8 tuổi thôi, ngoài những lần đi theo nghe 2 chị Ngọc Mai, Ngọc Xuân hát cải lương, đã khiến tôi mê mẩn, thế rồi một lần tôi có xem trên truyền hình vở cải lương “Yêu người điên” do nghệ sĩ Bạch Tuyết và Hùng Cường đóng, khi đó tôi càng thích thú hơn và mê cải lương hơn, mê cô Bạch Tuyết vô cùng. Bấy giờ gia đình tôi ở đường Hòa Hưng- Lê Văn Duyệt, trong xóm, có mấy đứa nhỏ giống như tôi, cũng thích học ca, nên anh Ba Của gom chúng tôi lại và dạy ca. Ai cũng khen tôi có làn hơi duyên dáng, trong trẻo, dù khi ấy tôi chưa biết nhịp, chỉ ca đại thôi. Khi đó ba mẹ chỉ cho tôi học ca trong gia đình thôi, việc chính vẫn là học văn hóa, chưa muốn cho tôi theo nghề hát.”
Nhưng rồi niềm yêu thích với cải lương cứ mãi lớn dần theo năm tháng trong trái tim của Hồng Lê, năm 12 tuổi, Hồng Lê đã xin ba má cho học ca để theo nghề hát. Thấy con yêu nghề quá, ba má Hồng Lê đã bằng lòng tìm thầy cho Hồng Lê học hành theo bài bản. Nhờ nhiều người giới thiệu, Hồng Lê đã được ba má đưa đến học ca với thầy Quang Phục ở đường Đề Thám, Sàigòn, sau đó học thêm với thầy Út Trong, với thầy Năm Đồng, với soạn giả Nguyễn Phương... Bấy giờ, dù tuổi còn nhỏ, nhưng Hồng Lê đã được các thầy đánh giá cao khả năng, hứa hẹn nhiều triển vọng, bởi giọng ca rất trong, âm lượng lớn, ca đúng tiết điệu và nhịp điệu như con em của các nghệ sĩ nhà nghề.
Sau thời gian “tầm sư học đạo”, bài bản, nhịp nhàng đã vững vàng, lúc bấy giờ Hồng Lê bước vào tuổi 15 và chính thức đi theo đoàn hát của soạn giả Hoàng Ngọc Ẩn và Tấn An, khi đó chị được đặt nghệ danh đầu tiên là Thanh Lệ.
Nhớ lại chặng đường nghệ thuật đầu đời, Bình Trang bồi hồi kể lại: “Đoàn hát lúc đó, chỉ là đoàn nhỏ, đi hát ở những đình nhỏ, do anh Hoàng Ngọc Ẩn viết tuồng, còn anh Tấn An thì có dạy thêm cho tôi diễn xuất. Bấy giờ đoàn có diễn những vở như Hành Khất Song Hiệp, Quỷ Kiến Sầu, Hỏa Sơn Thần Nữ... tôi được đóng chánh trong 3 vở này, diễn chung với anh Dũng Thanh Hiền. Khi đó có soạn giả Thiên Lý, Mười Kiêu... về đoàn.
Một thời gian sau, Thanh Lệ được mời về đoàn Hương Mùa Thu, được ông bầu của đoàn là soạn giả Thu An đổi nghệ danh Thanh Lệ ra là Kiều Lệ Thanh. Dẫu có nhan sắc, ca hay, nhưng cô đào Kiều Lệ Thanh bấy giờ chỉ được đóng vai đào ba, đào ca để làm dàn bao tôn vinh đào chánh Ngọc Hương, vợ của soạn giả Thu An. Dàn nghệ sĩ của đoàn Hương Mùa Thu gồm có Ngọc Hương, Ngọc Lan, em ruột của Ngọc Hương, Kim Thủy, Ngọc Thủy, Kiều Lệ Thanh, Yến Nhung, Thu Nguyệt, Lệ Châu, Kiều Thanh, Thanh Hải, Út Hiền, Minh Chí, Hà Bửu Tân, Hà Bửu Bửu, Hiếu Liêm, Thanh Liêm, Giang Châu, Minh Dịch, Hữu Lợi, Bá Lộc, Hữu Lộc, Hề Minh, Bảy Xê, Cảnh Tượng...
Tất cả các tuồng hát trên sân khấu Hương Mùa Thu đều là của soạn giả Thu An sáng tác, có những vở như: Gánh Cỏ Sông Hàn, Đám Cưới Đầu Xuân, Chuyến Đò Thương, Kiếp Chồng Chung, Con Cò Trắng, Saigon Thác Bạc, Bà Chúa Ăn Mày, Kiếm Sĩ Điên...

Sau 1975, chị tiếp tục gắn bó với Hương Mùa Thu thêm một thời gian ngắn, bấy giờ các nghệ sĩ của đoàn có thay đổi, gồm nghệ sĩ Minh Phụng, Ngọc Hương, Hoài Thanh, Đỗ Quyên, Phương Thanh, Kiều Tiên, Bích Hạnh, Khánh Tuấn, Hữu Lộc, Hữu Lợi, Vương Tâm, Kiều Lệ Thanh...
Buồn vì thấy mình ca hoài cũng chỉ dừng lại đào ba, đào ca, nên khi nhà hát cải lương Trần Hữu Trang thành lập, mở lớp ca diễn, cô đào Kiều Lệ Thanh khi đó mới 19, 20 tuổi, quyết định ghi danh vào nhà hát để nâng cao thêm nghề nghiệp cho mình.
Bình Trang kể: “Khi đó trong nhà hát Trần Hữu Trang có má Bảy Phùng Há, có cô Kim Cúc và cô Bạch Tuyết, soạn giả Chi Lăng, cô Ngọc Giàu, cô Thanh Loan... dạy cho những nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ vào học nghề rất đông, tôi thích lắm và chịu khó học hỏi. Tôi học được khoảng 1 năm, thì cô Bạch Tuyết nhìn thấy tôi, cô hỏi tôi tên gì, tôi cho biết nghệ danh là Kiều Lệ Thanh, cô Bạch Tuyết bèn hỏi: “Cô ba đặt tên mới, con có chịu không?” Tôi đồng ý, cô ba Bạch Tuyết đã đặt cho tôi nghệ danh mới là Bình Trang, lấy 2 chữ B và T là chữ đầu của tên cô. Khi đó, ngoài tôi ra, cô ba còn đặt tên cho một nghệ sĩ trẻ khác, tên là Bảo Trang, cô này hiện sống ở Úc.
Từ đó, tôi trở thành đệ tử của cô ba Bạch Tuyết. Lần đầu tiên coi cải lương khi mới 7 tuổi, tôi đã yêu thích cô ba Bạch Tuyết rồi, không ngờ có ngày mình gặp được người nghệ sĩ thần tượng và được cô truyền dạy thêm cho nghề được vững vàng hơn, dạy về đạo đức của một nghệ sĩ chân chính theo nghiệp tổ.”
Sau thời gian gắn bó với đoàn Trần Hữu Trang khoảng 4 năm, bấy giờ, nghệ sĩ Bạch Tuyết đã giới thiệu cho Bình Trang về đoàn cải lương Sài Gòn 3, có trưởng đoàn Tư Hiếu, ông từng làm cho đoàn Dạ Lý Hương trước đây, quen với nghệ sĩ Bạch Tuyết, nên ông đã nhận Bình Trang về đoàn. Khi đó, nghệ sĩ Thanh Kim Huệ đóng chánh tại đoàn, ngoài ra còn có nghệ sĩ Văn Chung, Kim Hoa, Thanh Điền, Hồng Hạnh...
Về đoàn Sài Gòn 3, nghệ sĩ Bình Trang tiếp tục đóng đào nhì, đào ba trong những vở như “Nàng Xa Rết”, “Mái tóc người vợ trẻ“à Thời gian ở đoàn được hơn 1 năm, Bình Trang chịu ảnh hưởng lối ca của nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, Bình Trang ca khá giống nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, nhờ chất giọng kim, làn hơi thật dài, trong suốt và cao vút, khá bay bướm, nhưng rõ chữ tròn vành. Bình Trang đã học theo cách xử lý thanh điệu các dấu của nghệ sĩ Thanh Kim Huệ, đặc biệt nghệ sĩ Thanh Kim Huệ có sở trường với dấu sắc và dấu hỏi ở bài Vọng cổ thật tuyệt vời. Với dấu sắc, Bình Trang ị học nghệ sĩ Thanh Kim Huệ cách ém hơi bụng, nhấn âm tiết trong ca từ có dấu sắc rồi buông hơi sâu để ngân hoặc luyến lên; và trong lúc luyến chị buông hơi hai, ba lượt để ngân tưởng chừng như lạng qua, lách lại, vừa duyên dáng vừa mượt mà trữ tình... Còn dấu hỏi thì chị học cách nghệ sĩ Thanh Kim Huệ khép môi, ngân trong cổ khi nhấn âm tiết dấu hỏi, rồi thả âm lực sau từ từ, thấp đến cao, rồi lại ngậm miệng ngân hơi cổ nữa nên âm thanh cao vút lên, thánh thoát nghe như tiếng gió...
Và rồi một bước ngoặt đã đến trong cuộc đời nghệ thuật của nghệ sĩ Bình Trang. Bình Trang kể: “Khi ấy, chị Thanh Kim Huệ sắp hết hợp đồng và không tiếp tục ký nữa với đoàn, nên trưởng đoàn Tư Hiếu chọn tôi để thế vai của nghệ sĩ Thanh Kim Huệ. Hằng đêm chị Huệ hát, tôi đứng cánh gà xem và học. Sau khi tôi học hết những vai của chị Huệ, đoàn chuẩn bị đi miền Tây, vì bấy giờ Bình Trang là tên mới quá, nên đoàn đi lưu diễn ở tỉnh, để tập dợt thêm cho tôi được cứng nghề. Đi lưu diễn khắp các tỉnh miền Tây mấy tháng trời, sau đó đoàn về diễn ở Sài Gòn, ra mắt khán giả, tôi đã được khán giả ái mộ nồng nhiệt.”
Bình Trang gắn bó với đoàn Sài Gòn 3 một thời gian, rồi phải rời đoàn, vì khi đó chị lập gia đình, chị muốn toàn tâm toàn ý chăm sóc mái ấm nhỏ của mình. Rồi chị được hưởng niềm hạnh phúc làm mẹ, sanh cho chồng một đứa con trai. Đến thập niên 1990, Bình Trang theo chồng đến định cư tại Hoa Kỳ, với ước mong con mình có một tương lai tốt hơn.
Sau khi định cư ở Hoa Kỳ, nữ nghệ sĩ Bình Trang tham gia một số chương trình của Trung Tâm Băng Nhạc Vân Sơn. Bình Trang cũng là giọng ca cổ nhạc sáng giá ở các cuộc trình diễn trong các nhà hàng có ca nhạc Paracell, Seafood, quán Thành Được. Trong các lần nghệ sĩ Việt Nam xuất ngoại sang Nam Cali biểu diễn trọn tuồng, Bình Trang cũng được mời thủ diễn một vai. Tuy không đúng như ý của Bình Trang muốn có những vai hát để đời nhưng cô cũng vui vì có dịp hát, đở nhớ sân khấu. Bình Trang càng đẹp thêm ra, làn hơi dũng mãnh hơn, cuộc sống kinh tế ổn định, chỉ thiếu một nổi là không có những tuồng hát hay để cho Bình Trang thỏa chí tung hoành.



Hương Chung Thủy
Hương Chung Thủy - Quách Thanh Thủy (1958-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Hương Chung Thủy tên thật là Quách Thanh Thủy, sinh năm 1958, tại Sài Gòn, là con của danh hề Văn Chung tên thật là Quách Văn Chung và nữ nghệ sĩ Thanh Hương, con gái của Năm Châu và Tư Sạng. Thanh Hương là danh ca làn dĩa hát, từng nổi tiếng với bài ca “Cô Bán Ðèn Hoa Giấy”.
Hương Chung Thủy được cha mẹ nuôi dưỡng theo đoàn hát, và đến năm 3 tuổi thì nỗi bất hạnh đã đến với cô: Cha mẹ cô đã ly dị không còn chung sống với nhau nữa, và cô phải về sống với bà, chị của ông ngoại (bà Nguyễn Thị Giàu, chị thứ ba của nghệ sĩ Năm Châu) tại trại Phước Chung ở phía bên kia Cầu Bông.
Hương Chung Thủy được bà nuôi ăn học cho đến năm cô được 10 tuổi, thì năm đó lại xảy ra biến cố Mậu Thân, nữ nghệ sĩ Thanh Hương đột nhiên trở về thành phố mang con gái đi theo đoàn. Thanh Hương định bụng khi tình hình yên ổn, cô sẽ đem con về Sài Gòn cho tiếp tục học chớ không cho đi theo con đường nghệ sĩ cải lương. Tuy nhiên, Hương Chung Thủy lại thích hát quá, cứ xin mẹ cho theo nghề này, và rồi Thanh Hương vẫn cương quyết không cho. Thế nhưng, khi đoàn thiếu vai đào con, Thanh Hương cũng phải tập cho con gái ra sân khấu hát.
Thế rồi đến năm 1973, khi nữ nghệ sĩ Thanh Hương lâm bịnh, Hùng Minh đã dạy nghề cho Hương Chung Thủy để ra sân khấu hát. Cô đã thay thế vai của Thanh Hương qua hai vở Long Nữ Thần Ðao, trong vai Long Nữ và Ðộc Nhãn Hiệp Hành, trong vai nữ hiệp. Thấy khán giả chịu, Hùng Minh lại dạy nghề thêm cho cô và từ ngày ấy cô mang nghệ danh là Hương Dạ Thủy.
Năm 1974, nữ nghệ sĩ Thanh Hương qua đời, nghệ sĩ Hùng Minh mấy tháng sau đó đoàn hát giải tán. Cuộc đời đi hát của Hương Dạ Thủy phải một thân một mình phấn đấu kể từ ngày ấy.
Năm 1982, Hương Dạ Thủy về cộng tác với đoàn Tiếng Hát Long Xuyên do nữ nghệ sĩ Kim Chưởng làm trưởng đoàn, cô Kim Chưởng từng hát chung sân khấu với Thanh Hương trước đây.
Ngày nọ, cô Kim Chưởng gọi Hương Dạ Thủy lại nói: -Bên nội, bên ngoại cháu hiện thời chỉ có một mình cháu là đi theo nghề cải lương. Vậy cháu nên cố gắng để xứng đáng là cháu ngoại của nghệ sĩ Năm Châu, Tư Sạng, và con của Văn Chung, Thanh Hương. Từ nay cháu mang nghệ danh có tên cha mẹ là: Hương Chung Thủy. Cháu phải cố gắng học nghề, vì Kim Chưởng này không còn ở sân khấu bao lâu nữa.
Thế là từ ngày ấy Hương Dạ Thủy mang nghệ danh mới là Hương Chung Thủy, cô Kim Chưởng đã tận tình truyền nghề cho Hương Chung Thủy, nâng đỡ cô tối đa ở sân khấu Tiếng Hát Long Xuyên. Hai tháng sau đó, nhân dịp Kiều Minh Trang nghỉ đoàn, Hương Chung Thủy được giao cho hát chánh luôn. Và một năm sau đoàn đổi lại bảng hiệu là đoàn cải lương Châu Long, diễn viên và những vở hát của đoàn vẫn giữ y nguyên như cũ. Tuy vắng mặt thầy là Kim Chưởng, nhưng Hương Chung Thủy vẫn là diễn viên trụ cột của đoàn Châu Long từ ngày ấy cho đến năm 1987.
Hương Chung Thủy có một ước vọng duy nhất với sự phấn đấu duy nhứt là xứng đáng con cháu nối nghề của cha mẹ, và ông bà theo lời khuyên của nữ nghệ sĩ tiền phong Kim Chưởng, nhưng chẳng biết rồi đây niềm mơ ước của cô có trở thành hiện thực hay không? Côi cút từ nhỏ, khi lớn lên đơn thân đi vào nghề, sau hơn hai 20 năm ca hát ở sân khấu trải qua rất nhiều đoàn hát. Ðến năm ấy (1993) Hương Chung Thủy cũng chỉ một mình với hai bàn tay trắng, không nhà cửa, không danh vọng, kém bạc tiền, chỉ còn có niềm say mê nghề nghiệp, niềm vui duy nhất với ánh đèn sân khấu hàng đêm.
Cái ngày mà Hương Chung Thủy vào nghề là lúc cải lương đã suy thoái nặng nề, cho đến sau này cũng chẳng hơn gì, thật là đáng buồn. Tuy vậy, Hương Chung Thủy vẫn cố gắng bước đi trên con đường nghệ thuật của ông bà cha mẹ, dù cho có gặp chông gai trắc trở, cô chỉ mong mình xứng đáng đi trên con đường nghệ thuật đó dù cho có thiếu thốn, bơ vơ, đau khổ trong cuộc đời…

Vũ Linh
Vũ Linh – Võ Văn Ngoan (1958-20 .. )

Nghệ sĩ Vũ Linh tên thật là Võ Văn Ngoan, sinh ngày 10 tháng 12 năm 1958 tại Chợ Lớn, Thủ đô Sàigòn, Vũ Linh sinh ra trong gia đình có sáu anh chị em. Anh là người con thứ tư nên những người thân thuộc, anh em trong nhà gọi anh là Anh Năm. Hai người em của anh cũng trong giới nghệ sĩ, đó là Hồng Nhung và Tiểu Linh.
Xuất thân trong gia đình nghèo nên việc học hành dang dở, năm 13 tuổi, gia đình cho anh học hát ở trường Văn Phát, sau chuyển qua học ca cổ với Văn Vĩ.
Năm 1972, anh theo đoàn hát Đồng Ấu Hoa Thế Hệ đi lưu diễn ở các tỉnh, một thời gian sau anh về hát cho gánh Hoa Anh Đào Kim Chưởng và gặp được nghệ sĩ ưu tú Diệu Hiền và nghệ sĩ Trương Ánh Loan, hai người này được cho là đã thương mến anh như con em trong nhà và tận tình chỉ dẫn anh trong nghề nghiệp.
Anh đã từng cộng tác với những đoàn hát khác như: Khánh Hồng An Giang, Thiên Nga, Sơn Minh...
Năm 1981, anh trở về thành phố lần đầu tiên và hát cho gánh Minh Tơ và Huỳnh Long. Năm 1983, anh theo hợp tác với gánh Lâm Đồng đi lưu diễn các tỉnh. Đến năm 1988, anh cộng tác với Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang 2 và chính năm này Vũ Linh thực sự bước lên đài vinh quang sau hơn 15 năm trong nghề, cũng chính nơi đây anh đã đưa nghệ thuật sân khấu cải lương tuồng cổ trở lại với quần chúng, bắt đầu bằng vở Xa phu đi sứ. Không lâu sau đó là một loạt những tuồng cải lương Hồ quảng nổi tiếng khác như Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, Bàng Quý Phi, Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ, Chiêu Quân cống Hồ..... Vài năm sau anh cũng có về cộng tác với các gánh Sông Bé 2, Sông Bé 3.
Năm 1989, đạt hạng nhì trong 10 diễn viên được ưa thích nhất trong năm. Năm 1990, đạt hạng nhất trong 10 diễn viên được ưa thích nhất trong năm. Năm 1991, đoạt Huy Chương Vàng giải Triển Vọng Trần Hữu Trang. Anh là nam nghệ sĩ duy nhất trong số 6 diễn viên đoạt giải năm đó là Vũ Linh, Thanh Thanh Tâm, Ngọc Huyền, Tài Linh, Phương Hồng Thủy, và Thanh Hằng. Năm 1995, đoạt Huy chương Vàng giải xuất sắc Trần Hữu Trang. Đây là năm đầu tiên giải Trần Hữu Trang có phát thêm giải Diễn viên xuất sắc. Trích đoạn anh diễn khi đi dự thi là nhân vật Nguyễn Địa Lô trong tuồng Bức Ngôn Đồ Đại Việt.
Đến năm 1997, anh được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
Vũ Linh đã quay trên 400 video cải lương hồ quảng và xã hội. Ngoài ra anh cũng tham gia rất nhiều trong những video ca nhạc như Duyên tình, Tình đời. Anh cũng tham gia diễn xuất trong 2 cuốn phim truyện Cô Bé Mộng MơBúp Bê Kỳ Quái. Vũ Linh đã diễn chung với nhiều nữ nghệ sĩ trên sân khấu cũng như trong video như: Phương Hồng Thủy, Tài Linh, Thanh thanh Tâm, Ngọc Huyền, Thoại Mỹ, Thanh Hằng, Thanh Ngân, Hương Lan, Phượng Mai...
Người nghệ sĩ nào cũng có cái chất đa tình, sự đa sầu đa cảm chảy trong huyết quản. Vũ Linh cũng không ngoại lệ. Với một nghệ sĩ điển trai, tài hoa như anh thì không có gì khó hiểu khi có nhiều cô gái vây quanh. Họ thần tượng anh, cảm mến anh và yêu anh. Thế nhưng, người nghệ sĩ càng đa tình bao nhiêu lại mang đến sầu khổ cho người và cho mình bấy nhiêu. Từ đó có thể sinh ra cờ bạc, rượu chè, hút sách sẽ đưa vào hẽm cụt của cuộc đời, nếu không có người tốt giúp đỡ, cộng thêm sự thức tĩnh kịp thời. Vũ Linh đã từng ở trong trường hợp nầy.


Thanh Hằng
Thanh Hằng (1959-20 .. )

Nghệ sĩ Thanh Hằng sanh năm 1959, tại Sàigòn. Là con gái của nghệ sĩ Hương Huyền và Kim Hoa, đôi nghệ sĩ nầy còn có thêm 1 trai rồi sau đó họ chia tay nhau. Hương Huyền bước thêm bước nữa với nữ ca sĩ Phương Hồng Chi và có được một người con gái là Cẩm Loan. Nữ nghệ sĩ Kim Hoa đi thêm bước nữa với nghệ sĩ cải lương Hoài Châu và có được ba con gái: Thanh Ngân, Ngân Quỳnh và Thanh Ngọc.
Thanh Hằng sinh ra trong một gia đình 4 đời là nghệ sĩ. Ông ccủa nữ nghệ sĩ Thanh Hằng, là ông Hai Núi, một nghệ sĩ tiền phong trong ngành hát bội pha cải lương. Năm 1934, ông Hai Núi thành lập gánh hát Tân Hí Ban với lực lượng đào kép gồm đa phần là con cháu của ông:
Trong gánh hát có con trai lớn là Hai Tỵ, chuyên đóng vai hề, nên được gọi là Hề Tỵ, kế đó Ba Tẹt, tức kép độc Thiện Tâm và cô Tư Hélène là đào lẵng mùi. Nữ nghệ sĩ Tư Hélène sáng sân khấu, khi cô hóa trang vào thì cô có một sắc đẹp lộng lẫy, qúy phái nên cô đóng các vai đào lẵng, mùi thì nhan sắc của cô và lối diễn duyên dáng, đôi mắt đa tình quyến rũ của cô tư Hélène đã làm cho nhiều nam khán giả phải mê mẩn đảo điên.
Tư Hélène kết duyên với nghệ sĩ Văn Long, họ chung sống với nhau có hai con : con gái là nữ nghệ sĩ Kim Hoa , nổi danh trên sân khấu Thanh Minh Thanh Nga, và một người con trai tên Vân, không theo nghề hát của cha mẹ.
Nghệ sĩ Kim Hoa có các con gái Thanh Hằng, Ngân Quỳnh, Thanh Ngọc và Thanh Ngân đều là những gương mặt được yêu mến trong lĩnh vực cải lương. Từ năm 6 tuổi, Thanh Hằng đã phải chịu cảnh rày đây mai đó do cha mẹ chia tay.
Năm 9 tuổi, Thanh Hằng trốn nhà lần đầu vì sợ bị đưa đi học nội trú. Sống với bà ngoại, cô và người em cùng mẹ khác cha Ngân Quỳnh thường hay ôm màn để ca diễn. Nhiều lúc, họ đánh nhau đến bể mũi vì giành vai với nhau. Cùng một dạ mẹ nhưng mang khác dòng máu, vậy mà Thanh Hằng và Ngân Quỳnh thương yêu nhau hết mực.
Ở tuổi thiếu niên, Thanh Hằng chia xa người em thân thiết Ngân Quỳnh để gia nhập đoàn Thanh Nga với vai trò là một vũ công. Đợi mãi chẳng được hát, Thanh Hằng đã trốn đoàn “cô Ba Thanh Nga” để tìm cơ hội khác cho chính mình.
Tại đoàn mới, Thanh Hằng sống tập thể cùng rất nhiều anh chị em khác trong đoàn. “Sợ người ta dụ dỗ khiến mình chửa hoang”, Thanh Hằng chấp nhận lấy người đàn ông làm nghề sắp ghế khán giả khi mới 16 tuổi. Cô nói: “Lúc đó thấy người ta thương mình thì lấy đại”. Năm 17 tuổi, Thanh Hằng mang thai đứa con đầu lòng.
Tuy nhiên cuộc hôn nhân đầu tiên đã hằn lên đời cô những vết bầm đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. "Khi ấy, tôi và Ngân Quỳnh theo 2 đoàn hát khác nhau. Một lần gặp lại, Ngân Quỳnh tá hỏa khi tận mắt chứng kiến tôi bị chồng đánh mắt bầm tím, sưng to bằng cái chén", Thanh Hằng nghẹn ngào kể.
Thanh Hằng thừa nhận luôn bị ám ảnh bởi sự chia tay của cha mẹ mình. Chị sợ nếu mình dứt áo ra đi thì con mình sẽ chẳng còn nơi nương tựa, rày đây mai đó. Không những thế, Thanh Hằng chỉ ước được sống “một vợ một chồng” để xã hội không dị nghị mình là “thứ nghệ sĩ lắm chồng”. Cứ thế, chị nuốt mọi tủi nhục và đòn roi. Có lần Thanh Hằng tự tử bằng 6 viên thuốc trị sốt rét Ký Ninh.
Nữ nghệ sĩ thú nhận: “Sân khấu là nơi an toàn nhất đối với tôi. Nhiều lần hát xong, tôi chỉ muốn đứng mãi trên đó vì vào cánh gà là thể nào cũng bị đánh”. Chồng cũ thường xuyên dùng con để gây áp lực và hăm dọa: “Mày không còn gì hết tao mới bỏ mày?”.
Bị đày đọa, Thanh Hằng vẫn âm thầm chịu đựng suốt 5 năm trời trước khi quyết định một cuộc trốn chạy.
Nữ nghệ sĩ Thanh Hằng đoạt huy chương vàng giải diễn viên xuất sắc Trần Hữu Trang năm 1991. Năm 1997, Thanh Hằng đoạt thêm giải Mai Vàng, diễn viên hay nhất trong năm do tuần báo Tuổi trẻ tổ chức.
Khi sự nghiệp đang thăng hoa thì cũng là lúc nghệ sĩ Thanh Hằng âm thầm rời xa sân khấu,  khiến người hâm mộ bị bất ngờ. Thanh Hằng chọn cho mình cuộc sống riêng khá bình lặng. Sau 15 năm sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Canberra, nước Úc, không có quá nhiều các hoạt động nghệ thuật và gần như lùi về phía sau ánh đèn sân khấu.
Đầu năm 2016, có thông tin cho biết nghệ sĩ Hoài Linh đã thuyết phục nghệ sĩ Thanh Hằng về nước làm giám khảo cho chương trình Thử tài siêu nhí. Từ đó Thanh Hằng trở lại góp mặt trên sân khấu Việt Nam.

Linh Huệ
Linh Huệ - Trương Thị Thu Trinh (1959-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Linh Huệ tên thật là Trương Thị Thu Trinh, sinh năm 1959 tại quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, con của ông Trương Văn Sở và bà Trịnh Thị Hai. Song thân của cô là giáo chức dạy học ở trường Trảng Bàng, đã nghĩ hưu và sống ở Saigon. Nữ nghệ sĩ Linh Huệ có 7 người em, 3 trai, 4 gái đều trưởng thành và sinh sống ngoài ngành nghệ thuật sân khấu.
Từ thuở nhỏ Linh Huệ rất thích ca hát nên những khi bải trường, cô được cha mẹ cho về Saigon ở nhà một người bà con để học ca tân nhạc với nhạc sĩ Bảo Thu.
Năm 1973. Thu Trinh đã trình diễn trên các show đại nhạc hội và Đài truyền hình trong Ban nhạc của nhạc sĩ Bảo Thu tổ chức, cô biểu diễn thành công các bài như Làng Tôi, Em Bé Quê, Ly Rượu Mừng, Nếu một ngày…
Năm 1976, cô tiếp tục học văn hóa ở Trảng Bàng, đến lớp 12. Dượng rể của Thu Trinh là ông Ba Đa, trưởng đoàn cải lương Tây Ninh xin cha mẹ của Thu Trinh cho cô theo đoàn cải lương Tây Ninh để học hát cải lương. Vì có giọng ca dài hơi và kỹ thuật ca luyến láy giống như nữ nghệ sĩ Thanh Kim Huệ nên ông Ba Đa đặt cho Thu Trinh nghệ danh là nữ nghệ sĩ Linh Huệ.
Trưởng ban cổ nhạc đoàn hát Tây Ninh, nhạc sĩ Tám Khích dạy cho Linh Huệ ca rành ba Nam, sáu Bắc, vọng cổ và hàng trăm bài bản cổ nhạc thường dùng trên sân khấu cải lương. Cô cũng được cho học diễn xuất và đóng thế các vai tuồng của các nghệ sĩ đàn chị trong đoàn trong thời gian học hát.
Đến năm 1978, chỉ hai năm sau từ khi mới theo học hát học ca, nữ nghệ sĩ Linh Huệ sáng dạ, học mau thuộc tuồng, tiến bộ về diễn xuất và nhờ có giọng ca dài hơi và kỹ thuật luyến láy độc đáo nên được đưa lên làm diễn viên chánh của đoàn hát cải lương Tây Ninh.
Cô đã diễn vai chánh qua các tuồng Đời Cô Lựu, Chim Việt Cành Nam, Đêm Lạnh Chùa Hoang cùng với các diễn viên Phượng Nhung, Ánh Hồng, Lê Phát, Kim Ấn, Quốc Ngữ, hề Lê Xệ…
Năm 1979, nữ nghệ sĩ Linh Huệ được đoàn cải lương Sông Bé 1 mời về cộng tác, hát chung với các nghệ sĩ nỗi danh trước năm 1975 như Bảo Vương, Phước Trọng, Thúy Nga, Bé Hoàng Vân, hề Lý Lắc. Linh Huệ hát xuất sắc các vai Thúy Kiều vở Thúy Kiều, vai Kiều Nguyệt Nga vở Lục Vân Tiên, vai Bùi Thị Xuân tuồng Bảy Mùa Mai Nở.
Với hơi ca khoẻ khoắn, giọng kim cao vút, nghệ thuật luyến láy trữ tình, Nữ nghệ sĩ Linh Huệ lại có nhan sắc dịu dàng, nước da trắng mịn, cô ca diễn các vai chánh đều thành công xuất sắc nên khán giả bốn phương rất ái mộ. Các ông trưởng đoàn hát nghe danh biết tiếng nên liên hệ để mời Linh Huệ về cộng tác với đoàn hát của mình với những điều kiện tài chánh hậu hỉ nhưng nữ nghệ sĩ Linh Huệ chọn đoàn hát Trúc Giang là một đoàn hát trung ban của thành phố để về cộng tác chỉ vì cô muốn theo học hỏi kỹ năng ca diễn của nữ nghệ sĩ Mỹ Châu,thần tượng của cô.
Năm 1980, Đoàn hát Trúc Giang lúc đó có các nghệ sĩ Mỹ Châu, Tuấn Thanh, Minh Minh Vương, Minh Thuận, Đổ Quyên, Phương Loan, hề Bé. Khi nũ nghệ sĩ Linh Huệ về cộng tác với đoàn Trúc Giang thì chỉ một thời gian ngắn sau đó, nữ nghệ sĩ Mỹ Châu được một đoàn hát đại ban của thành phố mời cộng tác, nữ nghệ sĩ Linh Hu thế vai của Mỹ Châu, đảm nhiệm vai đào hát chánh, hát qua vai Giao, tuồng Vòng Cưới Anh Trao, vai Thoại Khanh tuồng Thoại Khanh Châu Tuấn, vai Nguyệt Nga tuồng Lục Vân Tiên.
Năm 1981, Đoàn cải lương Saigon 3 mời nữ nghệ sĩ Linh Hu cộng tác. Đoàn cải lương Saigon 3 lúc ấy là một đại ban chuyên hát những vở tuồng xã hội nên Linh Huệ được dịp hát qua những tuồng xã hội, một phong cách hát khác với những tuồng dã sử và màu sắc mà Linh Huệ được đào luyện từ các đoàn hát Tây Ninh, Sông Bé 1 và đoàn hát Trúc Giang. Linh Huệ đã hát vai Hoàng trong tuồng Phụng và Hoàng, vai Trà Mi tuồng Hương Sắc Trà My, vai Lan, tuồng Hoa Phong Lan.
Ngoài ra Linh Huệ còn diễn rất thành công các vai khác như Sarết tuồng Nàng Sarết, vai Sao Ly tuồng Tình Ca Biên Giới, vai Tuyết tuồng Ngày Bước Vào Đời, vai Thiếu Dương tuồng Nữa Vầng Trăng Kỳ Lạ, vai Thị Lộ tuồng Hạt Bụi và Non Cao. Khán giả rất tán thưởng giọng ca dài hơi và ngọt ngào của Linh Huệ và lối diễn xuất tinh tế, tươi mát của một cô đào trẻ rất là xinh đẹp.
Nữ nghệ sĩ Linh Huệ càng thêm ni bật sáng chói nhờ cùng đóng tuồng với các diễn viên tài danh của đoàn cải lương Saigon 3 như các nghệ sĩ Tuấn Thanh, Bảo Linh, Chí Hải, Vương Ngọc, Minh Phương, Dương Thanh, Mỹ Hiền, Bội Ngọc, Đăng Quang, Lan Chi, Thúy Lan, Hoàng Dũng, và ba danh hề Văn Chung, Kim Quang, Bảo Chung.
Kể từ ngày mới bắt đầu học ca cổ nhạc nơi đoàn hát Tây Ninh của ông Bầu Ba Đa cuối năm 1976 đến năm 1981, chỉ mới 5 năm năm mà nữ nghệ sĩ Linh Huệ, một cô gái mới học cổ nhạc đã đạt được vị trí diễn viên đào chánh của một đại ban cải lương trong thành phố, điều đó chứng tỏ Linh Huệ có một sự cố gắng phi thường và có một giọng ca trong trẻo, một lối ca điêu luyện hiếm có.
Đây cũng là nhờ ở một sự may mắn, vì nhu cầu của đoàn hát, vì cần thay thế một diễn viên chánh, một giọng hát ăn khách vừa rời đoàn hát mà Linh Huệ được mời về để thế vai. Lối diễn, giọng ca và nhan sắc của Linh Huệ giúp cho cô đóng thế vai các diễn viên thượng thặng một cách dễ dàng và thành công trọn vẹn.
Năm 1987, nữ nghệ sĩ Linh Huệ được đoàn cải lương Saigon 1 mời về hát thế vai cho nữ nghệ sĩ tài danh Thanh Kim Huệ, Linh Huệ hát các vai như Thị Hến trong tuồng Ngao, Sò, Ốc, Hến, Chị Ba trong tuồng Lọ Nước Thần, vai An Tư trong tuồng An Tư Công Chúa, vai Cô Gái trong tuồng Cô Gái Hát Rong, vai Cô Gái quê trong tuồng Tình Nào Cho Nhau, vai cô gái dệt lụa tuồng Đôi Tay Vàng, vai Hoàng Hậu trong tuồng Vua Hoá Hổ.
Năm 1989 đến năm 1992, nữ nghệ sĩ Linh Huệ được mời về hát cho bốn đoàn hát cải lương lớn nhứt ở thành phố Sàigòn và Cần Thơ, cô đã để những dấu ấn sâu sắc trong lòng khán giả ái mộ cải lương từ Nam ra Bắc, đặc biệt nhất là khán giả Sàigòn và Cần Thơ qua các tuồng hát như : Tiếng Sáo Đêm Trăng, Khúc Hát Đoạn Tình, Tình Hận Vạn Niên Cơ, Lâu Đài Trên Cát, Tiếng Chuông Thiên Mụ, Chuyện Tình Hai Thế Hệ, Lan Huệ Sầu Ai, Bóng Hồng Sa Mạc, Võ Tòng Sát Tẩu…
Các ký giả phỏng vấn : Trong 12 năm theo nghề hát, Linh Huệ đã thay đổi qua 9 đoàn hát : Tây Ninh, Sông Bé 1, Trúc Giang, Saigon 3, Saigon 1, Văn Công, 2/84, Trần Hữu Trang 1, Tây Đô, đã hát qua hơn 40 vai trò khác nhau của đủ các loại tuồng, thay đổi quá nhiều đoàn hát, Cô thấy thuận lợi hay bất lợi cho nghề hát của cô?
Theo Linh Huệ thì thay đổi sân khấu là tìm con đường đi lên để phát triển nghề nghiệp, vì đến một đoàn mới mình phải cố gắng nhiều hơn, đồng thời được học hỏi thêm nhờ diễn chung với những bạn diễn mới. Khi đoàn mới cần mình thế vai chánh đã ra đi, mình hát thành công, giữ được khán giả cho đoàn, điều đó chứng tỏ mình có tiến bộ về nghệ thuật.
Năm 1990, nữ nghệ sĩ Linh Huệ được bình chọn là danh ca vọng cổ được ưa thích nhất trong năm.
Năm 1993, cô được tặng thưởng huy chương vàng giải Trần Hữu Trang. Cũng trong năm nầy cô Linh Huệ kết hôn với anh Võ Viết Triều, kỷ sư cơ khí ô tô.
Sau một thời gian dài, cô Linh Huệ đã tạo dựng sự nghiệp sân khấu của mình bằng mồ hôi và nước mắt, với một sự phấn đấu kiên cường không biết mệt mõi để đạt được những vinh quang nghề nghiệp. Nhưng rồi tình hình sân khấu cải lương xuống dốc, mất dần khán giả đến độ quá nhiều đoàn hát phải tan rã, không còn rạp hát để hát.
Nghệ sĩ cải lương phải chuyển qua tấu hài và hát trích đoạn cải lương, nữ nghệ sĩ Linh Huệ đã đi định cư tại Toronto Canada. Một điều thật tế cho thấy giọng ca vọng cổ tuyệt vời của nữ nghệ sĩ Linh Huệ bị mai một, bị lảng quên dần vì ở Canada không có môi trường thuận tiện cho nghệ thuật hát cải lương.


Phương Hồng Thủy
Phương Hồng Thủy – Đinh Hồng Đào (1960-20 .. )

Nữ nghệ sĩ Phương Hồng Thủy tên thật là Đinh Hồng Đào, sinh ngày 30 tháng 10 năm 1960, tại xã Bình Phước, tỉnh Biên Hòa, Đồng Nai, là chị lớn trong gia đình có 6 chị em.
Cha của của Phương Hồng Thủy là người quê ở xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; Mẹ quê ở tỉnh Cần Thơ. Trong gia đình không có người theo nghề ca hát nhưng khi ở Biên Hòa, cha mẹ của cô thích xem hát, thích nghe cổ nhạc nên thường mời các ca sĩ, nhạc sĩ đến nhà đờn ca tài tử chơi. Lúc Phương Hồng Thủy còn rất trẻ, cô đã ái mộ và thích giọng ca của ca sĩ Bạch Huệ, con của danh cầm cổ nhạc Sáu Tửng.
Năm 1972, Đinh Hồng Đào học trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn, khóa cải lương, cô được thầy Phùng Há đặt cho nghệ danh là Phương Hồng Thủy.
Đến tháng 4 năm 1975, trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon đóng cửa, các học sinh tạm ngưng học, Phương Hồng Thủy trở về quê ở Biên Hòa, đi hát cho đoàn hát cải lương của tỉnh. Sau đó cô được trở lại học khóa 1 của Trường Nghệ Thuật Sân Khấu 2.
Năm 1978, Phương Hồng Thủy thi tốt nghiệp, cô đậu thủ khoa với vai Bùi Thị Xuân trong vở Thanh Gươm và Nữ Tướng.
Sau khi ra trường, nữ nghệ sĩ Phương Hồng Thủy được đoàn cải lương Đồng Nai của tỉnh Biên Hòa mời về thủ các vai đào chánh của đoàn. Phương Hồng Thủy có một giọng ca rất là truyền cảm, diễn xuất sống thực nên Phương Hồng Thủy sớm được sự ái mộ nồng nhiệt của khán giả và của các bạn nghệ sĩ đồng diễn.
Lúc đó Phương Hồng Thủy mới được 18 tuổi, là một cô gái hồn nhiên, yêu đời, sớm thành đạt trong nghề nghiệp nên cô nhìn cuộc sống và nghệ thuật toàn màu hồng rực rỡ. Tình yêu đến với cô ngay trong đoàn hát, cô thành hôn với một nghệ sĩ đồng trang lứa. Khi biết cô đã mang thai, chồng cô ra đi một cách âm thầm với lý do là tìm việc làm và không trở về.
Phương Hồng Thủy lên thành phố tìm kiếm, hoang mang và đau khổ. Quẩn trí, cô quyên sinh, được cứu kịp thời. Tỉnh ra trong bệnh viện Chợ Rẩy, mấy tháng sau mới phục hồi trí nhớ, cô nhớ còn có mẹ già, em dại, còn có sân khấu và con thơ nên Phương Hồng Thủy hàn gắn vết thương lòng bằng cách để hết tâm tư vào sự nghiệp sân khấu và chăm sóc đứa con thơ.
Phương Hồng Thủy trở về đoàn hát Đồng Nai, tiếp tục khẳng định tài nghệ ca diễn qua các vai chánh trong các tuồng của đoàn hát. Khán giả ở các địa phương mà đoàn Đồng Nai đến diễn đều tán thưởng tài nghệ và yêu mến Phương Hồng Thủy, một cô diễn viên trẻ đẹp, dịu hiền và luôn luôn có một nụ cười khả ái trên môi.
Phương Hồng Thủy đã cộng tác với nhiều đoàn hát. Năm 1982 Phương Hồng Thủy được đoàn cải lương Tây Ninh 3 mời cộng tác. Năm 1984, Phương Hồng Thủy hát cho đoàn cải lương Hương Biển, Vũng Tàu. Nam 1985, Phương Hồng Thủy đi hát cho đoàn Tiếng Ca Sông Cữu Cà Mau. Năm 1986, Phương Hồng Thủy đi đoàn Võ Thị Sáu Đồng Nai. Năm 1988, đi đoàn Kiên Giang. Năm 1989, Phương Hồng Thủy được mời về cộng tác với Câu Lạc Bộ Cải lương Năm Châu ở Sàigòn và năm 1990, cô về hát cho đoàn cải lương 2-84.
Năm 1990, Phương Hồng Thủy đoạt huy chương vàng giải diễn viên xuất sắc trong hội diễn cải lương toàn quốc.
Năm 1991, cô đoạt huy chương vàng giải Trần Hữu Trang.
Phương Hồng Thủy đã nổi bậc qua các vai diễn như Thúy Kiều trong tuồng Ai Giết Nàng Kiều, vai Diệu trong tuồng Lá Sầu Riêng, vai Ái Nhân tuồng Lời Ru Của Biển, vai Mộng Cầm tuồng Hàn Mạc Tử, vai Hoàng hậu Thượng Dương tuồng Nguyên Phi Ỷ Lan, vai Lan tuồng Lan và Điệp, vai Hồng tuồng Thảm Kịch Tuổi Xanh, …
Đứa con gái đầu lòng sanh năm 1981 mang tên Nguyễn Thanh Hồng Vân được Phương Hồng Thủy dành cho tất cả tình thương và một sự chăm nom dạy dỗ chu đáo, cô bé Hồng Vân học giòi, có hiếu với mẹ, đã du học Úc Châu năm 1999 và hiện nay đã tốt nghiệp ngành kinh tế học và vi tính. Cô Hồng Vân yêu nghể hát của mẹ nhưng Hồng Vân sống theo nghề đã được đào luyện ở trường Đại học bên Úc, sống và làm việc tại đây.
Phương Hồng Thủy mua được một ngôi nhà xinh xắn, cô rước mẹ và các em về sống chung. Khi làm ở trung tâm băng nhạc Long An, Phương Hồng Thủy và đạo diễn Hoa Hạ là hai người bạn tâm đắc. Phương Hồng Thủy cũng ghi ơn nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan đã nâng đỡ tinh thần cho Phương Hồng Thủy và sống trong tình cảm mẹ con, đã yêu thương và giúp cho Phương Hồng Thủy đứng lên khi cô vấp ngã trên đường đời.
Do tình yêu thương của người mẹ nuôi Út Bạch Lan và các bạn diễn khác nên khi Phương Hồng Thủy có cuộc sống ổn định, phát đạt, cô dành nhiều thì giờ và tiền bạc để biểu diễn, gây qủy giúp đở những nghệ sĩ và đồng bào nghèo yếu, neo đơn hoặc bị thiên tai, hỏa hoạn.
Phương Hồng Thủy có chồng Việt Kiều nên năm 2005, cô theo chồng định cư bên nước Hoa Kỳ. Phương Hồng Thủy cho biết là ông xã của cô rất ủng hộ vợ đi hát. Bên Hoa Kỳ, khi có show diễn phục vụ cộng đồng người Việt định cư tại Hoa Kỳ thì Phương Hồng Thủy tích cực tham gia và ông xã của cô làm tài xế đưa cô đến các điểm diễn.
Năm 2007, Phương Hồng Thủy về thăm quê hương, cô tham gia chương trình “Sắc màu thời gian”, gây qũy giúp các nghệ sĩ nghèo, bịnh hoạn và kém may mắn hơn mình.
Năm 2016, khi Út Bạch Lan mất, Phương Hồng Thủy từ Mỹ về Việt Nam thọ tang cho người mẹ nuôi.
Ngoại trừ vai Thượng Dương Hoàng Hậu, một vai đào độc mùi trong tuồng Nguyên Phi Ỷ Lan, tất cả các vai hát để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả của Phương Hồng Thủy là những vai đào thương, nhân vật có số phận bi thương, có nhiều uẩn khuất nội tâm giống như hoàn cảnh và tâm sự của chính Phương Hồng Thủy nên khi diễn thì tâm hồn và tình cảm của Phương Hồng Thủy trộn lẫn vào nhân vật, cô có một giọng ca thương cảm, nét diễn sâu lắng niềm đau nên nước mắt của nhân vật bi thương trong tuồng cũng chính là nước mắt thật của Phương Hồng Thủy.
Cô khóc bằng những dòng nước mắt thoát ra từ nội tâm sâu kín của mình, vết thương lòng khi mới bước vào đời tưởng đã được hàn gắn, tưởng đã chìm trong quên lãng với thời gian nhưng mỗi đêm khi sân khấu sáng đèn, cô sống lại với nhân vật có số phận bi thương thì dường như vết thương lòng lại vỡ oà ra.
Khi xem Phương Hồng Thủy đóng vai cô Diệu trong tuồng Lá Sầu Riêng, mô cô gái ngây thơ sớm lỡ làng duyên phận, dồn hết tình cảm cho đứa con thơ của mình, khán giả thấy rõ là Phương Hồng Thủy đang sống lại với câu chuyện bi thương của chính cô.

Cẩm Thu
Cẩm Thu – Võ Thị Cẩm Thu (1960-20 .. )

Nghệ sĩ Cẩm Thu tên thật là Võ Thị Cẩm Thu, sinh năm 1960 tại Kiên Giang. Cẩm Thu là con gái của soạn giả Trương Vũ và bà Trương Cẩm Vân - trưởng đoàn Mây Tần. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, chính vì vậy mà Cẩm Thu đã nhanh chóng thành danh.

Năm 1980, C
ẩm Thu là diễn viên của đoàn cải lương Sông Hàn, đoàn hát của gia đình. Tại sân khấu Sông Hàn Cẩm Thu đã tham gia các vở diễn như: Thoại Khanh Châu Tuấn, Nhụy Kiều Tướng Quân, Âm mưu tình yêu,Trần Bình Trọng...

Năm 1981, nghệ sĩ Linh Tâm đầu quân cho đoàn hát Sông Hàn, Linh Tâm và Cẩm Thu trở thành một cặp diễn trên sân khấu này.

Năm 1982, nghệ sĩ Cẩm Thu đoạt huy chương vàng giải thưởng Trần Hữu Trang, khi đó chị đang làm diễn viên chính của đoàn tuồng cổ Minh Tơ.

Sau đó, Cẩm Thu và Linh Tâm tham gia nhiều đoàn khác như đoàn Tiếng ca Sông Cửu từ năm 1982-1984, đoàn cải lương Lâm Đồng từ năm 1984-1986. Năm 1986, Cẩm Thu về diễn cho đoàn Sông Bé 2 của bầu Quới. Thời gian này, Cẩm Thu diễn các vở như: Ta là vua, Công chúa tóc thơm, Cây gậy thần, Bức ngôn đồ Đại Việt, Xuân về đỉnh Mã Phi, Tình sử A Nàng, Rừng đêm hóa trắng, Tàu ô huyết sử, Mùa xuân trên biển, Thúy Kiều 1 và 2, Lửa hồng Đông đô...

Tại đoàn Sông Bé, Cặp đôi Cẩm Thu - Linh Tâm đã tạo nên một cơn sốt trên sân khấu cải lương thời bấy giờ. Giữa năm 1989, Cẩm Thu cùng Linh Tâm được Đoàn Trần Hữu Trang 1 về hát chính cho đoàn. Trên sân khấu của đoàn Trần Hữu Trang, Cẩm Thu đã xuất hiện trong vai Tịnh Tâm, trong v
ở tuồng Cha con người hát rong,  vai Hoàng hậu Magarit trong vở tuồng Tháp đoạn hồn, vai Diễm Châu trong vở tuồng Khát vọng giai nhân,vai Phan Kim Liên  trong vở tuồng Võ Tòng sát tẩu ...   và các vở khác như Chuyện tình trên sông, Bốn trái đào, Xác quỷ tình người, Lan Huệ sầu ai. Đặc biệt với vai diễn Tịnh Tâm trong vở tuồng Cha con người hát rong. Cẩm Thu đã gây được ấn tượng mạnh đối với khán giả yêu cải lương.

Năm 1993, Cẩm Thu được mời về Đoàn Văn Công Thành Phố. Tại đây, Cẩm Thu thường diễn cặp cùng nghệ sĩ Minh Vương, cặp đôi Cẩm Thu - Minh Vương cũng tạo được sự yêu mến của khán giả không kém cặp Minh Vương - Lệ Thủy.

Năm 1982, nghệ sĩ Cẩm Thu và Linh Tâm cặp đôi của đoàn Sông Hàn đã chính thức kết hôn. Vợ chồng chị sinh được hai người con là Võ Vũ Linh Thanh và Võ Vũ Thu Tâm. Nhưng sau một thời gian chung sống, vợ chồng chị đã chính thức ly hôn. Sau khi ly hôn, nghệ sĩ Cẩm Thu sống cùng con trai tại Việt Nam còn nghệ sĩ Linh Tâm thì định cư tại Hoa Kỳ.

Philipp Nam và Cẩm Thu ngồi giữa

Sau nầy nghệ sĩ Cẩm Thu đã kết hôn cùng nghệ sĩ Philip Nam một doanh nhân thành đạt tại Mỹ, có tấm lòng và niềm đam mê dành cho sân khấu cải lương.  Do đó nghệ sĩ Cẩm Thu được định cư ở Mỹ, cả hai vợ chồng Philipp Nam và Cẩm Thu thường xuyên sinh hoạt với Cổ nhạc Phương Nam hàng tuần phát sóng trên đài truyền hình SBTN ở Little Saigon.



Tuấn Châu
Tuấn Châu – Bùi Văn Khanh (1963-20 .. )

Nghệ sĩ Tuấn Châu tên thật là Bùi Văn Khanh, sanh năm 1963, tại quận 5 Chợ lớn, cha mẹ là người Hoa kiều. Đến năm 12 tuổi, bé Khanh không được đi học nữa mà phải ở nhà giúp cha mẹ trong việc mua bán hàng xén trên lòng đường Nguyễn Trải ngang hông rạp hát Thủ Đô trong Chợ Lớn. Vì vậy bé Khanh có nhiều dịp vô rạp hát coi các nghệ sĩ tập tuồng, em rất thích hát cải lương tuồng cổ.
Năm 18 tuổi, Khanh học ca tân và cổ nhạc với nhạc sĩ Thanh Sơn, nhờ có giọng tốt, hơi rông nên Khanh được hoan nghinh trong các buổi biểu diễn văn nghệ ở phường, khóm. Năm 1981, Khanh được nữ nghệ sĩ Thúy Manh giới thiệu với trưởng đoàn cải lương tuồng cổ Huỳnh Long. Trưởng đoàn Bạch Tùng Hương yêu cầu nghệ sĩ Thanh Bạch thử giọng ca, mọi người đều công nhận em Khanh có giọng tốt, ca chắc nhịp.
Bạch Tùng Hương chấp nhận cho Khanh gia nhập đoàn Huỳnh Long và đặt cho tên là nghệ sĩ Tuấn Châu. Em Khanh chưa hiểu tại sao, ông trưởng đoàn Bạch Tùng Hương giải thích : “Giọng ca của mày mùi như giọng ca của Thanh Tuấn và có vẻ cợt cợt diểu diểu như Giang Châu của đoàn Saigon 2, tao cho mày tên Tuấn Châu là trong đoàn mình có một nghệ sĩ ngon lành bằng hai nghệ sĩ Thanh Tuấn và Giang Châu cộng lại.”
Vai đầu tiên Tuấn Châu được hát là vai Ba Trạo trong tuồng Tình Sử A Nàng, sau đó Tuấn Châu hát vai Già Làng trong tuồng Lá Chắn Biên Thùy.
Buổi tiệc thịt heo giả cầy bên hông rạp Thủ Đô thay đổi số phận Tuấn Châu. Tuấn Châu là người Hoa nên hành xử theo cách của người Hoa, anh tổ chức một buổi tiệc nhậu “thịt giả cầy” để cám ơn những người đã dẩn dắt anh vào nghề hát.
Tuấn Châu rót ly rượu mời trưởng đoàn hát và mời nữ nghệ sĩ Thúy Manh là người đã giới thiệu anh vào đoàn. Bạch Tùng Hương bảo Tuấn Châu rót thêm hai ly rượu cho Thanh Bạch và Bửu Truyện, xong anh nâng ly mời bốn người cùng uống một lượt. Thanh Bạch bảo là Tuấn Châu mới vào nghề hát mà hát vai Già Làng trong tuồng Lá Chắn Biên Thùy được khán giả nhiệt liệt ngợi khen, đó là nhờ Tổ đải.
Bạch Tùng Hương chỉ cái lẩu thịt cầy, hỏi Tuấn Châu : “Mầy nói đây là thịt cầy thiệt hay là thịt heo giả cầy?” Tuấn Châu chưa biết trả lời sao, Bạch Tùng Hương tiếp : “Lời của khán giả khen Tuấn Châu giống như chúng mình đang ăn thịt heo giả cầy mà khen ngon, giống như thịt cầy chớ không phải thịt cầy thiệt.
Tuấn Châu hát được khán giả khen, ngoài cái giọng tốt, còn nhờ đóng vai Già Làng, nghĩa là không cần diễn xuất nhiều, cứ lụm cụm, khom lưng, hát chậm chạp là đạt được kết quả. Như vậy chưa phải là kép hát tuồng cổ, chỉ là giống kép hát chớ chưa phải thật sự một kép hát có tay nghề. Tao nói vậy, mầy có hiểu không?
Tuấn Châu dạ dạ, gải đầu gải tai, hiểu ông Trưởng đoàn nhắc nhở là mình chưa phải thật sự có tài hát tuồng cổ nhưng không hiểu ông muốn ám chỉ gì. Bạch Tùng Hương nói tiếp : “Tao đã nói vậy, sao mầy không làm lễ bái sư phụ để học nghề, để trở thành một kép hát thực thụ chớ không phải hữu danh vô thực. Bái sư phụ đi!”
Tuấn Châu chấp tay xá xá Bạch Tùng Hương: “Con bái sư phụ” .
Bạch Tùng Hương gạt ngang: “Bậy ! Bậy ! Hồi nảy tao biểu rót thêm hai ly rượu mời Thanh Bạch và Bữu Truyện là có ý nhắc mầy bái hai người đó làm sư phụ”.
Tuấn Châu mừng quá, dạ râng, chấp tay xá xá Thanh Bạch và Bửu Truyện. Cả hai anh nầy từ chối vì thông thường thì thầy thích truyền nghề cho ai thì thầy tự chọn, ít khi bị ép nhận học trò, nhưng Bạch Tùng Hương nói: “Lúc khởi đầu buổi tiệc, hai anh đã nhận hai ly rượu cám ơn, đó là rượu bái sư. Với lại tôi tin hai anh sẽ không thất vọng vì đứa học trò nầy đây.”
Thanh Bạch và Bửu Truyện nhận thêm bốn xá của Tuấn Châu và thêm một tuần rượu nữa. Tôi nhắc lại giai thoại nầy vì hiện nay Bạch Tùng Hương và Bửu Truyện đã ra người thiên cổ, Thanh Bạch định cư ở Pháp, các anh đã có được một đệ tử xuất sắc: nghệ sĩ Tuấn Châu, người nối nghiệp các anh trong nghệ thuật hát cải lương tuồng cổ và hồ quảng.
Sau vở Lá Chắn Biên Thùy, đoàn Huỳnh Long còn có các vở tuồng: Về Đất Kinh Châu, Lưu Kim Đính Giải Gía Thọ Châu, Đường Về Núi Lam, Hùm Thiêng Yên Thế, Con Tấm Con Cám… Qua từng vở tuồng, Thanh Bạch và Bửu Truyện dạy cho Tuấn Châu từng điệu bộ, cách nói lối, cách ca ngâm và hát các bản nhạc Hồ Quảng.
Hai năm sau, Tuấn Châu được mời về làm kép chánh, hát với đào chánh Mỹ Tiên trong đoàn hát Thanh Nga. Tuấn Châu đã đóng vai Lê Hoàn hát với Kiều Phượng Loan trong tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga, vai Lê Qúy Đôn trong tuồng Thiên Phúc Hoàng Đế, vai Lý Thánh Tông trong tuồng Nhiếp Chính Ỹ Lan. Tuấn Châu hát chia vai với Châu Thanh, tuồng Nữ Kiệt Sang Sông hát với Phượng Hằng.
Năm 1988, Tuấn Châu gia nhập đoàn hát Minh Tơ hát với các diễn viên tài danh : Tài Linh, Linh Châu, Bạch Lan. Trường Sơn, Thanh Loan, Xuân Yến, Thảo Nguyên, Công Minh, Thanh Tòng. Ở sân khấu cải lương tuồng cổ, Tuấn Châu như con cá được trở về ao hồ xưa, mặc sức vẫy vùng. Tuấn Châu có một số vai hát thành công : vai Trần Lâm tuồng Bích Vân Cung Kỳ Án, vai Tiết Đinh San tuồng Thần Nữ Dâng Ngũ Linh Kỳ, vai Hồng Đại Lỉnh tuồng Thanh Xà Bạch Xà.
Năm 1988, vợ con của Tuấn Châu xuất cảnh, Tuấn Châu trực trặc giấy tờ, phải ở lại. Anh phải nghĩ việc vì lúc đó nghệ sĩ nào đăng ký xuất ngoại thì không được hành nghề nữa. Anh bổ túc hồ sơ và chờ đợi.
Nhờ có Duy Phương giúp cho đi hát chui bên tân nhạc và tấu hài trong các show của Duy Phương tổ chức nên Tuấn Châu cũng kiếm sống qua ngày. Tuấn Châu tấu hài cũng rất thành công nhất là khi anh diễn vai chú Ba Tàu, nói giọng lơ lớ rồi ca Hồ Quảng, vô vọng cổ nghe ngọt xớt.
Năm 1992, Tuấn Châu trở về hát trên sân khấu Minh Tơ, diễn viên có : Vũ Linh, Tài Linh, Kim Tử Long, Bửu Truyện, Thanh Thế, Ngọc Đáng, Tuấn Châu thành công vai Vua trong tuồng Ngai Vàng và Tội Ác, vai lão trong tuồng Bụi Mờ Ải Nhạn.
Năm 1994, Tuấn Châu hát cho đoàn Huỳnh Long hai vở tuồng Lê Long ĐỉnhBao Công Xử Án Trần Thế Mỹ. Năm 1996, đoàn Huỳnh Long, đoàn cải lương Saigon 2, Saigon 3 rã gánh, Tuấn Châu về nhà giúp mẹ trong việc kinh doanh thương mãi, vật chất tiền nông không thiếu thốn nhưng Tuấn Châu rất nhớ sân khấu và các bạn diễn. Anh thu vidéo cải lương được hai chục vở, sau đó anh xuất ngoại qua Hoa Kỳ, đoàn tụ với vợ con.
Ở khu Phước Lộc Thọ, Tuấn Châu gặp lại các nghệ sĩ đàn anh đàn chị nên được mời tham gia khi có show ca nhạc trong các nhà hàng. Thỉnh thoảng Tuấn Châu được mời về Việt Nam thâu vidéo cải lương hồ quảng nên tuy định cư ở hải ngoại, Tuấn Châu vẫn còn sống được với nghề hát sân khấu.
Tuấn Châu có giọng ca trầm ấm, âm vực mạnh, vang vang lại có vóc dáng cao lớn nên anh thích hợp với các vai võ tướng, vai các quan trung thần, vai vua hoặc vào các vai nông dân lực điền, Tuấn Châu có khả năng hát nhiều loại vai tuồng và rất đứng đắn trong việc làm, không bỏ show, không khó dễ nên anh vẫn là một nghệ sĩ sáng giá và đắc show nhất hiện nay. 


Tuấn Châu cùng Văn Chung, Ngọc Đáng, Hoàng Nam, Hoàng Phúc là những người sáng lập chương trình Cổ nhạc Phương Nam năm 2011 trên đài VHN, đến năm 2015 thì chuyển sang đài SBTN rất nổi tiếng tại Mỹ.



Thanh Thanh Tâm

Thanh Thanh Tâm - Nguyễn Thị Thanh Thanh (1963-20 .. )

Thanh Thanh Tâm tên thật là Nguyễn Thị Thanh Thanh, sinh sanh ngày 6 tháng Giêng năm 1963 tại Saigon, con của nam nghệ sĩ tài danh Nam Hùng và nữ nghệ sĩ huy chương vàng giải Thanh Tâm Thanh Thanh Hoa.
Thanh Thanh Tâm theo cha mẹ sống trong đoàn hát nên Thanh Thanh Tâm thường nghe tiếng đàn giọng ca của các nghệ sĩ trưởng bối trong đoàn, cô thường ngồi bên cánh gà xem hát, sau nhiều năm nghệ thuật ca múa thẩm thấu vào tâm hồn của bé Thanh Thanh Tâm. Năm lên 4 tuổi Thanh Thanh Tâm được báo chí kịch trường tặng cho danh hiệu Thần Đồng khi cô ca tân nhạc trên sân khấu đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga tại rạp Hưng Đạo, Sàigòn.
Năm lên 8 tuổi, Thanh Thanh Tâm đã được phân vai nhát những vai đào con trên sân khấu đoàn Tiếng Hát Dân Tộc.
Năm 9 tuổi, Thanh Thanh Tâm được cha mẹ cho học chử ở trường Ba Đình quận 8, nhưng khi cô đang học thì Ban kịch Kim Hoàng Như Mai mời cô đóng vai em bé trong vở Mưa Bão Kịch truyền hình. Thanh Thanh Tâm cũng đã được hãng phim Alfa Thái Thúc Nha mời đóng một vai bé con trong phim Người Cô Đơn và phim Phận Má Hồng. Hãng phim Thẩm Thúy Hằng mời Thanh Thanh Tâm đóng một vai trong phim Sóng Tình do Bùi Xuân Dung làm đạo diễn..
Năm 1978, Thanh Thanh Tâm được tuyển vào học trường Nghệ Thuật diễn xuất, khóa đầu tiên của đoàn hát Trần Hữu Trang, Thanh Thanh Tâm đã được học với các thầy Phùng Há, Kim Cúc, Ngọc Hùng, Thu Vân nên diễn xuất sắc vai Trần Quốc Toản tuồng Trần Quốc Toản ra quân. Cô cũng thành công qua các vai tuồng Mùa Xuân Cho Em, Đời Cô Lựu….
Năm 1981 cô thành hôn với con trai của đạo diễn Lưu Chi Lăng, Năm 1982, cô sanh đứa con gái đầu lòng, đặt tên Lưu Thị Ca Dao. Đến năm 1988, cô và chồng ly dị nhau và con gái sống cùng với cô.
Năm 1983, nữ nghệ sĩ Thanh Thanh Tâm về đoàn hát Trần Hữu Trang 1, hát chia vai với nữ nghệ sĩ Phượng Liên qua những vở tuồng như Đêm Phán Xét, Kiều Nguyệt Nga, Rạng Ngọc Côn Sơn, Chuyện Cổ Bát Tràng, …
Năm 1987, Thanh Thanh Tâm được chuyển qua đoàn hát Trần Hữu Trang 2, thành phần diễn viên có Vũ Linh, Thanh Thanh Tâm, Thanh Hằng, Hồng Tơ, Linh Trung, Minh Châu, Lê Thiện, Chí Linh, Vân Hà… tại đây cô cùng với nghệ sĩ Vũ Linh đã trở thành cặp diễn ăn ý nhất và thu hút được nhiều khán giả.
Cuối năm 1989, nữ nghệ sĩ Thanh Thanh Tâm ký hợp đồng hát cho đoàn tuồng cổ Huỳnh Long. Cô đã gây ấn tượng đặc biệt trong vai diễn của mình cùng với nghệ sĩ Minh Vương trong vở tuồng Vị Án Phi Giao và tuồng Sở Vân. Từ năm 1990, cô cộng tác hát cho đoàn Sân khấu tài năng sau đó năm 1992 là đoàn Huỳnh Long.
Trong cuộc đời ca hát, Thanh Thanh Tâm đã được các giải thưởng:
Giải Triển vọng Trần Hữu Trang vào năm 1991 và Giải Tài năng Trần Hữu Trang vào năm 1997.
Đến năm 1998, cô được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.
Năm 2000, Thanh Thanh Tâm kết hôn với một người chồng ngoài nghề hát. Cô sanh được một con trai. Chồng cô luôn giúp đở và khuyến khích khi Thanh Thanh Tâm có dịp xuất hiện trên sân khấu.
Ngoài niềm say mê nghệ thuật, hai đứa con chính là "tác phẩm" mà chị dồn sức và say mê chăm chút rất nhiều. Chị kể, đã mấy chục năm nay, buổi sáng chị phải dậy từ 5 giờ để chuẩn bị cơm nước, lo chợ búa, đưa con tới trường. Với chị, đó là trách nhiệm và cũng là nguồn vui ngoài nghệ thuật. "Thậm chí, hôm nào phải đi diễn xa, không đưa con đi học được tôi lại thấy nhớ". Ca Dao, cô con gái lớn, đang du học ngành marketing bên Mỹ, còn bé Kim Tuyền đang học lớp 1.



Kim Tử Long
Kim Tử Long – Hoàng Kim Long (1966-20 .. )

Nghệ sĩ Kim Tử Long tên thật là Hoàng Kim Long, sinh ngày 17 tháng 10 năm 1966, tại quận 8, Sàigòn. Trong gia đình có 4 anh chị em, gồm có 3 nam và 1 nữ. Thân phụ là ông Hoàng Sinh, hành nghề đông y, mẹ là bà Châu Thanh Nguyên, buôn bán nhỏ.
Năm 1975 đã làm đảo lộn cuộc sống của mọi người, mọi gia đình. Cha của Kim Tử Long không được hành nghề đông y vì phải chờ sự cấp giấy phép hành nghề của Bộ Y Tế và Hội đông y miền Bắc, tiệm thuốc Bắc của ông ở quận 8 bị tịch thu vì bị “đánh tư sản”. Mẹ của Hoàng Kim Long cũng bị dẹp sạp bán hàng chạp phô trong chợ quận, cuộc sống lâm vào cảnh túng hụt khó khăn.
Các anh em của Hoàng Kim Long phải bỏ học, mỗi đứa phải kiếm một nghề mới để khỏi bị đưa đi vùng kinh tế mới. Người anh cả Hoàng Kim Hoàng học nghề điêu khắc tượng Phật, đúc hình bằng thạch cao, học của ông Nguyễn Thành Ý, giáo sư trường Mỹ Thuật Gia định, ông nầy vừa bị chế độ mới sa thải nên dạy học trò ở địa phương để kiếm sống. Hoàng Kim Long lúc đó mới có 10 tuổi, để giúp cho gia đình qua cơn túng ngặt, Hoàng Kim Long đi bán bánh in ở vùng cầu chữ Y.
Ảo thuật gia Z27 dạy nghề ảo thuật miễn phí cho Hoàng Kim Long để đền ơn cha cậu đã trị bịnh cho ông. Từ đó Hoàng Kim Long theo ảo thuật gia Z27 đi diễn ảo thuật trong chương trình tạp kỷ của đoàn Hương Miền Nam do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết làm trưởng đoàn.
Từ năm 1978, Kim Long gia nhập đoàn cải lương Tuổi Trẻ của Sở Thương Nghiệp thành phố, biểu diễn ảo thuật trước khi đoàn mở màn hát cải lương. Kim Long cũng bắt đầu học ca cổ nhạc, học các vai tuồng của các diễn viên trong đoàn để thế vai khi các diễn viên nầy bịnh hay vắng mặt.
Sau đó Kim Long theo đoàn hát Tiếng Hát Quê Hương của Phường 2 quận 8, tiếng ca vọng cổ rất ngọt của Kim Long được nhà hát Trần Hữu Trang chú ý, nhà hát thu nhận Kim Long vào Ðoàn Tuổi Trẻ Xung Kích Trần Hữu Trang.
Năm 1982, Hoàng Kim Long học trường nghệ thuật sân khấu của nhà hát Trần Hữu Trang, khóa 2 , một lượt với các bạn : Viết Chánh, Hồng Dào, Thủy Trang, Thoại Mỹ, Bích Thu, Hồng Hoa, Linh Sơn…Kim Long đã thụ giáo qua các thầy Phùng Há, Kim Cúc, Tấn Ðạt, Ngô Thị Hồng. Năm 1985, Kim Long thi ra trường qua vai Y Mây, tuồng Y Ban và nàng tiên. Nghệ sĩ Phùng Há đặt cho Kim Long nghệ danh Kim Tử Long.
Năm 1987, nghệ sĩ Kim Tử Long về làm diễn viên cho đoàn Trần Hữu Trang 1. Tại đây anh tham gia các vai diễn Tư Hùm trong vở “Trả Lại Tình Xưa,”, Lý Thân trong vở “Lý Thân và công chúa nước Tần)”, Keo Đinh trong vở “Nữ ca sĩ hoàng gia”…
Từ năm 1989, nghệ sĩ Kim Tử Long về đầu quân cho các đoàn hát Minh Tơ (1989), Sài Gòn 1 (1990), Minh Tơ(1992-1993), Sông Bé 2 (1993-1994), Minh Tơ (1994-1996), đoàn Văn Công Thành Phố(1996), Đoàn Sài Gòn I(1999-2000), Trần Hữu Trang (2000-2001), Sân khấu thể nghiêm 5B (2001).
Là kép chánh, Kim Tử Long đóng tuồng cặp với nhiều nữ nghệ sĩ tài danh như Tài Linh, Ngọc Huyền, Thanh Ngân, Thanh Thanh Tâm, Thoại Mỹ, Tố Loan, Phượng Mai, Mỹ Châu …
 Trong thời gian này, anh đã diễn các vở như: Lữ Bố trong vở Phụng Nghi Đình, Đổng Thừa trong vở Mã Siêu báo phụ thù, Trí Bình trong vở Xin đừng nói yêu em, Nguyễn Khắc Cường trong vở Em ơi đừng khóc nữa, Đạt Sơn trong vở Ben suối đợi chàng, Lưu Bị trong vở Về Đất Kinh Châu, Trần Bình Trọng trong vở Bài Ca Ly biệt, và các vở tuồng Yêu em từ đó, Yêu và ghen, Quỷ kiếm sầu, Ngai vàng và tội ác, Thanh Xà Bạch Xà, Bụi Mờ Ải Nhạn, Con gái Hoa Mộc Lan, Tứ Hỷ Lâm Môn, Chung Vô Diệm trong vở Tề Vương, Văn Võ Kỳ Duyên trong vở Cao Khánh Văn…
Kim Tử Long đoạt huy chương vàng giải Trần Hữu Trang, giải diễn viên xuất sắc năm 1992 và được đọc giả qua trưng cầu ý kiến của các báo, bầu Kim Tử Long và Ngọc Huyền là đôi diễn viên được ưa thích nhất trong năm 1992 và liên tiếp ba năm liền sau đó.
Kim Tử Long và các diễn viên tài danh vừa kể có thu nhiều băng video rất hay, đặc biệt, Kim Tử Long và Ngọc Huyền, rất thành công qua các băng video tuồng như Chiếc Hổ Phù, Dương Quí Phi – An Lộc Sơn, Con Ma nhà họ Hứa, Xử án Phi Giao, Mạnh Lệ Quân… và ca tân cổ giao duyên.
Năm 1997, Kim Tử Long lập gia đình với em gái một cầu thủ danh tiếng, họ có con gái đầu lòng tên Hoàng Kim Phụng, có nghệ danh Maika, đã lập gia  đình năm 2017. Sau đó, Kim Tử Long lập gia đình với người vợ thứ 2 là Cẩm Tú có 2 con gái là Hoàng Gia Linh và Hoàng Gia Hân, rồi lại chia tay, người vợ hiện nay là Trinh Trinh, cháu gái của nghệ sĩ Thanh Tòng, họ đã có với nhau cậu con trai, ngoài ra Kim Tử Long có con nuôi là nghệ sĩ Bình Tinh, con gái của cố nghệ sĩ Đức Lợi và Bạch Mai.
Kim Tử Long là một nghệ sĩ cải lương được nhiều người hâm mộ khi diễn chung với Ngọc Huyền, đồng thời cũng đóng góp nhiều vào tân nhạc.


Thanh Thủy

Thanh Thủy - Hồ Thị Gòn (1966-20 .. )

Nghệ sĩ Thanh Thủy tên thật là Hồ Thị Gòn, sanh năm 1966, tại Cai Lây, Mỹ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang, theo mẹ lên Sàigòn từ nhỏ. Năm 11 tuổi theo thầy Tư Nghi học đờn tranh.
Đến năm 1980, Thanh Thủy được thầy Nghi đưa vào trường Nghệ Thuật sân khấu II, nay là trường Sân Khấu -Điện ảnh Tp. HCM, thi đậu vào khoa đờn. Thấy Thủy có giọng ca khá tốt, nhan sắc dễ coi, cô Ca Lê Hồng, Hiệu trưởng của trường lúc bấy giờ đề nghị chuyển Thủy qua học khóa 6 khoa Cải lương, cùng lớp Nguyệt Hồng, Bảo Trang, Hữu Châu, sau đó Hữu Châu chuyển qua học kịch với Hữu Nghĩa, Quang Minh, Hồng Đào. Năm 1986 Thanh Thủy tốt nghiệp ra trường, chính thức bước lên sân khấu chuyên nghiệp ở đoàn Văn Công Tp. HCM.
Như bao nhiêu nghệ sĩ trẻ mới ra trường, luôn mang nhiều ước mơ, hoài bảo, cứ tưởng với tấm bằng tốt nghiệp ớ trường mình sẽ dễ dàng thành công ở sân khấu chuyên nghiệp. Thực tế luôn nghiệt ngã, tạo ra một khoảng cách rất lớn, mà sự thất bại luôn chực chờ trước mắt. Thanh Thủy không tránh khỏi bỡ ngỡ khi được vào hát một đoàn lớn, thời gian đầu không tạo được ấn tượng gì, dù được hát đào nhì, đóng đúp vai với nghệ sĩ Thoại Miêu. Nhờ vào tính ham học, chịu khó Thủy đã vượt qua những áp lực ban đầu, để trở thành cô đào nhì sáng giá, và có lúc đoàn đã chọn cô cho phương án thay thế Mỹ Châu, khi Mỹ Châu có ý định rời đoàn. Thời gian cộng tác với đoàn Văn Công thành phố, Thanh Thủy và Vũ Minh Vương tạo thành một đôi ăn ý được khán giả yêu mến. Nhưng để đạt đến thành công, sân khấu Trần Hữu Trang mới chính là nơi tài nghệ Thanh Thủy thăng hoa.
Năm 1992 Thanh Thủy – Linh Cường là cặp đào kép chánh của đoàn 1 nhà hát Trần Hữu Trang, cùng với danh hài Vũ Đức trở thành bộ ba ăn khách, đủ sức thay thế những nghệ sĩ tài danh khác đã rời đoàn. Gần như đoàn 1 đã có một cuộc thay máu. Vở tuồng 15 năm tình hận của tác giả Thạch Tuyền được đạo diễn Đoàn Bá chọn ra mắt lực lượng mới, đây là vở rất đông khách, đánh dấu bước thành công đầu tiên của lớp nghệ si trẻ ở nhà hát, từ vị trí cô đào nhì chỉ dành đóng thế vai ờ đoàn Văn Công thành phố, Thanh Thủy đã đàng hoàng trở thành cô đào chánh trẻ trung, tương lai nhiều hứa hẹn. Vở Sự tích con muỗi của Hùng Tấn, đạo diễn Nguyễn Phú Hải, Thanh Thủy lần đầu tiên kết hợp với Trọng Nhân, một vở diễn được dàn dựng công phu, có nhiều sáng tạo, nhưng lại không đạt về doanh thu.
Sau đó, đoàn dựng tiếp vở Giấc mộng không tên của tác giả Hoàng Song Việt. Thanh Thủy coi như mình có duyên khai trương những vở mới. Sự tích con muỗi là vở đầu tiên do Nguyễn Phú Hải dàn dựng Cải lương, vở Giấc mộng không tên được giải cao của Hội sân khấu Thành phố về kịch bản, cũng là kịch bản của Hoàng Song Việt lần đầu tiên được ra mắt ở một sân khấu lớn, trước đó Hoàng Song Việt cũng có vài vở ra mắt ở sân khấu khác, không được đình đám như vở Giấc mộng không tên.
Đến năm 1995 Thanh Thủy cùng Đặng Quang Vinh, Kim Phương, Thanh Ngân phối với đạo diễn Lê Thụy ra mắt Câu Lạc Bộ Cải lương Ba Thế Hệ trực thuộc nhà hát Trần Hữu Trang với vở cải lương Những mảnh đời côi cút hay Ánh sáng phù du, cũng là vở đầu tiên Lê Thụy dựng Cải lương ở sân khấu.
Suốt một thời gian gần 10 năm đi hát liên tục, Thanh Thủy có những đóng góp nhất định cho sân khấu Thành phố, tuy không ào ạt, nhưng đó là những cột mốc đáng nhớ. Tuy không phải là diễn viên ăn khách ồn ào như một số đồng nghiệp cùng trang lứa, song Thanh Thủy đến với sân khấu bằng bản lĩnh của người nghệ sĩ được đào tạo chính qui, mỗi vai diễn là một sự sáng tạo mới có chiều sâu.
Nhìn chung, Thanh Thủy là một nghệ sĩ tài sắc vẹn toàn. Từ năm 1998 trong cuộc đời Thanh Thủy có một khoảng lặng về sự nghiệp sân khấu sàn diễn, vì cô dành nhiều thời gian cho sân khấu truyền hình. Ở HTV Thanh Thủy có người bạn học sau một khóa là biên tập viên Hiền Phương, rất quí mến tài năng của Thủy nên cô được mời vào khá nhiều vai chánh.
Có một vở cải lương Thanh Thủy rất nhớ, vở Nước chẳng về nguồn, Soạn giả Đăng Minh, đạo diễn Tài Bửu Bửu, đó là kỷ niệm lần đầu tiên HTV thực hiện cải lương nhiều tập, mỗi tập 90 phút, do ông Huỳnh Minh Nhị khởi xướng, mà Thanh Thủy đóng chánh với nghệ sĩ Lương Tuấn, vở chia ra thành 6 tập qui tụ khá đông nghệ sĩ, đó là vở lần đầu tiên Minh Béo hát Cải lương trên truyền hình, Thanh Thủy luôn có duyên với những công trình đầu tiên.
Chính sân khấu truyền hình đã giúp cho Thanh Thủy đỡ nhớ nghề, khi sân khấu bước vào cuộc khủng hoảng lớn. Gia đình Thanh Thủy có nếp sinh hoạt thường kỳ: cuối tuần tụ họp lại ăn cơm, rút tỉa những kinh nghiệm trong cuộc sống, đồng thời giữ mối quan hệ chặt chẽ giữa những thành viên trong gia đình với nhau. Nếp sinh hoạt nầy thường bị gián đoạn khi mẹ phải theo Thanh Thủy đi sớm về khuya. Là con gái áp út lại theo nghề hát nên mẹ rất thương, càng đi theo chăm sóc con gái bà càng thông cảm cho những vất vả, những chuyến lưu diễn xa nhà từ miền Trung, miền Tây của con. Chính bà là người duy nhất vẫn luôn kề cận cô trên muôn nẻo đường đời.
Năm 2002 sau nhiều năm vắng bóng ở sân khấu, Thanh Thủy trở lại với Liên hoan sân khấu các tỉnh phía Nam với vở Nhảy múa với quỉ dữ, lần đầu tiên đóng vai phản diện nhưng Thủy đã được trao Huy Chương Vàng. Vai diễn mở ra cái nhìn khác về Thanh Thuỷ đa tài. Với Thanh Thủy nghệ thuật cải lương đã thấm vào máu, chỉ cần có cơ hội là tài năng ấy sẽ có dịp bộc phát, tạo nên những khoảnh khắc tuyệt vời trên sân khấu. Nhìn Thanh Thủy ca diễn cứ thấy vẻ tự nhiên, nhẹ như không, thế nên vai diễn có sự sống động mà gần gũi đời thường. Ngoài một Thanh Thủy là nghệ sĩ biểu diễn tài năng với nhiều vai diễn ấn tượng, nhiều người đã ngạc nhiên khi biết còn một Thanh Thủy khác – một cây đờn tranh xuất sắc.


Thoại Mỹ
Thoại Mỹ - Nguyễn Thị Ngọc Mỹ (1969-20 .. )

Nghệ sĩ Thoại Mỹ tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Mỹ, sinh ngày 28 tháng 4, năm 1969 tại Sàigòn.
Khoảng thập niên 1950, cha mẹ Thoại Mỹ rời quê hương Quảng Nam – Đà Nẵng vào Sàigòn lập nghiệp. Cũng chính nơi đây, họ đã sinh cô con gái Thoại Mỹ. Nhìn gương mặt xinh xắn như thiên thần của con, cha mẹ cô cẩn thận chọn cái tên Nguyễn Thị Ngọc Mỹ để hy vọng tương lai của con sẽ được tốt lành, hạnh phúc. Nhà có tới 12 anh, chị em nên cuộc sống gia đình Ngọc Mỹ trở nên chật vật hơn bao giờ hết, cô bé Ngọc Mỹ sớm phải bươn chải với cuộc sống.
Ngày còn nhỏ, Thoại Mỹ đã lon ton đi bán khoai, bán bắp, bưng hủ tiếu thuê để có tiền phụ cha mẹ. Thậm chí, có những lúc Thoại Mỹ còn đi ở đợ. Vất vả, cơ cực nên niềm vui của Thoại Mỹ là những giây phút hiếm hoi được theo chị năm Thoại Miêu đến rạp xem cải lương.
Thoại Mỹ đến với nghệ thuật cũng là một cái duyên. Một hôm cô theo chị Thoại Miêu đi xem hát như thường lệ, nhưng hôm đó người diễn vai cô bé Sầu Riêng không đến. Mọi người trong đoàn cuống cuồng đi tìm người diễn thế, và họ thấy cô bé Thoại Mỹ đen, gầy gò đang đứng chơi ở gần đó. Biết cô là em của Thoại Miêu, họ lên tiếng: "Đâu nhỏ hát thử nghe coi được không?". Khi cô bé cất giọng hát thử một đoạn ngắn bằng một phong thái rất nhẹ nhàng kèm theo một chất giọng vô cùng trong trẻo. Nghe hát xong mọi người trong đoàn ai nấy đều mừng rỡ. Và mọi người đã dạy cho cô các động tác phụ họa và hát, và sau đó Thoại Mỹ lên sân khấu hát một cách dạn dĩ. Lối diễn xuất mộc mạc của cô bé đã khiến biết bao khán giả không cầm được nước mắt.
Khi ấy Thoại Mỹ chỉ mới 11 tuổi. Sau đó cô được nghệ sĩ Lệ Thủy khuyên Thoại Miêu cho cô em đi học nhạc. Năm 13 tuổi Thoại Mỹ thi đỗ vào khoa đào tạo diễn viên của nhà hát Trần Hữu Trang với tỉ lệ chọn 40 học viên chính thức trên tổng số 5000 thí sinh dự thi. Cùng khóa với các nghệ sĩ, ca sĩ nổi tiếng sau nầy như: Kim Tử Long, Ngọc Huyền, Tô Châu, Thùy Trang,..
Năm 16 tuổi, sau khi ra trường, Thoại Mỹ bắt đầu đi hát ở nhiều nơi như Đoàn S àigòn 3, Đoàn Huỳnh Long, đoàn Sông Bé, Nhà hát Trần Hữu Trang. Đi đến đâu chị cũng được tiếng không bao giờ kén chọn vai diễn. Vai nào vào tay Thoại Mỹ đều được cô hoàn thành xuất sắc. Khán giả thì hồi hộp nhìn Thoại Mỹ lột xác từ vai ác, vai mùi, vai độc, vai lẳng, sang con nít, bà già... ngọt xớt mà lòng tràn đầy cảm xúc.
Khi học ở Nhà hát Trần Hữu Trang Thoại Mỹ và Kim Tử Long yêu nhau, nhưng khi ra truờng mỗi người đi một đoàn hát, họ xa nhau từ đó. Sau đó Thoại Mỹ kết hôn với người làm cho công ty Đoài Loan, khi có tiền của xảy ra mâu thuẩn, Thoại Mỹ tự tử không được, xin vào chùa tu cũng không xong, nên cô quyết định ly dị, rồi cô gặp người thứ hai nhưng cũng không thành, đến nay cô vẫn sống độc thân. Có lúc Kim Tử Long quay lại, nhưng cô xem là bạn một thuở xa xưa.
Sau nhiều năm cống hiến cho nghệ thuật, Thoại Mỹ đã giành được rất nhiều giải thưởng cao quý:
Năm 1990, Thoại Mỹ đoạt huy chương Bạc tại Liên hoan sân khấu toàn quốc, vai Lan trong vở Giũ áo Bụi Đời.
Năm 1992, Thoại Mỹ đạt huy chương Vàng Giải Trần Hữu Trang trong vai Hồng Phụng, tuồng Ngọc Kỳ Lân và đạt danh hiệu “Diễn viên được yêu thích nhất” do báo Sân khấu và Hội Sân khấu tổ chức trưng cầu ý kiến đọc giả và khán giả.
Năm 1995, là diễn viên xuất sắc giải Trần Hữu Trang, “Diễn viên được yêu thích nhất” do Báo Sân Khấu và Hội Sân Khấu tổ chức trưng cầu ý kiến và đoạt Giải Mai Vàng, vai Võ Tắc Thiên trong vở Thái Bình Công Chúa.
Ngày 12 tháng 09 năm 2003, Huy chương vì sự nghiệp sân khấu và Giải mai vàng do báo người lao động bình chọn vai Lan, trong vở Lời Thú Tội Muộn Màng và Huy Chương Văn Hóa.
Ngày 14 tháng 01 năm 2004, đạt giải mai vàng do báo người lao động bình chọn, đạt danh hiệu “Là gương mặt nghệ sĩ sân khấu ấn tượng” do bạn đọc báo Tuổi Trẻ bình chọn.
Ngày 21 tháng 04 năm 2004, đạt huy chương vàng diễn viên tài sắc vai Ngọc Hân trong vở Hồn Thơ Ngọc
Năm 2005, đạt huy chương Vàng tại Hội diễn cải lương chuyên nghiệp toàn quốc và Giải mai vàng do báo người lao động bình chọn vai Phượng trong vở Rồng Phượng.
Năm 2007, Giải Mai vàng do báo người lao động bình chọn vai Thúy Kiều, trong vở Kim Vân Kiều.
Năm 2007, Đạt danh hiệu nghệ sĩ ưu tú.
Chăm chỉ như con ong hút từng giọt mật ngọt thơm nghệ thuật, rồi cũng có ngày Thoại Mỹ được bước lên vai đào... nhì. Và như một duyên phận, vị trí đào nhì gắn bó với cô cả quãng đường dài.
Cái cách làm nghề nghiêm túc ở bất cứ vị trí nào khiến Thoại Mỹ trở thành một người "đặc biệt" của làng cải lương: đào nhì mà vẫn nổi tiếng, đào nhì mà khó ai có thể thay thế! Thậm chí trong một số vở, người ta còn nói đùa đào nhì Thoại Mỹ... "giết" đào chính vì diễn xuất có thần của cô làm mờ đi vị trí của sao!
Năm, sáu năm gần đây, từ đào nhì Thoại Mỹ đường hoàng bước lên vị trí đào chánh với nhiều vai: Thái Bình công chúa trong vThái Bình công chúa, vai Võ Tắc Thiên trong vVõ Tắc Thiên, vai Hương trong vNửa đời hương phấn, vai nàng Én trong vNgười đẹp đến Tiền Châu, vai Phượng trong vRồng phượng
Là đào chánh rồi mà Thoại Mỹ vẫn còn "vương vấn" với thời đào nhì, có lẽ nó "vận" vào cô quá lâu nên cô đã quen hủ hỉ, vui buồn cùng nó. Cô thật thà tự nhận thích đóng những vai này vì thường có tâm lý phức tạp, nhiều đất diễn. Kinh nghiệm làm đào nhì cũng khiến Thoại Mỹ có thể hóa thân vào nhiều tính cách khác nhau chứ không đóng khung ở một dạng vai nào cả.



Chinh Nhân
Chinh Nhân - Nguyễn Ngọc Thâu (1970-2016)

Nghệ sĩ Chinh Nhân tên thật là Nguyễn Ngọc Thâu, sanh ngày 01 tháng 4 năm 1970, con của hai nghệ sĩ tuồng cổ tài danh Đức Lợi và Bạch Mai.
Nhắc đến hai nghệ sĩ Đức Lợi và Bạch Mai, khán giả ái mộ cải lương tuồng cổ chắc chưa quên đại gia đình nghệ sĩ cải lương tuồng cổ nầy. Hai nghệ sĩ tiền phong cải lương tuồng cổ Bảy Huỳnh và Ngọc Hương nổi danh. Trong thập niên 1960, đứng ra thành lập gánh hát Thanh Bình – Kim Mai, hát cải lương tuồng cổ ở rạp hát đình Cầu Muối.
Sau năm 1975, Bà Bảy Hương đứng ra thành lập gánh hát Huỳnh Long, một thời nổi danh có nhiều nghệ sĩ giỏi, tuồng hay. Hai đoàn hát Huỳnh Long và Minh Tơ là hai đoàn hát ăn khách nhất từ năm 1976 đến năm 1996.
Ông bà Bảy Hương có được 6 người con nghệ sĩ tài danh : Bạch Mai, Thanh Bạch, Bạch Lan, Trung Ảnh, Kim Phượng, Bạch Nga . và có các con rể cũng là nghệ sĩ tài danh như Đức Lợi, Minh Long và cô dâu là nữ nghệ sĩ Bạch Lê.
Khi Nguyễn Ngọc Thâu lớn lên thì tình hình sân khấu sa sút, gánh hát Huỳnh Long của bà ngoại bị tập thể hóa, do đó Bạch Mai và Đức Lợi đi hát các đoàn ở tỉnh để kiếm sống. Có một lúc Bạch Mai và Đức Lợi vay tiền lãi nặng để lập gánh hát, mong phục hồi những ngày thịnh vượng cũ của đoàn Huỳnh Long, nhưng rồi thua lổ đến nổi phải chạy ra Vũng Tàu để trốn nợ và ca cổ nhạc trong các quán nghệ sĩ để kiếm sống qua ngày.
Chính vì Đức Lợi và Bạch Mai thấy nghề hát cải lương khó có cơ hồi tìm lại thời hoàng kim cũ, cuộc sống của nghệ sĩ lâm vào cảnh khó khăn nên họ đã quyết định không cho con cái theo nghề hát nữa. Đức Lợi cho Thâu đi học sửa xe gắn máy. Tuy nhiên dòng máu nghệ sĩ di truyền trong người lúc nào cũng thôi thúc, Thâu tuy đi học sửa xe gắng máy nhưng cậu ta cũng học ca cổ nhạc và học nhanh chóng hơn những bạn đồng lứa.
Có lẽ lời ca ý nhạc, âm điệu cổ nhạc đã thẩm thấu vào tâm hồn Thâu, vì từ khi sơ sinh đến khi lớn lên, Thâu được sống cùng cha mẹ trong đoàn hát. Thâu xin theo thầy Bạch Long học hát trong lớp đồng ấu Bạch Long, cùng chung khóa với Kim Tử Long, Tú Sương, Trinh Trinh.
Thâu được cha mẹ đặt cho nghệ danh là Chinh Nhân. Chinh Nhân nhờ thầy Bạch Long và cha mẹ Bạch Mai - Đức Lợi chỉ dạy, nên Thâu có vũ đạo sân khấu thật là đẹp, sắc vóc đẹp trai, giọng ca cổ nhạc và hồ quảng được kể là trên mức trung bình.
Năm 1997, nghệ sĩ Chinh Nhân đoạt huy chương vàng giải Trần Hữu Trang với vai An Dương Vương trong tuồng Trọng Thủy - Mỵ Châu.. Ngoài đoàn hát Huỳnh Long, Chinh Nhân có một thời gian đi hát cho các đoàn hát ở tỉnh để kiếm sống. Anh hát ở đoàn Sông Bé 2 và tại đây anh với nữ nghệ sĩ Bảo Ngọc yêu nhau, đi đến hôn nhơn. Nữ nghệ sĩ Bảo Ngọc cũng là một nghệ sĩ con nhà nòi, cha là nghệ sĩ Thanh Phú, mẹ là nữ nghệ sĩ Lan Hương. Hai nghệ sĩ Thanh Phú và Lan Hương từng nổi danh trên các sân khấu Hương Mùa Thu, Trần Hữu Trang.
Nghệ sĩ Chinh Nhân thành công trong các vai võ tướng, được khán giả ái mộ qua các tuồng Trọng Thủy Mỵ Châu, Kim Hồ Điệp, Quan Công Đại chiến Bàng Đức, Thất Hiền Quyến, San Hà Xã Tắc, Giang Sơn và Mỹ Nhân, Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu. Chinh Nhân cũng hát được những vai khó của các nghệ sĩ bực thầy Thanh Tòng, Trường Sơn, Minh Long như vai Lý Đạo Thành, vai Tô Hiến Thành trên các chương trình truyền hình.
Chinh Nhân và Bảo Ngọc có với nhau một con trai, đó là bé Ngọc Cương – từng đóng vai bé Sang trong vở Lá sầu riêng của Kim Cương, khi tác phẩm này được chuyển sang cải lương, do Sân khấu Vàng dàn dựng năm 2007..
Không hiểu do nguyên nhân nào, gia đình Chinh Nhân và Bảo Ngọc gãy đổ. Nghệ sĩ Chinh Nhân đeo đuổi theo nghiệp cầm ca trên sân khấu các rạp hát. Nữ nghệ sĩ Bảo Ngọc im hơi lắng tiếng một thời gian. Sau đó Bảo Ngọc đứng ra lập quán nghệ sĩ ở đường Nguyễn Biểu.
Quán nghệ sĩ của Bảo Ngọc nổi tiếng có nhiều món nhậu ngon, giá phải chăng và chương trình ca hát tập hợp được nhiều nghệ sĩ tài danh, ca hát rất hay và đúng theo nghề nghiệp đàn ca tài tử cổ nhạc. Vào các dịp giổ Tổ mỗi năm, quán nghệ sĩ của Bảo Ngọc tập trung nhiều nghệ sĩ của các đoàn hát Kim Chung cũ đến đờn ca nên được thực khách và nghệ sĩ đến tham gia đông đảo.
Với 15 năm đi hát, nghệ sĩ Chinh Nhân đã tích lũy nhiều vốn liếng nghệ thuật. Anh đã đi hát nhiều đoàn ở tỉnh, thậm chí đi hát cải lương trích đoạn hoặc ca cổ ở các tổ chức Hội Chợ có ca nhạc để kiếm sống và thực hiện ý nguyện được hát cải lương. Trong những dịp nầy, nghệ sĩ Chinh Nhân gặp được người yêu là nghệ sĩ Cát Tuyền.
Nghệ sĩ Cát Tuyền là một nghệ sĩ chuyển đổi giới tính, nên Chinh Nhân và Cát Tuyền dự định tổ chức hôn lễ thì gặp rắc rối về thủ tục giấy tờ. Tuy nhiên hai người ý hợp tâm đầu,
Chinh Nhân và Cát Tuyền bỏ vốn ra thực hiện chương trình hát tuồng cổ - Giữ Mãi Cội Nguồn ở rạp hát Hưng Đạo với hy vọng là qua chương trình Giữ Mãi Cội Nguồn, nghệ sĩ Chinh Nhân và Cát Tuyền sẽ hát những vở tuồng một thời nổi tiếng của đoàn hát Huỳnh Long. Qua đó anh sẽ làm cho khán giả thích trở lại rạp hát, xem hát như trong thời hoàng kim của cải lương để cho nghệ sĩ cải lương có thể đường hoàng kiếm sống được với nghề hát cải lương.
Nghệ sĩ Chinh Nhân còn nuôi cao vọng dựng lại đoàn hát Huỳnh Long của ông bà ngoại và qua việc tổ chức hát thường xuyên. Chinh Nhân góp phần với các nghệ sĩ có giọng ca vàng thực sự vực dậy nghệ thuật cải lương, từng bước phục hồi thời hoàng kim của sân khấu cải lương.

Một nghệ sĩ trẻ, lớn lên giữa một thời kỳ mà nghệ thuật cải lương sa sút đến thảm hại, vậy mà vẫn giữ tâm ý muốn làm phục hồi lại cái thời vàng son của sân khấu cải lương. Trước nhứt, nghệ sĩ Chinh Nhân nhớ lại những thành công huy hoàng của ông bà ngoại: hai nghệ sĩ tiền phong Bảy Huỳnh và Ngọc Hương,

Chinh Nhân cũng rất hãnh diện với tài năng và thành tựu của ba mẹ em là hai nghệ sĩ tài danh Bạch Mai và Đức Lợi. Nghệ sĩ Chinh Nhân tin tưởng tuyệt đối là nghệ thuật cải lương không thể chết, nhất là nghệ thuật hát tuồng cổ vẫn được đông đảo khán giả ưa thích.

Chinh Nhân là nam nghệ sĩ đầu tiên thành hôn với ca sĩ chuyển giới Cát Tuyền. Tuy nhiên chỉ sau vài năm họ đã chia tay, vì áp lực gia đình và xã hội. Sau đó, Cát Tuyền định cư tại Mỹ.

Nghệ sĩ Chinh Nhân qua đời ngày 28 tháng Giêng năm 2016, sau thời gian chống chọi với căn bệnh viêm phổi cấp tính. Thọ 46 tuổi.


Cẩm Tiên
Cẩm Tiên – Võ Thị Cẩm Tiên (1970-20  )

Nghệ sĩ Cẩm Tiên tên thật là Võ Thị Cẩm Tiên, sinh ngày 4 th áng Giêng năm 1970 tại Sàigòn. Thân phụ là Võ Văn Mười và th ân mẩu là bà Lê Thanh Xương.Anh của Cẩm Tiên tên Võ Hiệp là nhạc sĩ organ đoàn Trần Hữu Trang,và em trai Võ Thành Nhàn, nhạc sĩ guitatre cổ nhạc đoàn cải lương Hương Bưởi, chỉ có cô em út của Cẩm Tiên là Võ thị Cát Tiên làm nghề uốn tóc.
Sau năm 1975, cô cùng với gia đình chuyển về sinh sống tại quê nhà ở huyện Gò Dầu tỉnh Tây Ninh. Tại đây, cô theo học ở trường phổ thông trung học Gò Dầu. Ngay từ nhỏ, Cẩm Tiên đã được cha mẹ dạy ca vọng cổ và thường được theo cha đi đờn ca tài tử.

Năm 1977 khi đó cô mới 7 tuổi khi được cha dẫn đến thăm đoàn cải lương Tây Ninh cô đã ca hai bài vọng cổ Rẽ mạ đầu mùaHoa Tím Bằng Lăng, được khán giả nhiệt liệt tán thưởng. Sau đó cô tiếp tục theo học văn hóa đến hết trung học phổ thông. Khi còn học ở trường cô giành được nhiều giải thưởng trong các cuộc thi văn nghệ ở trường và ở địa phương.

Đến năm 1978, cô thi đậu vào trường Đại học sư phạm, sau đó cô được người bạn của cha là nhạc sĩ Minh Hữu và nghệ sĩ Châu Thanh khuyến khích Cẩm Tiên theo nghề hát. Cô đã bỏ sự nghiệp trước mắt là trở thành một cô giáo dạy học mà theo chân nghệ sĩ Châu Thanh gia nhập vào đoàn hát Trung Hiếu và theo đoàn đi lưu diễn khắp miền Trung và miền Bắc. Cẩm Tiên hát thành công vai hát đầu tiên trong đời sân khấu của cô, và được soạn giả và các nghệ sĩ ủng hộ ; cô liên tiếp thành công một cách xuất sắc qua các vai diễn đào nhì sau đào chánh Phượng Hằng như vai Hường trong tuồng Vụ Án Mã Ngưu, vai Dung trong tuồng Đồng Tiền Đẩm Máu,...

Năm 1989, sau khi được ông bầu Hề Sa của đoàn hát Hoa Hồng mời về biểu diễn các vai chánh qua các vở tuồng 17 Năm Trường Hận, Kiếm Sĩ Dơi; với giọng ca dài hơi, ngọt ngào và điêu luyện Cẩm Tiên đã thu hút một lượng lớn khán giả. Sau đó, cô được các ông bà bầu các gánh hát tranh nhau mời Cẩm Tiên về cộng tác với mức lương càng ngày càng cao.

Năm 1990, Cẩm Tiên về đoàn Sông Hậu, hát các vở tuồng Công Chúa Tóc Vàng, Đường Gươm Nguyên Bá, Lan Và Điệp.

Năm 1995, Cẩm Tiên đoạt huy chương vàng giải Trần Hữu Trang sau đó đến năm 2005, cô giành huy chương vàng hội diễn sân khấu cải lương toàn quốc.

Từ năm 1992. Cẩm Tiên có thêm một nghề tay trái là Phó Giám Đốc Công ty xử lý môi trường, trực tiếp ký những hợp đồng xử lý nguồn nước dùng bị nhiểm phèn tại các vùng sâu, vùng xa của tỉnh Cà Mau đồng thời cô vẫn tiếp tục đi diễn.

Cô kết hôn với một doanh nhân người Việt Kiều, hiện nay cô đang sống cùng chồng và hai con tại Mỹ.

Cẩm Tiên vẫn tham gia hát cải lương mỗi khi Cộng đồng người Việt tại tiểu bang của cô tổ chức. Khi có dịp về Việt Nam, cô tham gia các xuất hát gây qủy từ thiện giúp nạn nhân thiên tai, bão lụt.


Ngọc Huyền

Ngọc Huyền - Vũ Hà Ngọc Huyền (1970-20 .. )

Nghệ sĩ Ngọc Huyền tên thật là Vũ Hà Ngọc Huyền sinh ngày 28 tháng 6 năm 1970 tại Sàigòn. Song thân cô là người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954. Thân phụ cô là kiến trúc sư gc Hà Nội, và thân mẫu cô theo nghề buôn bán nguyên quán ở Hà Tây.
Ngọc Huyền chính thức bước vào nghề rất sớm, cô bước lên sân khấu từ khi 14 tuổi trong vở Tấm Cám. Do ảnh hưởng từ bố mẹ và người bác gái đều là những người yêu thích bộ môn cải lương. Những vở tuồn cải lương được nghe trong gia đình đã sớm thm vào đầu ốc non nớt của Ngọc Huyền để cô đã sớm cất tiếng hát theo những nghệ sĩ nỗi tiếng.
Năm 1985, Ngọc Huyền hát trên sân khấu Thanh Nga vở tuồng đầu tiên là Những đêm trăn trở.
Từ 1985 đến năm 1989, Ngọc Huyền được học cách hát tuồng Tàu qua các vở tuồng kinh điển. Sau khi gia nhập đoàn cải lương tuồng cổ Huỳnh Long, cô được các nghệ sĩ đào tạo hát Hồ Quảng, rồi tiếp tục được các nghệ sĩ có tiếng khác trong lĩnh vực trình diễn sân khấu đào tạo. Cô diễn thành công nhiều loại tuồng, từ tuồng cổ, Hồ Quảng đến các vở ca kịch xã hội hiện đại.
Năm 1992, từ lĩnh vực cải lương, cô tham gia sang lĩnh vực ca nhạc, điện ảnh.
Ngọc Huyền từng là diễn viên xuất hiện nhiều nhất trong các chương trình băng đĩa trong nước và được khán giả ái mộ gọi cô là "Nữ hoàng chi bảo vidéo", là nghệ sĩ trẻ nhất miền Nam trong lĩnh vực cải lương được trao tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú vào năm 2001. Tháng 12 năm 2002, cô còn tổ chức liveshow Mãi mãi ước mơ tại Nhà hát Hoà Bình ở Tp. HCM trong 3 đêm liền, thu hút hơn 5.000 khán giả tham dự. Giáo sư Trần Văn Khê nhận xét:
Qua chương trình này, cải lương đã bứt phá ra ngoài những khuôn mẫu cũ để tiếp cận với giới trẻ bằng hơi thở, nhịp sống của thời đại nhưng vẫn giữ được chất mộc mạc, truyền cảm, trữ tình của sân khấu truyền thống.
Sau một thời gian bay show qua Mỹ bằng con đường du lịch và ngụ tại nhà ca sĩ Thanh Tuyền. Năm 2002, Ngọc Huyền quyết định tiến tới hôn nhân với Don Nguyễn - con trai Thanh Tuyền, một sĩ quan Không quân trong quân lực Hoa Kỳ. Sau khi kết hôn, Ngọc Huyền sang Mỹ định cư. Sau đó cô chuyển sang lĩnh vực ca tân nhạc, tân cổ giao duyên và phát hành DVD những trích đoạn Hồ Quảng Tứ đại Mỹ Nhân, giành được sự yêu mến của khán thính giả hải ngoại.
Tháng 8 năm 2010, Ngọc Huyền tổ chức liveshow tại Dallas, mang tên Giữ Mãi Tình Yêu kỷ niệm 25 năm ca hát, với hai suất diễn trong cùng một ngày, do Trung tâm Asia thu hình và phát hành thành DVD.
Tại Dallas, Ngọc Huyền cũng đào tạo một số người hâm mộ cải lương để trở thành những nghệ sĩ cải lương, ngõ hầu giữ được mạch sống cải lương nơi hải ngoại.


Thanh Ngân
Thanh Ngân - Nguyễn Thị Ngà (1972-20 .. )

Nghệ sĩ Thanh Ngân tên thật là Nguyễn Thị Ngà, sanh ngày 24 tháng 12 năm 1972, tại tỉnh Tiền Giang. Cô là con gái út của nghệ sĩ Hoài Châu – Kim Hoa, thuộc về thế hệ thứ tư trong đại gia đình nghệ sĩ tài danh có 4 đời theo nghề hát từ thập niên 1930 đến nay. Ông Hai Nuôi, bầu gánh hát Tân Hí Ban, thuộc trường phái kiếm hiệp Mộng Vân, ông Hai Nuôi là ông cố của nữ nghệ sĩ Thanh Hằng và Thanh Ngân. Các diễn viên Hề Tỵ, Ba Tẹt là ông cậu, nữ diễn viên tiền phong Tư Hélène là bà ngoại, kép chánh Hai Long là ông ngoại của Thanh Ngân. Gia đình của Thanh Ngân có bốn người con gái tài sắc đều là diễn viên sân khấu: Thanh Hằng, Ngân Huỳnh, Thanh Ngọc, Thanh Ngân.
Ngay từ khi lên 3 tuổi, dù ngọng líu, ngọng lô nhưng cô bé đã bập bẹ bắt chước bà và mẹ trong những lúc mọi người tập tuồng. Thông minh, lanh lợi, nên bé Ngân học lóm rất nhanh. Có một dịp, Ngân được theo bà ngoại sang nhà nghệ sĩ Phùng Há chơi, khi nghe bà kêu biểu diễn thử, bé đã không ngần ngại, mạnh dạn chạy ra giữa nhà vừa ca cải lương vừa làm những điệu bộ minh họa, mọi người khi đó không ai nhịn được cười và ai cũng thầm nghĩ rằng sau này Ngân sẽ là một nghệ sĩ cải lương có tài.
Lớn lên trong niềm đam mê sân khấu, ước mình sẽ trở thành một nghệ sĩ tài danh được nhiều người yêu mến, nhưng bên cạnh niềm đam mê lớn lao đó, Thanh Ngân còn ấp ủ cho mình một ước mơ khác: sẽ trở thành một Luật sư giỏi, đem công bằng đến cho mọi người, cho xã hội. Chính vì thế mà Thanh Ngân rất chăm học và năm nào cô cũng đạt danh hiệu học sinh khá, giỏi của lớp.
Từ lúc còn ấu thơ, Thanh Ngân đã theo cha mẹ là cập nghệ sĩ Hoài Châu và Kim Hoa, lưu diễn qua các đoàn hát Tiền Giang, đoàn Hậu Giang, đoàn Cà Mau, đoàn sông Hương (Huế), đoàn Sàigon 1, đoàn Trần Hữu Trang, đoàn Minh Tơ, đoàn Huỳnh Long.
Thanh Ngân lớn dần theo dấu chân lăn lộn của cô qua các gánh hát từ miền Tây, miền Ðông tới các tỉnh miền Trung, miền Bắc, cho tới khi Thanh Ngân được về nhà hát Trần Hữu Trang thì Thanh Ngân đã là một nghệ sĩ khá vững tay nghề, giọng ca điêu luyện, ngọt ngào và lối diễn xuất đã đạt được những chuẩn mực trong nghề hát.
Thanh Ngân bắt đầu đến với sân khấu cải lương khi cô vừa tròn 18 tuổi. Theo các đoàn hát như Hương Tràm, Hương Bưởi, Minh Tơ... đi diễn khắp các tỉnh, khó khăn, vất vả trăm bề đối với một cô gái nhỏ nhắn, yếu ớt như Ngân. Nhưng cũng chính từ đó Thanh Ngân mới thấy rằng cô không thể dứt "cái nghiệp" này ra được và thấy mình cần phải phấn đấu hơn nữa để khẳng định tài năng của mình. Có những lúc quá khó khăn, cô cảm thấy bi quan, chán nản nhưng rồi ý chí sắt đá đã giúp Thanh Ngân vượt qua tất cả để có ngày hôm nay.
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân thuộc về loại đào đẹp, thật khó mà cầm lòng trước nét tươi tắn duyên dáng kỳ lạ trong nụ cười của Thanh Ngân. Thanh Ngân được khán giả cho là hậu duệ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga. Thanh Ngân có một mái tóc dài đen tuyền như mái tóc của Thanh Nga ngày xưa, nét mặt xinh đẹp một cách thanh tú, nước da trắng hồng, đôi mắt long lanh gợi cảm, miệng cười có đôi má núng đồng tiền, Thanh Ngân toát lên được vẻ nữ tính diụ dàng khả ái trong dáng đi, điệu đứng, từ trong giọng nói tiếng cười, cô gái tuyệt sắc Thanh Ngân thành công dễ dàng khi cô xuất hiện lần đầu trên sân khấu.
Nữ nghệ sĩ Thanh Ngân là đào đẹp, được khán giả cho là hậu duệ của cố nữ nghệ sĩ Thanh Nga khi cô xuất hiện lần đầu trên sân khấu trong các tuồng dã sử, tuồng Tàu, với y phục cổ trang như Thái Hậu Dương Vân Nga, Bên cầu dệt lụa, Tiếng trống Mê Linh…

Cô có được diễm phúc ít nữ diễn viên nào đạt được là luôn tìm được bạn diễn nam phù hợp từng vai tuồng, đặc biệt cặp diễn viên Kim Tiểu Long và Thanh Ngân là cặp diễn viên được khán giả và báo chí kịch đánh giá là cặp đôi Kim đồng, Ngọc nữ trên sân khấu.
Những vở cải lương Thanh Ngân đã tham gia trình diễn: Nhụy Kiều tướng quân, Tiếng trống Mê Linh, Thái Hậu Dương Vân Nga, Bên cầu dệt lụa.
Thanh Ngân hôm nay là ngôi sao sáng trên vườn trời cổ nhạc. Nhưng Thanh Ngân lúc nào cũng ví mình như vì sao nhỏ trong muôn ngàn vì sao khác. Thanh Ngân luôn luôn cố gắng trao dồi và học hỏi thêm nghệ thuật cải lương; với niềm hy vọng góp một phần nào đó để có thể bảo tồn nền văn hóa nghệ thuật dân tộc cho những thế hệ sau.



Kim Tiểu Long
Kim Tiểu Long - Trương Hoàng Kép (1975-20 .. )

Nghệ sĩ Kim Tiểu Long sanh ngày 01 tháng 5 năm 1975, tại quận Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long. Anh là con trai út trong gia đình có 7 anh chị em. Cha của anh là một nông dân, thích đàn ca tài tử nên thường vắng nhà. Khi mẹ anh sanh người con gái thứ năm, vì cha anh vắng nhà, mẹ giận đặt tên con là con đào, ngụ ý trách là ông mê ca hát, mê đào kép mà vắng nhà luôn. Vì vậy khi mẹ anh sanh ra anh, mẹ đặt luôn tên là Kép và đứa con gái sau rốt, đặt tên là Đào Em.
Cái tên Trương Hoàng Kép phải chăng là định mệnh đã an bài? Anh Kép học ở trường làng nhưng anh thừa hưởng tính văn nghệ di truyền của cha nên học chữ thì không xuất sắc, nhưng các bài ca cải lương trong radio phát thanh thì anh Kép lại thuộc nằm lòng…
Bước ngoặt tình cờ đã thay đổi cuộc đời của Trương Hoàng Kép, anh theo cha ra miền Trung thăm một người anh ruột là Châu Tuấn, đang là diễn viên của đoàn cải lương La Ngà. đêm nào anh Kép cũng ngồi bên cánh gà, xem anh mình diễn nên Kép thích thú. Khi cha về, bỏ Kép ở lại với anh Châu Tuấn để học nghề hát. Kép được anh Châu Tuấn dạy ca, dạy diễn và thỉnh thoảng được cho ra làm quân sĩ trên sân khấu, chỉ là la ó rồi chạy qua chạy lại, đánh kiếm lăng nhăng vậy thôi.
Nhưng ngày đầu tiên ra làm quân sĩ thì Kép cũng run, cũng hồi hộp như sắp đóng một vai tuồng nào lớn vậy. Kép cũng không nề hà cực khổ, sẳn lòng giúp việc khuân vác dàn cảnh nên được ông bầu và các diễn viên trong đoàn hát La Ngà ưa thích. Nhân có vai chú tiểu trong tuồng Lan và Điệp bịnh, Kép được ra hát thế vai đó và được đặt cho nghệ danh là Châu Kiệt.
Sau đoàn hát La Ngà, Châu Kiệt đi theo đoàn Tiếng hát Vương Linh ở miền Trung, rồi về thành phố, Châu Kiệt đổi tên là Tiểu Long, đi ca ở các quán nghệ sĩ một thời gian. Ở đây Tiểu Long gặp thần tượng của anh là Kim Tử Long, Tiểu Long xin theo làm "em nuôi", được KimTử Long đặt nghệ danh lại cho là Kim Tiểu Long.
Kim Tiểu Long vụt sáng khi anh đóng tuồng có Thanh Ngân bên cạnh. Lúc vào tuồng Gió bấc lạnh lùng, Kim Tiểu Long và Thanh Ngân trong vai hai anh em, người xem vidéo cứ tiếc mãi. Sao lại hai anh em mà không phải là hai người tình? Xứng đào xứng kép quá, hình ảnh của cặp diễn viên tài danh Năm Châu Phùng Há trong tuồng Vợ và Tình, hình ảnh Thành được - Thanh Nga trong tuồng Bọt Biển, tuồng Chuyện Tình 17, là những hình ảnh đẹp đôi của hai diễn viên thinh sắc lưởng toàn của sân khấu cải lương mấy chục năm trước,
Sau đó Kim Tiểu Long và Thanh Ngân xuất hiện trong những cặp tình yêu lý tưởng. Dù Kim Tiểu Long thủ diễn vai một người thanh niên sang trọng hay trong vai kẻ tù đày trong tuồng Mùa Thu trong mắt mẹ, Kim Tiểu Long vẫn nỗi bật một cách nồng nàn đầy nam tính nhưng lời ca tiếng hát thì lại nghe êm êm như mơn trớn như vuốt ve. Kim Tiểu Long có một mái tóc bồng bềnh vừa ngổ ngáo vừa ngây thơ, nhất là đôi lông mày dài gần chạm đến mái tóc mai khiến cho Kim Tiểu Long đẹp một cách mạnh mẽ và sang trọng, anh hát chung với Thanh Ngân, khán giả đã phải trầm trồ và không ngớt lời khen là cả hai Kim Tiểu Long và Thanh Ngân là một đôi tiên đồng ngọc nữ vừa xuất hiện trên vòm trời nghệ thuật.
Người ta nhắc mãi hai diễn viên Năm Phỉ - Bảy Nhiêu, Năm Châu - Phùng Há, Thành được - Thanh Nga, Hùng Cường - Bạch Tuyết, Minh Vương - Lệ Thủy, Vũ Linh - Tài Linh là những đôi uyên ương gắn bó với nhau hơn 30 năm trời trên sân khấu, đó là sự hòa điệu tuyệt vời trong chất giọng, điệu hát và sắc đẹp nam thanh nữ tú, người quốc sắc kẻ thiên tài.
Thế nên khi Kim Tiểu Long và Thanh Ngân xuất hiện, sân khấu cải lương xôn xao, mừng vui và phấn khởi. Mọi người hy vọng Kim Tiểu Long và Thanh Ngân, hiện thân của cái đẹp cổ điển, của mày ngài mắt phụng, của vóc dáng cao ráo sang trọng, sẽ là những hình ảnh thinh sắc lưởng toàn, có sức hút mãnh liệt làm cho sân khấu cải lương tìm lại được những ngày huy hoàng cũ, đó là những ngày xưa, mà khán giả đã chen chúc nhau mua vé hát xem các vở tuồng có Thanh Nga và Thành Được, hoặc Hùng Cường và Bạch Tuyết, Minh Vương và Lệ Thủy hay Vũ Linh và Tài Linh….
Người ta có đặt câu hỏi với Kim Tiểu Long về Thanh Ngân. Kim Tiểu Long đã trả lời: Lúc nào tôi cũng thương, cũng quý Thanh Ngân hết. Cô ấy từng là người tình trên sân khấu và người vợ trong cuộc đời. Đó là quá khứ đẹp mà tôi luôn trân quý. Dẫu duyên vợ chồng có ngắn ngủi thì tôi cũng không quên thời hoa mộng ấy.”
Sau nầy Kim Tiểu Long kết hôn với Bảo Bảo, gia đình anh hạnh phúc với cậu con trai trên đất nước Hoa Kỳ. Năm 2016, trong cuộc phỏng vấn, Kim Tiểu Long đã trải lòng: Đúng là tôi hạnh phúc vì có một mái ấm gia đình tại Mỹ, nơi có đứa con trai tên Trương Bảo Phước rất dễ thương. Cháu lớn lên từng ngày, kháu khỉnh và ngoan hiền. Nhưng rất buồn vì gần 10 năm qua tôi chưa gặp lại con trai chung với người vợ cũ của mình tên Tiểu Long Nhi. Do hận chồng, mẹ của cháu đã tách tôi khỏi con mình. Nhưng tôi tin rằng lá rụng sẽ về cội, rồi con tôi lớn khôn sẽ biết cha của nó là ai và tìm về.


Tú Sương
Tú Sương - Lê Tú Sương (1977-20 .. )

Tú Sương tên thật là Lê Tú Sương, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1977, là con gái thứ 3 của đôi vợ chồng nghệ sĩ tuồng cổ Trường Sơn - Thanh Loan. Chị cả Ngọc Trinh và em gái Lê Thanh Thảo của cô cũng đều theo nghề hát. 3 chị em cô là hậu duệ 5 đời của nghệ nhân hát bội Vĩnh - Xuân, cháu cố của nghệ sĩ tài danh Bầu Thắng, cháu ngoại của nghệ sĩ bậc thầy Minh Tơ - Bảy Sự, cháu nội của nghệ nhân đánh trống Bảy Đực.
Do sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời theo nghiệp nghệ sĩ, sinh hoạt trong môi trường diễn xuất, từ năm 4 tuổi, cô bắt đầu học thuộc từng câu thoại của cha mẹ trong các trích đoạn cải lương. Cô thường xuyên cùng bạn hữu trong xóm trốn ra đình rồi bắt chước người lớn diễn tuồng. Nhờ đó, cô được các nghệ sĩ trong đoàn phát hiện tài năng và cho tham gia đi theo đoàn hát lưu diễn.
Năm 1990, cô tham gia nhóm Đồng ấu Bạch Long do nghệ sĩ Bạch Long tổ chức và nhanh chóng được giao hát các vai chính trong các vở tuồng của sân khấu thiếu nhi này như: Chú ngựa bạch và Củ cải khổng lồ, Cóc kiện trời... Năm 1992, nghệ sĩ trẻ Vũ Luân tham gia nhóm Đồng ấu Bạch Long và trở thành bạn diễn ăn ý nhất với cô cho đến tận ngày nay.
Năm 1994, sau khi nhóm Đồng ấu Bạch Long giải thể, cô được Đoàn tuồng cổ Minh Tơ mời về hát chính trong một số vở như Oan oan tình,..., khi vừa tròn 17 tuổi, diễn xuất chung với các nghệ sĩ tiền bối như Ánh Tuyết, Hoàng Tuấn...
Năm 1995, cô đoạt Huy chương vàng giải Triển vọng của Giải thưởng Trần Hữu Trang cùng với Cẩm Tiên, Phượng Ngân, Trinh Trinh.
Những năm sau này, cô hoạt động liên tục trên sân khấu Nhà hát Trần Hữu Trang, xuất hiện trong các vở Đêm phán xét, Ra Giêng anh cưới em…… cũng như thu video nhiều tuồng cải lương…….
Hiện nay, Tú Sương đang là đào chánh của Đoàn Thắp sáng Niềm tin – trực thuộc Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang. Cô đã hát qua các vở: Hoa Vương Tình Mộng, Phước Lộc Thọ, Máu nhuộm sân chùa, Đứa con họ Triệu... Đặc biệt với vai Trần Thị Dung trong vở cải lương lịch sử Dấu Ấn Giao Thời, Tú Sương đã đoạt Huy chương vàng tại Hội diễn Sân khấu Cải lương Chuyên nghiệp Toàn quốc năm 2009.
Song song đó, cô còn cộng tác với Nhóm xã hội hóa của nghệ sĩ Vũ Luân và hát chánh với Vũ Luân trong các vở Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Võ Tắc Thiên và Thái Bình công chúa,
Các vai diễn nổi bật của Tú Sương là vai Chúc Anh Đài trong v tu ồng Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài, diễn chung với Vũ Luân.
Các danh hiệu, giải thưởng Tú Sương đã đạt được:
- Nghệ sĩ Ưu tú năm 2015
- Huy chương vàng Triển vọng Giải thưởng Trần Hữu Trang năm 1995.
- Giải Diễn viên Tài sắc, do báo Sân khấu Thành phố tổ chức, năm 2004
- Giải Mai Vàng, do báo Người Lao động tổ chức, năm 2004
- Giải Tài năng Trẻ toàn quốc, do Cục Nghệ thuật Biểu diễn tổ chức, năm 2007.
- Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu Cải lương Chuyên nghiệp toàn quốc năm 2009.
Nghệ sĩ Tú Sương kết hôn và làm mẹ khi mới 23 tuổi, nhưng cũng trở thành người mẹ đơn thân khi còn rất trẻ. Chị có hai người con gái là Hồng Quyên sinh năm 1999 và Tú Quyên sinh năm 2002.
Lê Thanh Quang một Việt kiều Mỹ và Tú Sương đã từng có mối tình đẹp, nhưng sau đó, anh theo gia đình sang Mỹ định cư, hai anh chị mt liên lạc. Sau đó nghe tin Tú Sương có chồng thì Lê Thanh Quang buồn khổ, bị tai nạn ô tô. Sau đó, gia đình khuyên nhủ nên anh quên mối tình cũ và lập gia đình. Nhưng cả hai đều không hạnh phúc trong hôn nhân, đầu năm 2013 họ tái hợp và kết hôn với nhau.



Bình Tinh

Bình Tinh - Huỳnh Ngọc Trinh (1981-20 .. )

Nghệ sĩ Bình Tinh tên thật là Huỳnh Ngọc Trinh, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1981, là con gái của nghệ sĩ Đức Lợi và Bạch Mai, trong đoàn cải lương tuồng cổ Huỳnh Long, là cháu ngoại của Bầu Bảy Huỳnh - Ngọc Hương.

Bình Tinh được đứng trên sân khấu khi chị mới 4 tuổi, vai diễn đầu tiên của chị đó là "vai gà con", gà con ra sân khấu chẳng nói một lời nào, chỉ quay mấy vòng rồi lăn ra chết. Khi lớn hơn một chút, chị cùng Linh Tý tham gia vở diễn "Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài", cả hai đã quậy tung sàn diễn làm khán giả cười nghiêng ngả.

Tuy cha mẹ đều là người theo nghề nhưng không ai dạy Bình Tinh cách diễn vì họ không muốn chị bị ảnh hưởng bởi nét diễn của họ. Bình Tinh học được nhiều từ thầy Bạch Long, thầy chỉ dạy nhiệt tình, uốn nắn, bảo ban Bình Tinh trong từng động tác vũ đạo, bước đi hay trong từng cái liếc mắt trên sân khấu.

Với các vai kép Bàng Đức trong Quan Công đại chiến Bàng Đức,Triệu Lân trong Long Lân Quy Phụng, hay quận chúa Phi Loan trong Sở Vân cưới vợ, Bình Tinh đã chứng minh cho khán giả thấy chị có một lối diễn sâu và đa dạng. Bình Tinh cũng tỏa sáng với nhiều vai đào có tính cách khác biệt nhau trong các vở diễn như: Mộc Quế Anh, Ngũ Tiểu Thanh, Võ Tắc Thiên, Đào Tam Xuân, Phi Giao, Thái Bình công chúa...

Nhưng khi cô lớn lên, cải lương bắt đầu suy thoái nên không còn cơ hội tỏa sáng. Sau này ba mất, lại thêm anh trai qua đời, mẹ vào chùa lánh nạn nên một mình Bình Tinh gồng gánh đoàn cải lương Huỳnh Long để các bậc cha chú có miếng cơm ở tuổi xế chiều.

Trong một lần diễn ở đình Thắng Tam - Vũng Tàu, Bình Tinh được diễn chung cùng cha - Nghệ sĩ Đức Lợi trong vở diễn Na Tra . Sau đó vài tháng, nghệ sĩ Đức Lợi qua đời trong một tai nạn sau đêm diễn ở rạp Hưng Đạo. Trước khi bị tai nạn, Đức Lợi đã gọi Bình Tinh ra và đưa một phần tiền ông thu được từ chương trình giúp đỡ các ngh
ệ sĩ có hoàn cảnh khó khăn của Ban Ái hữu Hội Sân khấu. Cũng chính vì thế, chị luôn cảm thấy day dứt vì sự ra đi của cha mình.

Bình Tinh đã kết hôn, chồng Bình Tinh là ca sĩ Nhật Minh. Vợ chồng cô đã gắn bó với nhau hơn 10 năm và sinh được một bé gái đầu lòng tên thương gọi là Bella.
Sau khi đăng quang cuộc thi Sao nối ngôi, con gái nuôi Kim Tử Long bắt đầu được biết đến nhiều hơn. Suốt gần 30 năm gắn bó với bộ môn nghệ thuật cải lương, cầm trên tay cúp chiến thắng đầu tiên, nghệ sĩ Bạch Mai đã khóc thay cho con gái.
Trong cuộc trò chuyện với báo, Bình Tinh nhiều lần rơi nước mắt. Cô khóc khi gợi nhớ những ký ức đau buồn của gia đình, cô khóc vì bắt đầu được mọi người yêu mến và bầu show gọi điện nhiều hơn.
Bình Tinh tâm sự: – Tôi biết con đường mình đi chông gai nhưng cải lương đã thấm vào máu thịt, dù sau này có ra sao, cải lương mãi mãi trường tồn trong tôi. Ngày bé, lúc theo bố mẹ lên sân khấu, tôi cũng biết nghề này gian truân lắm. Nhưng không hát cải lương không được. Hiện tại, tôi là hậu duệ duy nhất của tuồng cổ Huỳnh Long, nếu tôi bỏ đôi gánh khỏi vai mình, bao nhiêu người sẽ chơ vơ, không nơi nương tựa.
Gần 30 năm theo nghề, tôi chưa bao giờ được có cơ hội xuất hiện trên truyền hình. Có lẽ mình gánh vác nhiều thứ quá, người ta cũng quên mình. Nên giải thưởng này có giá trị rất lớn với tôi. Sau một thời gian dài sống với nghề, tôi cũng được cầm trên tay giải quán quân. Đây cũng là cơ hội để tôi xuất hiện trong các chương trình cải lương. Tôi kiếm được miếng cơm mới nuôi được cả gánh hát.


  
 Để tri ân tổ nghiệp, gia đình cải lương mấy đời và cha nuôi là nghệ sĩ Kim Tử Long đã nâng đỡ mình, trong đêm thi cuối cùng của Sao nối ngôi, Bình Tinh mời Kim Tử Long và gần hết những nghệ sĩ lão thành đoàn Huỳnh Long của gia đình mình lên sân khấu trong tiết mục của mình như một sự cảm tạ sâu sắc.


Tài liệu tham khảo:
- Cải Lương Việt Nam: Kiều Phượng Loan Sau 22 Năm Trở Lại Web: music.quehuong.org
- Nguyễn Phương. Thanh Bạch, nghệ sĩ Hồ Quảng. Web: RFA
- Nguyễn Phương. Nghệ sĩ Đức Minh, người đưa đò thành kép chánh đại ban. Web: RFA
- Nguyễn Huy. Rơi nước mắt với tuổi già bất hạnh của "Trùm Sò" Giang Châu Web: baomoi.com
- Nguyễn Phương. Nữ nghệ sĩ Hà Mỹ Xuân. Web: RFA
- Nguyễn Phương. Nữ nghệ sĩ Ngọc Đan Thanh. Loài hoa nở muộn. Web: RFA
- Thoại Miêu Web: Wikipedia
- Nguyễn Phương. Nghệ sĩ Tuấn Thanh. Web: RFA
- Hoàng Kim. Vang bóng một thời: Kim Hương - nàng Tiểu Loan "Bên cầu dệt lụa" Web: thanhnien.vn

- Nguyễn Phương. Nữ danh ca Thanh Kim Huệ . Web: RFA
- Hương Lan Web: Wikipedia
- Phư
ợng Mai. Web: hopampro.com
- Nguy
ễn Phương. Nghệ sĩ Hữu Huệ, một tài năng lớn chìm trong quên lãng! Web: RFA
- Tiểu sử nghệ sĩ Tài Linh. Web: yeucailuong.com
- Băng Huyền. Nghệ sĩ Bình Trang và giọng ca luyến láy trữ tình. Web: cailuongvietnam.com
- Ngành Ma
i. Nữ nghệ sĩ Hương Chung Thủy con nhà nòi. Web: nguoi-viet.com
-
Vũ Linh (nghệ sĩ cải lương). Web: Wikipedia
- Thanh H
ằng. Nghệ sĩ Thanh Hằng: Lấy chồng năm 16 tuổi, bị đánh đến mức muốn tự tử. Web: baomoi.com
- Nguyễn Phương. Nữ nghệ sĩ Linh Huệ, Một giọng ca tuyệt vời sớm bị lãng quên! Web: RFA
- Nguyễn Phương. Nữ nghệ sĩ Phương Hồng Thủy. Web: RFA
- Cẩm Thu. Web: nguoinoitieng.tv
- Nguyễn Phương. Tuấn Châu, nghệ sĩ Hồ Quảng đa tài ở Hải ngoại. Web: RFA
- Thanh Thanh Tâm.
Web: Wikipedia
- Kim T
ử Long Web: Wikipedia
- Đăng Minh. Nghệ sĩ Thanh Thủy: mê đàn tranh từ thời còn con nít. Web: tranquanghai1944.com

- Thoại Mỹ
Web: Wikipedia
- Nguyễn Phương Web:
Nghệ sĩ Chinh Nhân, giữ mãi cội nguồn. Web: RFA
- Nghệ sĩ cải lương Cẩm Tiên. Web: nguoinoitieng.tv
- Tiểu sử nghệ sĩ Ngọc Huyền. Web: yeucailuong.com
- Thanh Ngân. Web: Wikipedia
- Nguy
ễn Phương. Kim Tiểu Long, Con rồng nhỏ trên bầu trời nghệ thuật. Web: RFA
- Tú Sương Web: Wikipedia
- Tiểu sử nghệ sĩ cải lương Bình Tinh
Web: timhieu.net