Phan
Thị Bạch Vân – Phan Thị Mai (1903-1980)
Phan Thị Bạch Vân tên
thật là Phan Thị Mai, sanh năm 1903, tại làng
Bình Trước,
tổng Phước Vĩnh Thượng, tỉnh Biên Hòa nay là
phường Thanh Bình, thành phố Biên Hòa.
Phan Thị Bạch Vân là con thứ năm trong gia đình quan lại
thanh bạch. Thân phụ
vốn
là tri huyện, nên được học hết Sơ học rồi vào trường trung học. Do gia cảnh cha mất sớm, nhà đông anh
em nên mới mười bảy tuổi phải bỏ học đi lấy chồng. Cuộc hôn nhân này mau chóng
tan vỡ, đau buồn bà tìm đến văn chương, trước tiên bà viết bài
đăng trên Đông Pháp Thời Báo.
Rồi bà lập gia đình với
ông Võ Đình Dần, nên bà theo chồng về Gò Công sinh sống, nơi đây ông Võ Đình Dần
có nhà thuốc Việt Nam Gò Công Võ Đình Dần,
chuyên bán các loại thuốc bào chế gia truyền.
Bà giữ mục Phụ trương
phụ nữ và nhi đồng trên tờ
Đông Pháp Thời Báo.
Năm 1928, bà thành lập
Nữ Lưu Thư Quán Gò Công, trên Đông Pháp
Thời Báo số 709 ngày 19-4-1928, có giới thiệu Nữ Lưu Thư Quán Gò Công do
Madame Võ Đình Dần tức Phan Thị Bạch Vân thành lập, với những dòng giới thiệu: “Nay có cô Phan Thị Bạch Vân, cô
vốn con nhà hàn mặc lâu nay vẫn trợ bút cho bổn báo, những văn chương, tư tưởng
và ý kiến của cô phô bày trên báo chương gần một năm nay, tưởng phần nhiều chị
em đã biết”.
Nữ Lưu Thư Quán Gò Công, trụ sở
đặt tại số 24 - 26, đường Chủ Phước, Gò Công, có mục đích và tôn chỉ như sau:
“Lựa
chọn để bán ra cho cả thảy chị em bạn gái bằng cái giá thật hạ những truyện
sách xuất bản trong xứ, có ích cho tinh thần đạo đức và nền luân lý nước nhà,
giúp cho trí thức nữ lưu được chóng mở mang tri thức, học vấn thêm cao.
Trước
tác, sưu tập, dịch thuật và lãnh xuất bản những cảo văn thật có giá trị về
chánh trị, lịch sử, truyện ký, tiểu thuyết, vấn đề phụ nữ, nữ công, khoa học,
thương mãi, thực nghiệp...
Những
sách nhảm nhí thuộc về tình ái dâm phong, hoặc tả theo những lối quái dị trái
hẳn với thể thống nước nhà thì bao giờ cũng cự tuyệt”
Ban biên tập Nữ Lưu Thư
Quán Gò Công gồm có: Đạm Phương (Huế), Nguyễn Thị Đan Tâm (Phủ Quảng Trung Kỳ),
Hoàng Thị Tuyết Hoa (bút danh của Phan Thị Bạch Vân), Tùng Viên (Phủ Quảng
Trung Kỳ), Vũ Xuân Đệ (Hà Nội), Quốc Anh (giáo học Phú Thọ, Đồng Hới), Á Nam Trần
Tuấn Khải (Hà Nội).
Lần
lược số lượng tác phẩm văn học của các tác giả nữ được xuất bản như:
- Gương nữ kiệt của Phan Thị Bạch Vân
- Kim Tú Cầu của Đạm Phương nữ sử
- Hồng phấn tương tri của Đạm Phương nữ sử
- Giám hồ nữ hiệp của Đạm Phương nữ sử
- Nữ anh tài (6 cuốn) của Hoàng Thị Tuyết Hoa
- Một đời mấy thân của Nguyễn Thị Đan Tâm
- Băng tâm ngọc chất của Huỳnh Anh Thị...
- Kim Tú Cầu của Đạm Phương nữ sử
- Hồng phấn tương tri của Đạm Phương nữ sử
- Giám hồ nữ hiệp của Đạm Phương nữ sử
- Nữ anh tài (6 cuốn) của Hoàng Thị Tuyết Hoa
- Một đời mấy thân của Nguyễn Thị Đan Tâm
- Băng tâm ngọc chất của Huỳnh Anh Thị...
Vì
công khai truyền bá tư tưởng thương nước thương dân, lo cho hậu vận nước
nhà, ham mến quốc văn, bảo tồn quốc túy, nên một số tác phẩm do Nữ Lưu Thư Quán Gò Công xuất bản, bị
liệt vào danh mục sách cấm lưu hành như Gương nữ kiệt, Giám
hồ nữ hiệp, Nữ anh tài,
Băng tâm ngọc chất... và
kết cục là thư quán bị chính quyền thực dân đóng cửa sau chưa đầy hai năm hoạt
động. Đến ngày 10 tháng 2 năm 1930 Phan Thị Bạch Vân bị đưa ra tòa về tội: “Phá rối cuộc trị an trong xứ
bằng văn chương tư tưởng.”
Nguyễn Vỹ, nhà văn tiền chiến, Chủ nhiệm tạp
chí Phổ Thông vào những năm 1960 đã
đánh giá Nữ Lưu Thư Quán Gò Công trong Tuấn,
Chàng trai nước Việt, ông
đã cho rằng đầu thế kỷ XX có ba loại sách đã đào tạo cho thanh niên một
tinh thần cách mạng và bồi dưỡng lòng ái quốc hăng say”, là “sách để đầu
giường” của thanh niên học sinh, đó là sách Nam Đồng
Thư Xã của
Nhượng Tống, sách Quan Hải
Tùng Thư của Đào
Duy Anh, sách của Nữ Lưu Thư
Quán ở Gò
Công”
Ngoài
việc
cộng tác với Đông Pháp Thời Báo, chủ
trương Nữ Lưu Thư Quán Gò Công Phan Thị Bạch Vân còn cộng tác với Phụ Nữ Tân Văn.
Võ Đình Dần và
Phan Thị Bạch Vân có 5 người con, tất cả đều du học ở Pháp và khi tốt nghiệp đều
trở về nước phục vụ. Người con gái lớn là Võ Thị Lan trong những năm chống Mỹ
theo chồng là bác sĩ Dương Quang Trung về Hà Nội học tập và công tác, sau giải
phóng miền Nam làm giám đốc bệnh viện Điện Biên Phủ.
Phan Thị Bạch
Vân mất ngày 2-8-1980 tại Tp. HCM, hưởng thọ 77 tuổi, di cốt được gửi tại chùa
Giác Ngộ, đường Nguyễn Chí Thanh, quận 5, Tp.HCM.
Tác phẩm:
- Gương nữ kiệt
(Nữ Lưu Thư Quán Gò Công, 1928)
- Lâm Kiều Loan (tiểu thuyết, Trần Trọng Canh, Sàigòn, 1932)
- Lâm Kiều Loan (tiểu thuyết, Trần Trọng Canh, Sàigòn, 1932)
Trích văn:
Lâm
Kiều Loan
Chương thứ nhứt
Kiếp Hoa Đào
Trận
gió hoa rơi, tìm xuân đâu nữa, bình tan gương vỡ, những mong ráp lại sao lành.
Nổi mình thân thế đã đành, chỉ thương cho bạn ngày xanh còn dài. Vậy nên chẳng
nệ lời quê mượn ngòi bút thảo ra những câu chuyện cũ, hiến các bạn đài gương
xem với.
Tôi,
Kiều-Loan vốn sanh trong nhà thi lễ. Cha tôi xưa làm quan Tri-phủ đáo nhậm phương
xa. Đến trạc tứ tuần người bất lộc thì mẹ tôi đem tôi về Gia-định là xứ sở ông
bà. Khi sanh tiền cha tôi làm quan rất liêm khiết không hà lạm của dân. Đến lúc
quá vãng, không có của dư bao nhiêu, may nhờ của phụ ấm để lại chút ít, mẹ tôi
lấy đó xây xài nên cũng giữ được phong vận không đến nổi túng kém. Mẹ tôi chỉ
có một mình tôi nên người rất thương yêu, hằng lo chăm nom nuôi dạy theo nề nếp
xưa của con nhà khuê các. Năm tôi được 14 tuổi đã thi đậu bằng sơ-học. Ý mẹ tôi
không đành cho tôi đi xa, nên bảo buông cặp về ở nhà hủ hỉ với mẹ cho vui. Tôi
còn ham học lắm, nên ngày đêm nài nỉ xin vào trường lớn. Mẹ tôi cũng chìu lòng
cho vào Nữ-học-đường Saigon. Được hai năm thì tôi đựơc tin mẹ tôi kêu về bảo
phải xin thôi đặng người định bề gia-thất. Nghe lời mẹ dạy bao nhiêu hy vọng về
tương lai của tôi bỗng rã tan theo bọt nước. Tôi liền thưa rằng: thưa mẹ, tuổi
con còn thơ-ấu, ngày xuân hãy còn dài, mẹ vội tính chi việc hôn-nhơn, để con
theo đòi nghiên bút cho đến tuổi trưởng thành rồi mẹ sẽ lo việc thất gia cho
con. Chừng đó bề học vấn của con đã rộng, trí thức nhiều con mới có tư cách
mong làm một người dân khôn, vợ quý, mẹ hiền, chớ bây giờ đây mới mười mấy tuổi
đầu, thơ ngây nào đã biết chi mà dám đặt mình vào một cái địa vị khó khăn như
thế hởi mẹ. Mẹ tôi dạy rằng: Kiều-Loan con ơi! Dễ nào mẹ không biết cái chí
nguyện của con là thế. Song mẹ hôm nay tuổi già sức yếu, khác nào ngọn đèn thấp
thoáng gió đưa, sớm tối chắc đâu sống thác. Mẹ muốn thấy con có chổ nương thân,
sau dầu mẹ có nhắm mắt rồi cũng an lòng nơi chín suối. Tôi nghe mấy lời mẹ dạy
mà tủi thầm cho cái thân nữ-nhi. Mình cũng mắt cũng tai cũng đầu cũng óc như
nam-nhi cớ sao nam-nhi người ta lại có quyền vùng vẫy nơi bể học
rừng văn, còn mình lại buộc trở về toan đi nương thân gởi phận, chực bám vào
người là cớ làm sao.
Lòng
tôi không cam nên theo năn nỉ mãi rằng: hôm nay sự học thức của con đương dang
dỡ chẳng đến đâu cả, mẹ vội tác thành giai-ngẫu cho, may mà con đựơc duyên ưa
phận đẹp, đôi lứa trăm năm thì chẳng nói chi, rủi con vô phần gặp phải người
nửa chừng đem lòng phụ bạc, rồi cùng nhau chia gánh giữa đàng chừng đó cái thân
yếu đuối bất tài tránh sao khỏi thân rách con đói. Thà mẹ để con ăn học thành
tài rồi, nếu con ở vào cảnh thuận cũng đủ sức giúp chồng dạy con. Bằng cơ trời
biến đổi thế nào con cũng có thể đem cái tài học ra mà mưu sự hạnh phúc, không
đến nổi ra thân cô khổ đó mẹ. Mẹ tôi bảo: con gái học cho biết chút đỉnh rồi
thì về nhà tập nấu nướng vá may để lo việc tề gia nội trợ. Gia pháp nhà ta xưa
nay vẫn thế, con phải noi theo, đừng có bắt chước theo bọn tân-học bây giờ,
mong đi học cho nhiều, sau lại phải nỗi ế chồng vì không có ai dám cưới.
Vậy con hãy nghe lời mẹ, đừng có cãi mà làm cho mẹ phiền lòng.
Trọn
mấy ngày mẹ con bàn đi cãi lại hoài. Rốt lại mẹ tôi làm giận làm hờn, khóc lóc
phiền hà. Tôi vốn yêu mẹ chí-thiết lại thấy mẹ già hay ương yếu, sợ mình cãi
lời người ưu phiền sanh bịnh thì sao cho phải đạo làm con. Nên tôi phải chìu
lòng ưng thuận đành dẹp nghiên xếp sách từ giã cảnh trường mà lui về nhà.
Cách
sáu tháng sau thì tôi đã về nhà chồng rồi. Lang quân tôi tên Trần-bá-Minh, làm
lương y bổn-quốc, đương tùng sự tại tỉnh. Người cùng đồng quê với tôi song ở
thuộc về trong làng. Ông thân người đương quyền Cai tổng đối với gia quyến tôi
là chổ quen biết cũ, nên việc cưới xin cũng dễ dàng.
Lang
quân tôi lúc bấy giờ tánh tình hiền hậu đối với vợ có vẻ khoan hoà. Người ít
hay đi chơi phiếm, cơn rãnh ở nhà, hoặc đọc sách xem báo, hoặc làm thi dạo đàn.
Mấy thú thanh nhã ấy tôi vẫn thích lắm. Làm thi tôi cũng tấp tễnh học đòi, còn
chơi đờn là món mẹ tôi khi xưa đã nổi danh trong khuê các, sau người truyền
lại. Vợ chồng tôi có vẻ tương đắc lắm. Giá phải ông xanh kia đừng ghét lẫn thì
có lẽ cảnh gia đình của tôi là cảnh thiên đàng. Song tiếc thay! Cái hạnh-phúc
của đời tôi chẳng khác nào chớp nháng, sáng lên một chút rồi không bao giờ tìm
lại cho được nữa.
Tôi
về nhà chồng được một năm thì mẹ tôi mang bịnh mà từ trần. Than ôi! tôi không
dè mẹ tôi năm trước chỉ lo tìm chốn cho tôi nương thân là vì biết trong mình
sức đã yếu.
Nay
người gượng với số trời không nổi đành bỏ đứa con côi cút trên trần thế rồi. Kế
đó tôi sanh được chút gái, nuôi được ít tháng rồi thì bỏ.
Nước
mắt khóc mẹ chưa ráo lại khóc con. Hỡi chị em ai có cốt nhục thâm tình thì đã
rõ tình cảnh tôi bấy giờ ra thế nào.
Trong
lúc tôi buồn rầu ảo não nhờ có một người bạn gái ở gần đó là cô Đỗ-Kim-Hoa
thường hay đến lui ân cần khuyên giải. Kim-Hoa cùng tôi là chị em bạn hồi nhỏ,
cô vốn con nhà giàu, cha là một vị điền chủ mới mất năm ngoái, cô còn một đứa
em trai đương đi học ngoài Saigon. Mẹ cô vì có điền sản nhiều nên thường hay ở
dưới ruộng. Cô ở nhà có một mình với sấp tớ nên hay tới lui nơi nhà tôi chơi
hoài. Cô nhỏ hơn tôi một tuổi nên kêu tôi bằng chị. Lúc nhà tôi có việc cô
thường đến tìm cách giải khuyên. Tôi cảm lấy tấm lòng tử tế đó, nên coi cô như
tình cốt nhục.
Ngày
tháng càng qua, tấm lòng sầu não của tôi vừa khuây khoả, thì cảnh gia-đình của
tôi có vẻ khác. Lang-quân của tôi trước kia là người thế nào đã thuật ra trước
rồi. Thế mà cái người hiền lành vui vẻ hôm nay bỗng hoá ra buồn bực. Thú vui ở
gia-đình ngày xưa, nay không thèm ngó đến, lại sanh tật đi chơi đêm, gặp lễ và
ngày chúa-nhựt thì bặt tăm bặt dạng. Vợ chồng cùng nhau ba năm như bát nước
đầy, nay vì duyên cớ chi mà chồng tôi bỗng đổi tánh như vậy, tôi nào có rõ.
Nhưng đôi khi tôi than thỉ hỏi người thì người quạu quọ rầy rà, thỉnh thoảng
lại nói ra câu: đàn bà tối ngày ăn no ở không, đã sung sướng mà còn nhiều
chuyện. Không phải đàn ông sanh ra đây là chỉ để làm mọi cho vợ đâu, hể người
ta có làm lụng cực nhọc thì phải để cho người ta đi chơi, hết tiền thì người ta
chạy, chớ ai vô đó làm ra đồng xu nào mà nói cho mất công.
Hỡi
ôi! nghe người nói đến đây, lòng tôi bắt nhớ lại lời tôi nói với mẹ tôi
khi xưa nay thật chẳng sai. Mẹ ơi! Mẹ có thấu cái thân đờn bà con gái buổi nầy
hể đi chực bám sống nhờ vào người thì tránh sao khỏi lời nặng tiếng nhẹ. Tôi
không dám hỏi chồng nữa, bây giờ tôi hỏi lòng tôi, coi tôi có lầm lỗi điều chi
mà làm cho đến nổi mất niềm hoà ái hay chăng? Tôi tìm mãi cũng không biết tại
làm sao. Tôi buồn bao nhiêu lại ráng giữ bổn phận bấy nhiêu. Tôi ráng hết lòng
chìu lòn dịu ngọt cùng Lang-quân tôi, là tôi mong một ngày kia người hồi tâm
trở về con đường cũ để dựng lại cái hạnh-phúc cho gia-đình. Nhưng than ôi! đã
luống công mà vô ích, bao nhiêu cách tôi ráng làm cho người thương, dường bao
nhiêu cách tôi chọc cho người phụ, cố gắng cho mấy, tấm lòng người cũng bỏ tôi
mà đi đâu rồi. Cho hay con người đã hết thương mình, thì mình bảo họ thương
cách nào cũng chẳng đặng.
Một
đêm kia nhằm tối thứ bảy, có người lại rước Lang-quân tôi đi khám bịnh. Suốt
đêm không thấy về. Tôi nghĩ không biết tại họ rước đi xa hay là sẵn dịp người
đi chơi luôn. Sáng lại tôi dậy coi chừng trẻ ở dọn dẹp quét tước xong rồi thì
đồng hồ đã chín giờ. Tôi chợt nhớ mấy tấm kiểu thêu của tôi cho Kim-Hoa
mượn. Tôi tính đi đòi về đặng vẽ một tấm trải bàn mà thêu, vì tấm cũ nó đã muốn
rách.
Nhà
Kim-Hoa cách nhà tôi chừng 4 trăm thước, trời còn sớm không có nắng, tôi đội
khăn đi bộ lại đó. Tới ngõ thấy trẻ ở tưới cây tôi liền hỏi: bà xuống ruộng về
chưa, còn cô Hai có ở nhà hay không?
-
Thưa, bà tôi chưa về, còn cô còn ngủ. Tôi bước vô nhà không thấy ai hết. Sấp tớ
đều ở nhà sau. Lấy tình thân của tôi và Kim-Hoa xưa nay, hễ vào nhà cứ đi thẳng
vô phòng. Nay nhơn thấy cô ta ngủ trưa, tôi tính vô phá chơi nên lại vặn hột
xoài cửa. Cửa không có khoá vùng mở bét ra, tôi liền bước vô phòng...
Trời
đất ơi! Phải chăng nắng quáng đèn loà hay chăng mà mắt tôi trông thấy vật chi
lạ quá. Rõ ràng là chồng của tôi cùng Kim-Hoa đang ngủ trên giường. Mắt tôi
tối, chơn tôi run, tinh thần tán loạn. Tôi kêu lên một tiếng: trời ơi, sao đến
thế nầy, rồi té sụm xuống đất. Tôi vừa gượng đứng dậy thì hai người trên giường
giựt mình thức dậy nhảy xuống. Tôi không nói với ai được một tiếng nào hết. Tôi
bước ra khỏi phòng rồi chạy ra đường như điên. Ra ngoài tôi thấy có xe kéo liền
ngoắt lại bước lên ngồi, bảo cứ chạy thẳng chớ không biết là đi đâu. Tôi ngồi
trên xe mà cái tấn kịch khi nãy nó cứ diễn ra trước mắt tôi hoài. Tôi mơ màng
như người trong mộng, hồi lâu định tâm lại thì nước mắt ở đâu nó tuôn ra như
xối. Thôi rồi, mấy năm tình nghĩa một chút thả trôi. Trần-lang ơi! Chàng bao nỡ
có trăng phụ đèn, để cho thiếp mấy tháng trời ngậm thảm nuốt sầu mà không rõ
duyên cớ bởi đâu. Kim-Hoa mầy hỡi mầy, tao với mầy là chị em, so tình không
khác gì cốt nhục, sao mầy lại mong đi phá tan cái hạnh phúc gia-đình của tao
cho đành dạ. Tôi vừa định tỉnh liền chỉ đường cho xa-phu kéo về nhà. Bước vào
thấy Lang-quân tôi đã về trước rồi. Người thấy tôi còn sần sộ, hỏi tôi đi đâu?
Tôi định dằn xuống, song thấy cách người hỏi chận tôi như thế thì không cầm
được nước mắt. Trong bụng đã uất ức muốn nói bao nhiêu, lúc bấy giờ nói
cũng không đựơc nữa, chỉ có buông ra mấy tiếng: anh ơi, sao anh nhẫn tâm
với tôi như thế nầy?... Rồi thì tâm thần tôi nó tán loạn, tôi ngã xuống đất,
không biết chi nữa… Sau lúc ấy không biết Lang-quân tôi có đỡ tôi lên và tội nghiệp
cho tôi chút nào không, mà khi tôi tỉnh dậy thì người đã đi đâu mất, chỉ có con
ở xúm lại dỗ dành khuyên lơn.
Hỡi
ôi! Người đã đến thế đó thời thôi, tôi đành ngậm lệ nuốt sầu chớ biết nói lời
gì than thở nữa.
Thoảng
mãn ngày qua tháng lại, tôi ăn thảm uống sầu cũng đã bảy tám tháng trời, thân
thể càng ngày càng vàng vọt mà Lang-quân tôi cũng chẳng hề đoái hoài đến. Hể đi
làm thời thôi, về đến nhà thì kiếm lời nặng nhẹ, làm cho tôi bực lòng bực trí
hết sức.
Lạ
chi là thói đờn ông, hễ đến nước phụ phàng rồi thì nào là cơm chẳng ngon canh
chẳng ngọt, thiếu chi chuyện nói. Chừng thương trái ấu cũng tròn, lúc ghét bồ
hòn cũng méo. Nghĩ mình bạc phận, côi cút lẽ loi, dầu phải khổ tâm đến bao
nhiêu cũng phải cắn răng mà chịu.
Một
khi kia nhằm lúc lễ, Lang-quân tôi bỏ nhà đi luôn ba ngày mà không thấy về. Tôi
đương nằm trên giường nghĩ đàng kia nỗi nọ, than thở một mình, bỗng nghe có
tiếng giày đi lộp cộp, rồi có tiếng Lang-quân tôi la mắng: trong nhà có đàn bà
mà không ai coi sóc hết, tối ngày ăn no rồi ngủ, đàn bà không nên thân, đàn bà
hư… những gì, những gì nữa, nói nghe thôi đủ thứ, mà nói bao nhiêu thì tiếng
nói nó dội vào vách tường, chớ không có một tiếng trả lời. Người thay đồ rồi đi
nữa. Tôi khóc chán rồi cũng dậy rửa mặt, lại soi gương thấy hình vóc đã tiều
tuỵ, cặp mắt trõm lơ mà trong lòng bắt kinh hãi. Than ôi! ngày xuân còn đó, má
hồng đã phai. Cái mặt hoa da ngọc xưa kia mà mình vẫn có phần tự đắc, ngày hôm
nay nó đã hoá ra mặt xanh má cóp, thấy chẳng nỡ nhìn. Tôi bước lại bàn chấm một
chút phấn thoa lên, coi có bớt xanh hay chăng, thì con Hạnh là con tớ gái, nó
lấp ló bước vào nói: thưa cô, cô ở trong nhà hoài buồn quá, cô hãy ra vườn xem
hoa cho giải khuây. Bữa nay cây đào trổ bông đẹp quá.
Tôi
nghe nó nói thì vói lấy cái áo dài mặc vào, tính ưa dạo cảnh coi trong lòng có
thư thái chút nào chăng. Ngoài vườn có băng để ngồi hóng mát, có nuôi cá, có
hồ-sen. Nhớ hôm nào vợ chồng còn âu yếm nhau, thì chiều nào cũng cùng nhau ra
đó ngoạn cảnh. Bây giờ lẻ loi một mình, trông hoa cỏ xơ rơ mà thẹn. Tôi thấy
hoa đào đương nở bước lại gần xem. Bẩm tánh tôi xưa nay vốn yêu hoa, đoái thấy
cành hoa tươi tốt thì trong lòng thoả thích muôn phần, rồi nhìn mấy đóa hoa đã
tàn mà chạnh lòng chua xót. Nghĩ cái kiếp đàn bà với kiếp hoa chẳng khác chi
nhau. Hễ sớm nở thì sớm tàn, cõi đời vắn vỏi, lại còn thêm những nỗi mưa sa gió
táp, cái thân mỏng mãnh kia dường như ông Tạo ghét ghen, bày ra đủ lối
truân-chuyên để cho mau tàn mau rũ. Đương than thở bỗng thấy mây trên trời u
ám, phút chút lại nổi trận mưa dông. Tôi lật đật bước vào nhà, đứng trong cửa
sổ dòm ra thấy mấy đóa hoa bị gió, rơi cánh tơi bời, rồi thì giọt mưa rớt
xuống, mấy cánh hoa rơi kia đều trôi theo dòng nước mà chảy đi. Nghĩ cái thân
thế mình, rồi nghĩ cái kiếp hoa mà sanh cảm xúc vô hạn. Ngoài trời giọt mưa tầm
tã, trong nhà tối đen như mực, tôi bước lại vặn đèn lên, rồi lấy cái nghiên bút
ra tả một bài “Kiếp hoa Đào” cho đỡ lòng sầu muộn.
…
- 0 -
Trong bài: Một nhà văn nữ tranh đấu cho nữ quyền vào đầu thế kỷ XX, tác giả Võ
Văn Nhơn đã có nhận
định và đánh giá về Nữ Lưu Thư Quán Gò Công cũng như người chủ trương nhà văn
Phan Thị Bạch Vân:
Nữ
lưu thơ quán tồn tại chỉ trong vòng chưa đầy hai năm, nhưng đã tập hợp được một
số tác giả tiến bộ và đã xuất bản nhiều tác phẩm văn học, khoa học, giáo dục…có
giá trị. Thư quán cũng góp phần truyền bá những tư tưởng dân chủ, tiến bộ, những
kiến thức khoa học cho thanh niên, đặc biệt cho phụ nữ. Vào đầu thế kỷ XX, lúc
bình quyền nam nữ còn được xem là một vấn đề mới mẻ, Phan Thị Bạch Vân đã bằng
hành động và sáng tác của mình, chứng tỏ “nữ lưu” cũng có những thế mạnh của
riêng mình, cũng có thể sánh vai với nam giới trong mọi lĩnh vực. Đó là điều rất
đáng trân trọng của nhà văn nữ yêu nước, nhà hoạt động văn hóa còn chưa được
đánh giá đúng mức này.
Tài liệu tham khảo:
- Phan Thị Bạch Vân Web: tuoitre.vn
- Lâm Kiều Loan Web: gio-o.com
- Lâm Kiều Loan Web: gio-o.com
No comments:
Post a Comment