Pages

Saturday, August 16, 2014

Nhà văn Diệp Văn Cương



Diệp Văn Cương




Yên Sa - Diệp Văn Cương (1862-1929)


Diệp Văn Cương tự Thọ Sơn, hiệu Yên Sa, bút hiệu Cuồng Sĩ, sinh năm 1862 tại làng An Nhơn, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định.


Thuở nhỏ, nhà nghèo đi học thế cho người khác, nhờ hiếu học, ông được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ cho đi học tại trường Trung học d'Adran tại Sàigòn .


Năm 1880, sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở Adran, ông cùng với Nguyễn Trọng Quản (1865-1911) và 8 người khác, được chính quyền thực dân cấp học bổng du học tại Lycée d’Alger Algérie, cựu thuộc địa Pháp ở Bắc Phi và đỗ tú tài Pháp tại đây.


Thành tài về nước, Diệp Văn Cương được chính quyền thuộc địa cho theo quốc tịch Pháp và đi dạy tại Trường Chasseloup Laubat  tục danh là "Trường Bổn quốc". Trong thời gian này, ông về cư ngụ tại gia trang riêng ở làng An Nhơn, quận Gò Vấp, nay là quận Gò Vấp thuộc Tp. HCM.


Tháng 4 năm 1886, Paul Bert được cử sang làm Tổng công sứ Trung - Bắc Kỳ. Ông được chuyển ra Huế làm thông ngôn cho tòa Khâm sứ Huế. Cuối năm đó, ông được cử làm thầy dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh thay cho Trương Vĩnh Ký. Khoảng tháng 5 năm 1887, triều đình Huế mở trường dạy tiếng Pháp, gọi là Sở Hành Nhơn, ông được cử làm Chưởng giáo (Hiệu trưởng), hàm Kiểm thảo. Ông lập gia đình với Công nữ Thiện Niệm, con của Thoại Thái vương Hồng Y, em vua Dục Đức và là cô ruột của hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Lân.


Vua Ðồng Khánh mất, Cơ mật viện không dám chọn vua mới nên phải sang Tòa khâm sứ để hỏi ý kiến. Diệp Văn Cương đang làm việc tại đây với chức vụ Bí thư kiêm thông dịch viên cho Tòa Khâm sứ, lãnh trách nhiệm thông dịch. Tương truyền, ông đã giúp cháu ruột của vợ là Hoàng tử Bửu Lân nối ngôi vua.


Sách Nguyễn Phước Tộc Thế Phả (trang 39) chép:


Cơ mật viện hỏi: "Hiện nay vua Ðồng Khánh đã thăng hà, theo ý của quí Khâm sứ thì nên chọn ai kế vị?". Diệp Văn Cương dịch câu trên thành: "Nay vua Ðồng Khánh đã thăng hà, lưỡng tôn cung và Cơ mật viện đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân lên nối ngôi, không biết ý kiến của quí Khâm sứ như thế nào?"


Nghe vậy quan Khâm sứ đáp: "Nếu lưỡng cung và Cơ mật viện đã đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân thì tôi xin tán thành". Câu này Diệp Văn Cương lại dịch là: "Theo ý tôi thì các quan Cơ mật nên chọn hoàng tử Bửu Lân là hơn cả".


Vào ngày 2 tháng 2 năm 1889, hoàng tử Bửu Lân lên ngôi đặt niên hiệu là Thành Thái. Khi đó, nhà vua mới 10 tuổi.


Sau khi Thành Thái lên ngôi. Khoảng năm 1893, triều đình Huế sợ ông chuyên quyền, nên vận động với nhà cầm quyền Pháp đổi ông trở về Sàigòn, làm Đầu Phòng phiên dịch cho Soái phủ Nam Kỳ. Vợ ông là bà Thiện Niệm vẫn ở lại Huế. Năm 1894, bà sinh một người con trai, đặt tên là Diệp Văn Kỳ.


Khoảng cuối thập niên 1890, ông bước vào nghề báo, cộng tác với Gia Định báo, Nhựt trình Nam Kỳ.




Tháng 12 năm 1898, Diệp Văn Kỳ chủ trương tờ Phan Yên báo. Tên Phan Yên là nói lái lại Phiên An tức địa danh Gia Định. Theo tác giả Chánh Đạo Nghị định của Thống Đốc Nam kỳ ký ngày 30-12-1898, trong Điều 2 qui định rằng tất cả báo không viết bằng Pháp ngữ phải đưa đi kiểm duyệt trước khi phát hành. Có thể hiểu do đó báo bị đình bản, nên ngày nay chúng ta không có một ấn bản nào. Theo tác giả Minh Hiền, trong bài báo "Sỹ Tải Trương Vĩnh Ký - Trên địa hạt "Nhà văn hóa" tiên phong làm báo bằng chữ quốc ngữ viết bằng văn xuôi", ghi rõ Phan Yên báo là tuần báo, ra mắt tháng 12 năm 1898, đến tháng 2 năm 1899, được 7 số thì bị cấm lưu hành.


Phan Yên báo bị đóng cửa, ông không nản chí trong việc tham gia hoạt động chính trị. Ông ra tranh và đắc cử chức Ủy viên trong Hội đồng Quản hạt tỉnh Bến Tre, rồi sau đó là Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de la Cochinchine).


Năm 1908, ông được bổ nhiệm làm Chủ bút tờ Gia Định báo, thay thế ông Nguyễn Văn Giàu, theo nghị định ngày 20 tháng 9 năm 1908 của Thống đốc Nam Kỳ Louis Alphonse Bonhoure.


Khi gần tuổi hưu, ông trở lại dạy Sử học và Việt văn trường Chasseloup Laubat như trước.


Ông mất năm 1929, hưởng thọ 67 tuổi.


Tác phẩm:



- Syllabaire quốc ngữ - sách vần quốc ngữ (Phát Toán, 1909)
-
Việt Nam luân lý tập thành(Imprimerie de l’Union, 1917)
-
Recueil de morale annamite (Imprimerie de l’Union, 1917)



Trích văn:
Khóc Thầy Petrus Trương Vĩnh Ký
Văn Tế :           

Thương thay! Thầy ta là quan lớn
Sĩ tải Trương Vĩnh Ký
Nhớ Thầy xưa.
Nên đấng thông minh.
Thiệt trang văn phú.
Sang dường ấy,trọng dường ấy,
Ngó công danh ,trong mắt như không.
Kiêu chẳng hề,lẫn chẳng hề.
Xem tánh hạnh trong đời ít có.
Việc chữ nghĩa trong lòng biên đặt
Lắm thuở công phu.
Dạy học hành ra sức vun trồng
nhiều lời khuyên dỗ.
Ôi!
Tưởng còn lâu hưởng lộc trời.
Nay đã sớm lía cõi thọ.
Bướm Trang sinh một giấc mình cởi chốn vi cơ
Hạt Đinh linh trăm năm hồn nương nơi vân vụ
Người tuy mất mà danh chẳng mất,tiếng hãy còn đây
Coi sách Thầy mà học ở Thầy,hình như thầy có
Hỡi ôi!Tiếc thay!Hỡi ôi!Thương thay.
           
             Môn sanh : Trương Minh Ký,
                               Diệp văn Cương,
                               Nguyễn Trọng Quản
                               đẳng đồng bái.





Trong sách Sài Gòn năm xưa, học giả Vương Hồng Sển, viết về nhà văn, nhà báo Diệp Văn Cương như sau:

Người ông nẫm thấp hùng vĩ, lịch duyệt Bắc Nam, ông ngâm thi sang sảng, nói tiếng Tây rất "giòn", bình sanh sở thích hát bội, roi chầu bóng bẩy rất mực phong lưu, tuồng hát nằm lòng, cô đào anh kép phục sát đất! Vãn hát ông rước luôn đào để cả y phục và áo mão về nhà hát lại ông thưởng thức riêng.

Tánh tình cứng cỏi, thẳng thắn, quen việc xưng hô chốn triều đô. Học trò rắc rắc phải gọi "Quan Lớn", nhưng thuở ấy không lấy đó làm chướng tai. Nực cười những sĩ tử trường T. qua dự thi bằng thành chung gặp ông (làm) giám khảo, chúng gọi Diệp tiên sanh bằng "ông", tiên sanh cười gằn: "Về hỏi Ch. mầy dám gọi tao bằng "ông" hay chăng, hà huống là mầy?" Tuy vậy ông không tiểu tâm và học trò trường lạ đáp trúng, ông (cũng) cho điểm tộc bực. Được chỗ hay là thường thích kiếm chuyện gây gổ với người da trắng, lấy đó làm sung sướng, và luôn luôn cử xử địch thể với quan "mẫu quốc", không nhịn bước nào. Tây tà đều ngán và lánh ông vì sợ ông làm mất mặt.

Khoảng năm 1919, dạy sử học, ông lấy Sử Diễn Ca (Lê Ngọc Cát) ra bình chú, dạy Việt Văn ông đã biết đem những đoạn xuất sắc trong Kiều, Lục Vân Tiên, và Chinh Phụ Ngâm ra giải thích cũng là mới lạ...Kẻ viết bài này khi còn học lớp dưới, đã từng đứng nghe lóm ngoài cửa và ân hận không được thọ giáo cùng ông...



Tài liệu tham khảo:

- Diệp Văn Cương Web: vi.wikipedia.org
- Khóc Thầy Petrus Trương Vĩnh Ký Web: petruskylhp.org

No comments:

Post a Comment