Pages

Monday, September 22, 2014

Chương Kết - Báo chí và Nhà văn quốc ngữ thời sơ khởi



Trước 1975, phải công nhận văn học miền Nam bị coi thường, bởi vì so với lịch sử dân tộc thì lịch sử miền Nam chỉ mới vài trăm năm, trong khi lịch sử Việt Nam có đến hàng ngàn năm, trong đó mảng văn học Việt Nam có đến cả ngàn năm, nào những Lĩnh Nam Chích Quái, Truyền Kỳ Mạn Lục, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung Oán ngâm khúc…., trong khi miền Nam chỉ có Lục Vân Tiên.

Văn chương là gì ? Hiểu theo ngữ nguyên Văn là vẻ đẹp. Chương là vẻ sáng. Văn chương có nghĩa là vẻ đẹp đẽ sáng sủa của một sáng tác, nhưng những nhà văn sơ khởi ở miền Nam, họ không chủ trương sáng tác những bản văn với lời lẽ bóng bẩy, giọng văn êm dịu. Họ cho biết nghĩ ra làm sao, nói như thế nào thì viết như thế ấy.

Trong nhựt trình Nam kỳ số 1, ngày 11-10-1897, trong bài Lời cùng các người coi nhựt trình ta viết như sau:

Về việc chữ nghĩa thì dùng những tiếng tầm thường, không dùng những tiếng cao kỳ, dân sự ít hiểu. Chúng ta có ý nói về đều này, là vì nhựt trình Nam Kỳ thì là để mà rao báo những chuyện có ích cho mọi người đều hiểu, không phải là chuyện cao xa đễ cho một ít người thông minh hiểu biết mà thôi. Những người Annam hay chữ nghĩa đã thông hiểu ý tứ chúng ta, thì biết việc rõ ràng, chẳng câu chấp sự chúng ta dùng những tiếng tầm thường, vì các người ấy đã biết là việc làm ích chung cho mỗi một người ...

Cho nên những nhà văn miền Nam khởi từ Nguyễn Trọng Quản cho đến Trần Chánh Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh … văn của họ không đẽo gọt, không quá mượt mà.

Trong hồi ký của nhà văn Bình Nguyên Lộc viết về bà Bút Trà, ông thực lòng khen ngợi khi bà lập tờ báo, chỉ nhằm mục đích chưởi lại những tờ báo đã chưởi bà cho vay nặng lãi, nhưng khi bà ra được tờ Sàigòn Họa Báo, sau đổi tên là Sàigòn Mới , bà không hề chưởi lại họ một chữ nào. Ông đề nghị sẽ cộng tác viết tiểu thuyết cho tờ Sàigòn Mới nhưng bà Bút Trà thẳng thừng từ chối đề nghị của nhà văn Bình Nguyên Lộc với lý do: Tôi chỉ đăng bài mà chị bán cá có đọc cũng hiểu.  Cậu viết khó hiểu, người bình dân không đọc đâu.”.

Có một nhà văn cho biết vào năm 1954, ông ta di cư vào Nam, thấy một người phu xích lô, buổi trưa ghế xe nơi vệ đường có bóng mát, ngồi vào xe, lật tờ báo ra đọc, ông ta hết sức lấy làm lạ, nhưng chắc ông ta còn quên kể thêm, chị bán xôi ở góc ngã tư đường, khi vắng khách kéo tờ báo ở dưới gánh xôi ra đọc.

Đó chỉ là khía cạnh của văn hóa miền Nam, nhờ đó tiểu thuyết feuilleton phát triễn mạnh vào những năm 1930-1970, nhưng chính vì tiểu thuyết feuilleton đã làm cho các nhà phê bình văn học trước kia không để ý đến, có thể họ đã đánh giá chúng không phải là tác phẩm văn chương, mà văn chương vị nghệ thuật hay vị nhân sinh ?

Cho đến nghìn sau dù cho người ta quên hết tất cả những tờ báo ở miền Nam, ở Việt Nam, nhưng không thể nào quên được Gia Định Báo, người ta có thể quên hết các nhà văn Việt Nam nhưng không thể nào quên được Trương Vĩnh Ký nhà văn Miền Nam, nhà văn quốc ngữ tiền phong, và con rể ông cũng là học trò của ông, nhà văn Nguyễn Trọng Quản người viết tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam.

Mặc dù nhóm Trí Đức Học Xá của Đông Hồ có luyện văn, tuần báo Sống của họ như một thử nghiệm, gặp lúc kinh tế khó khăn hay không được nhiều người ủng hộ, nên chưa đầy năm thì Sống đã chết.

Cho đến nay, văn học miền Nam vẫn còn là mảnh đất trù phú cho những nhà nghiên cứu, những người viết luận án tốt nghiệp sau Đại học, nó cần được khai phá nhiều hơn, để người ta thấy được cái tinh hoa của văn học miền Nam, từ xây dựng nền văn học mới, cho tới kiên cường đấu tranh chống thực dân, hầu mang lại độc lập cho đất nước, ấm no hạnh phúc cho mọi người.
Louisville, 22-9-2014

Tựa - Báo chí và Nhà văn quốc ngữ thời sơ khởi



Trước năm 1974, tôi đã soạn bộ Văn Học Miền Nam, gồm có 2 tập. Tập I, viết về bối cảnh lịch sử miền Nam, những nhà văn tiên phong trên miền đất mới nầy, trong đó có Phan Thanh Giản, Phan Văn Trị, Thủ khoa Huân, Huỳnh Mẫn Đạt, Tôn Thọ Tường…, đưa cho ông Nguyễn Hùng Trương, Giám đốc nhà sách Khai Trí xem, ông cho ý kiến chờ hoàn tất sẽ tính. Sau đó, đất nước trải qua biến cố lớn, tôi chịu chung số phận với mọi người trên phần đất miền Nam. Đến năm 1980 tôi mới soạn tập II, về chữ quốc ngữ và những nhà văn sau nầy.

Khoảng năm 2000, tôi gõ vi tính đưa lên trang mạng do tôi chủ trương từng chương, nhờ đó toàn bộ tập sách được hoàn thành.

Năm 2009, tôi nghỉ hưu, có thì giờ sửa chữa lại, có người bạn ở Việt Nam giúp, tôi đã in vài chục bản để cho người thân và biếu bạn bè. Sau đó, tôi tiến hành in sách tại Mỹ.

Gần đây, đọc lại thấy nhiều nhà văn, chi tiết còn đơn sơ, cần được bổ túc cho đầy đủ hơn vì những tài liệu về tác giả, về hình ảnh trên mạng ngày càng phong phú.

Tôi nghĩ thay vì bổ túc thêm bài viết, hình ảnh cho tập Văn Học Miền Nam, tốt hơn là nên viết một tập sách khác, làm như thế nội dung sẽ được đồng nhất, và tôi đã tiến hành viết tập sách này.

Mục đích tập sách này là để nói đến những tờ báo, tạp chí và những nhà văn đã đóng góp nhiều cho nên văn học quốc ngữ, tên tuổi của báo chí, của nhà văn thường được người ta nhắc tới khi nói đến Văn học miền Nam, thậm chí Văn học của cả nước Việt Nam ta, cho nên cần được đề cập tới.

Có một ít tác giả đã được trình bày trong tập Văn Học Miền Nam, nay được trình bày lại, đương nhiên là có bổ túc chi tiết, hình ảnh, có nhiều tác giả mới được trình bày trong tập sách này như Nguyễn Liên Phong, Lê Quang Chiểu, Đỗ Thanh Phong, Biến Ngũ Nhy, Diệp Văn Kỳ, Nguyễn Háo Vĩnh, Phan Thị Bạch Vân ….

Những tờ báo được trình bày chi tiết và hình ảnh như An Hà Nhựt Báo, Nam Trung Nhựt Báo

Hy vọng tập Báo chí và nhà văn Quốc ngữ thời sơ khởi nầy, sẽ mang lại cho độc giả sự thích thú, hài lòng vì những tài liệu phong phú được trình bày.

Nhân đây xin quý tác giả, quý vị chủ nhơn các trang mạng có tài liệu, hình ảnh được dùng đến, nhận nơi đây lòng biết ơn của chúng tôi.

Trân trọng,
Soạn giả


Tướng cướp, người tù thế kỷ, quốc vương, nhà văn Sơn Vương





Sơn Vương - Trương Văn Thoại (1909-1987)

Trương Văn Thoại sinh năm 1909, tại làng Bình Nghị, tỉnh Gò Công, nay thuộc xã Bình Nghị, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang, là con trai thứ năm của ông Trương Đình Cung Anh, một điền chủ có học, lại thêm nghề bốc thuốc chữa bệnh, và có lòng hào hiệp, thường hay giúp đỡ giới nghèo cùng đinh. Khi vừa học hết chương trình Cours Supérieur lớp 5 hiện nay, thì Trương Văn Thoại chuyển sang luyện võ và học chữ Hán.

Năm 1925, Trương Văn Thoại bỏ làng, theo một lão sư mai danh ẩn tích học võ và học đạo tại các ngọn núi Thị Vải, núi ông Trịnh, núi Mây Tào vùng Long Hải, Bà Rịa.

Năm 1931, khi sư phụ viên tịch, Trương Văn Thoại về Sàigòn. Theo nhà báo Ngọa Longcho biết Trương Văn Thoại đến văn phòng Đông Pháp thời báo tình nguyện ở lại làm việc, bất cứ việc gì dù có lương hay không, miễn là được tham gia với Đông Pháp Thời báo để "thức tỉnh đồng bào". Sau đó, Trương Văn Thoại gặp Nguyễn An Ninh, chủ bút tờ La Cloche Fêlée (Tiếng chuông rè) kiêm thủ lĩnh đảng Thanh niên cao vọng, người mà ông cảm phục từ lâu. Trương Văn Thoại trở thành một cộng sự đắc lực của Nguyễn An Ninh và tờ La Cloche Fêlée. Thời kỳ này Trương Văn Thoại bắt đầu sử dụng bút danh Sơn Vương, chữ Sơn và chữ Vương được chiết tự từ chữ Thoại . Các bài báo của ông mang đầy màu sắc bình dân và nỗi cảm thông sâu sắc tầng lớp nghèo khó.

Trong những năm 1932-1933, Sơn Vương rất nổi danh nhờ những tiểu thuyết đăng tải trên báo.

Theo Sơn Vương tự bạch trong hồi ký Máu hoà nước mắt, khi viết văn, viết sách, ông luôn nhắm vào năm mục tiêu sau:

  1. Cốt truyện lấy đề tài thường xảy ra trong tầng lớp bình dân.
  2. Giải trí và giáo dục, răn đời, làm ác gặp ác, làm lành gặp lành.
  3. Đả phá chính sách thực dân, gợi lòng yêu nước.
  4. Tả chân bình dị, bênh vực kẻ cô thế, bài xích quan liêu, phong kiến.
  5. Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam.
Ngoài ra ông ông còn viết tiểu thuyết võ hiệp kỳ tình, nhưng những tướng cướp nghĩa hiệp cướp của nhà giàu chia cho người nghèo không cưỡi ngựa đánh gươm mà là những công tử hào hoa lái xe hơi như bay, bắn súng lục bằng cả hai tay....

Điều đặc biệt là nguyên mẫu của những tướng cướp nghĩa hiệp ấy lại là chính tác giả. Trong những năm 1931-1933, một mình Sơn Vương gây ra hàng chục vụ cướp mà đối tượng là những phú hộ, địa chủ mang tiếng gian ác ở các vùng Đồng Nai, Sàigòn, Long An.

Giữa năm 1933, Sơn Vương gặp gỡ và kết nghĩa anh em với Nguyễn Phương Thảo, người sau này trở thành trung tướng Nguyễn Bình - Tư lệnh các lực lương quân sự Nam Bộ.

Đầu tháng 7 năm 1933, để giúp vốn cho người anh em kết nghĩa, Sơn Vương tổ chức cướp tiền của René Gaillard, Phó giám đốc Hãng cao su Mimot ở Campuchia - giáp với tỉnh Tây Ninh - đồng thời là Quản trị viên công ty Caffort đường Catinat, Sàigòn. Số tiền cướp được là 50.000 đồng Đông Dương, một số tiền khổng lồ lúc bấy giờ. Vụ cướp bị lộ, Sơn Vương bị bắt vào ngày 16 tháng 8 năm 1933. Sau đó, Sơn Vương bị Toà tiểu hình kết án 5 năm khổ sai, đày ra Côn Đảo, chấm dứt các vụ cướp trong cuộc đời ngang dọc.

Đến Côn đảo, Sơn Vương được những người tù thường phạm nể phục vì ông có học, giỏi tiếng Pháp... Cuối năm 1933, trong một cuộc thi viết chữ đẹp toàn đảo, Sơn Vương đoạt giải nhất nên được giám thị Nguyễn Văn Liễn, thường gọi là Vệ Liễn, rút về làm thư ký giúp việc tại Ty Ngân khố của tỉnh đảo Côn Lôn nay là Côn Sơn, và dạy học cho bé Nguyễn Thị Kim Hoa 9 tuổi, con gái Vệ Liễn. Tháng 7 năm 1936, Sơn Vương được trả về đất liền, tiếp tục thụ hình tại Hà Tiên. Trong tù Sơn Vương tổ chức đập phá khám và la ó để phản đối vụ một giám đốc người Pháp tra khảo anh bồi đến chết vì nghi ăn cắp 200 đồng. Do đó, Sơn Vương bị đày ra đảo Phú Quốc, đến tháng 2 năm 1938 thì được thả.

Ngày 16 tháng 08 năm 1938 Sơn Vương lại bị tống vào tù vì tội du đãng, bị đưa đi giam giữ tại Căng Pursat, Campuchia. Tại đây Sơn Vương cưa còng và trốn qua Thái Lan, rồi bị bắt khi tìm cách về Sàigòn. Lần này ông bị kết án 10 năm tù vì tội vượt ngục và các vụ cướp:

- Vụ ông Kiệt ở Phú Nhuận: là một chủ nợ cho vay nặng lãi và cộng sự của Pháp.
- Vụ Lý Tư: một người trong đám giang hồ ở Chợ Lớn có liên quan đến Sáu Ngọ vua cờ bạc ở Sàigòn - Chợ Lớn.
- Vụ Cọp lửa từ bi hỗn danh của viên đội tại Phòng điều tra bót Polô Chợ Lớn.

Đầu năm 1942, Sơn Vương bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai.

Ngày 6-2-1945, Nhật đổ bộ lên Côn Đảo.

Ngày 9-3-1945 quân Nhật bắt giữ Tyssery, Giám đốc Nhà tù Côn Đảo. Sau đó tiến hành "lễ trao trả độc lập", biến quần đảo Côn Lôn tiếng Pháp gọi là Poulo Condore, thành "Quốc gia tự do Nông dân huynh đệ quần đảo Côn Lôn (Etat libre agricole et fraternel d'Archipel de Poulo Condore) rồi trao quyền chúa đảo cho Lê Văn Trà, nguyên thư ký của Tyssery. Lê Văn Trà ra tờ báo Tiếng nói tự do và giao cho Sơn Vương làm chủ bút.

Khi Cách mạng Tháng 8 thành công, Lê Văn Trà nộp con dấu của nhà tù cho chính quyền cách mạng, thời đó gọi là Việt Minh.

Ngày 11-12-1945, dưới sự chứng kiến của phái đoàn Ủy ban hành chính Nam Bộ, một cuộc bầu cử dân chủ trên đảo được tiến hành. Sơn Vương Trương Văn Thoại trở thành Chủ tịch Ủy ban hành chính Côn Đảo.
Ở cương vị này Sơn Vương tỏ ra là một vị chủ tịch năng nổ và có khả năng lãnh đạo, kịp thời và chính xác khi xác định những việc cần làm cấp bách, giao đúng người đúng việc, góp phần ổn định cuộc sống và giữ gìn an ninh trật tự trên đảo. Ông tổ chức lại sản xuất, đề ra một số biện pháp khuyến khích lao động như chia một phần thành quả cho người làm ra sản phẩm, cải thiện tình hình vệ sinh. Sơn Vương cũng cho cải táng hài cốt của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh mất vào ngày 14-8-1943, cũng như các tù nhân khác, thi hài Nguyễn An Ninh chỉ được cho vào cái bao bàng. Giai đoạn này, uy tín của Sơn Vương khá cao.

Ngay sau khi khi phái đoàn Ủy ban Hành chánh Nam bộ trở về đất liền, Sơn Vương tuyên bố quần đảo Côn Lôn chính thức trở thành "Quốc gia Trung lập Dân chúng quần đảo An Ninh" (Etat neutre des Insulaires de L'Archipel d'An Ninh) và tự xưng là Quốc vương.

Sau đó, Sơn Vương lập mưu ép Nguyễn Thị Hoa, cô học trò nhỏ ngày nào làm vợ. Ngày 28-2-1946, đám cưới của Sơn Vương - Lệ Hoa được tổ chức linh đình, mọi người tha hồ ăn uống và nhảy múa.

Ngày 8-4-1946, Pháp tái chiếm Côn Đảo, Sơn Vương và toàn bộ tù thường phạm còn lại, gồm 400 người bị tống giam. Để trả thù việc bị Sơn Vương trừng phạt vì nhũng nhiễu dân lành, cảnh sát trưởng Nguyễn Thành Út vu cáo ông đang giữ tấm bản đồ kho báu của vua Gia Long giấu lại trên đảo, khi chạy trốn quân Tây Sơn năm 1783. Sơn Vương bị chúa đảo Gimbert và tên cò Pellier tra tấn hết sức dã man để khai ra nơi giấu tấm bản đồ.

Năm 1947, Sơn Vương bị đưa về Sài Gòn, ra tòa, với hai tội danh là cưỡng hôn Lệ Hoa và chủ mưu giết ông già Quýt, người tố cáo Sơn Vương dùng quyền ép hôn Lệ Hoa lãng phí công quỹ... Sơn Vương bị kêu án tù chung thân khổ sai và bị đưa ra lại Côn Đảo để thi hành án.

Ngày 8-8-1953, Sơn Vương giết Nguyễn Thành Út, kẻ đã vu oan giá họa cho ông trong vụ "kho báu". Với tội này, Sơn Vương nhận thêm một án chung thân khổ sai. Theo quy định hồi bấy giờ án chung thân được tính là 32 năm. Tổng cộng, Sơn Vương đã 4 lần nhận án gồm 1 án 5 năm, 1 án 10 năm và 2 án chung thân. Tổng cộng, ông phải nhận mức án là 79 năm tù.

Đây là những chuỗi ngày dài lê thê gần như vô tận, khiến Sơn Vương:

Trông về cố quận phương trời thẳm
Cười lệ khôn ngăn; khóc nghẹn lời"

(Sơn Vương, Máu hòa nước mắt)

Đến năm 1968, Ủy ban cải thiện chế độ lao tù lên án chế độ lao tù, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mới hủy bản án 79 năm của ông chỉ còn lại 35 năm tù giam.

Ngày 18-11-1968, Sơn Vương được phóng thích, sau 34 năm ngồi tù. Trở lại đời thường, Sơn Vương cho đăng thiên phóng sự "Sơn Vương - Người tù thế kỷ" trên một số báo, gây xôn xao dư luận một thời gian.

Sau đó, Sơn Vương lặng lẽ lui về sống ẩn dật ở một ngôi nhà nhỏ trong con hẻm ngoằn ngoèo ở Nguyễn Cư Trinh, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, mưu sinh bằng nghề bốc thuốc Nam gia truyền.

Năm 1980, ông về lại cố hương ở Gò Công, để sống những ngày cuối đời của một nhà văn, tướng cướp, người tù thế kỷ, Quốc Vương quần đảo An Ninh.

Năm 1987, ông mất tại quê nhà, thọ 78 tuổi.

Tác phẩm:

- Bạc trắng lòng đen (1930)
-
Lỗi hẹn quên thề (1930)
-
Ngọc lầm với đá (1930)
-
May nhờ rủi chịu (1930)
-
Làm ơn mắc oán (1930)
-
Kẻ thù dân tộc (1930)
-
Thà được làm chó hơn được làm người (1930)
-
Làm nhơn được vợ (1930)
-
Phản bạn vì tình (1930)
-
Chén cơm lạt của người thất nghiệp (1930)
-
Sâu bọ nổi lên làm người (1930)
-
Ai bạc tình (1931)
-
Ép dầu ép mỡ (1931)
-
Lỗi về tôi (1931)
-
Lạy Phật cầu duyên (1931)
-
Lỗ một lầm hai (1931)
-
Nợ duyên gì (1931)
-
Ai kén chồng (1931)
-
Ăn năn đã muộn (1931)
-
Anh bạc tình (1931)
-
Sơn Vương - Người tù thế kỷ (phóng sự, nhật báo Tin Sáng, 1969)
-
Máu hòa nước mắt I (hồi ký)
-
Máu hòa nước mắt II (hồi ký)

Trích văn:

Máu hòa nước mắt

(….) Một điều tôi có thể hãnh diện và tự an ủi lấy tôi là hai lần bị bắt về tội cướp, người ta tra tấn tôi đủ thứ cực hình để sát hạch tôi: Ăn cướp lấy tiền để làm gì và trao cho những ai? Thì trước sau tôi vẫn một mực khai rằng: Chơi đĩ và thua cờ bạc mà hết; chớ không hề khai một lời nào có thể can danh phạm nghĩa đến các bậc đàn anh, vì hành động mạo hiểm đó đều do tôi tự động, chớ không ai xúi bảo; nghĩa là các nhà cách mạng đàn anh không hề hay biết những món tiền tôi đưa ra là tiền ăn cướp”.

Nhà chức trách Pháp hồi ấy không tin, họ khảo tôi là tôi cứ ráng chịu đòn. Vì tôi tự xét: các anh ấy mà được tự do hay còn sống là xã hội được nhờ. Trái lại tôi bất quá là một kẻ vô danh tiểu tốt, có chết đi cũng không liên quan gì đến việc đời hay việc nước.Vậy tôi đi ăn cướp lấy tiền là để chơi đĩ và thua cờ bạc; mặc dù tôi không bao giờ bước đến ngưỡng cửa lầu xanh, cũng như không cầm được bộ bài Cào hay bộ bài Tứ sắc mà chia cho các tay con để chung tiền hay hốt bạc….

Trích thơ:

Tám mươi năm

Tám mươi năm nằm gai nếm mật
Nhục nào hơn nước mất nhà tan?
Đoái nhìn trăm họ lầm than,
Máu sôi vì lũ tham tàn thực dân!

Đạo đức giả, ai cần bảo hộ?
Tự nghĩ mình chẳng hổ mình sao?
Cũng thì nhân loại cùng nhau
Đoạt quyền cướp nước dạ nào cho ưng?

Một thế kỉ đè lưng cỡi cổ,
Vét tài nguyên tiền của về Tây.
Văn minh khai hóa thế này,
Muôn dân nô lệ đọa đày lắm phen.

Bày chi cảnh hai bên khác biệt!
Sống gông cùm thà chết còn hơn.
Đứng lên ta quyết tuốt gươm
Theo gương người trước rửa hờn nước xưa

Khuấy máu giặc nhuộm cờ Độc Lập
Tán xương thù xây đắp Tự Do
Nhà nhà Hạnh Phúc ấm no,
Khải hoàn chỉnh bị cơ đồ Việt Nam.

Nhà văn Bằng Giang (1922-2000) nhận định về Sơn Vương:

Ở Pháp, Henri Charrière, bị tù oan trong 11 năm, kể chuyện tù và những lần vượt ngục trong quyển Papillon (1970) ăn khách một thời ở Pháp cũng như ở Sài Gòn trước đây có lẽ vì chuyện kể hấp dẫn. Về mặt này cuốn hồi ký Máu hòa nước mắt cũng có thừa, nhưng nó còn ghi lại một số hình ảnh rõ nét vài vụ việc cụ thể có giá trị lịch sử.

Tài liệu tham khảo:

- Sơn Vương Web: vi.wikipedia.org