Lương Khắc Ninh
Dũ Thúc - Lương Khắc Ninh (1862-1943)
Nhà văn Lương Khắc Ninh tự
Dũ Thúc, biệt hiệu Dị Sử Thị, sinh
năm 1862, tại làng An Hội, tổng Bảo Hựu, phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long nay
thuộc thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Cha ông là Lương Khắc Huệ, một nhà Nho làm
thầy thuốc đông y, mẹ ông là bà Võ Thị Bường; là người làng Bảo An, huyện Điện
Bàn nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, di cư vào lập nghiệp
ở đây.
Từ nhỏ, được sự giáo dục của cha, ông bắt
đầu theo học chữ Nho. Thời thiếu niên của ông, thực dân Pháp đã chiếm hoàn toàn
Nam Kỳ. Vì vậy, năm 1876, ông bắt đầu chuyển sang
học chữ quốc ngữ và chữ Pháp tại trường tỉnh theo chương trình giáo dục của
người Pháp.
Năm 1880, Lương Khắc Ninh tốt
nghiệp trung học tại trường Le Myre De Vilers, Mỹ Tho, rồi làm việc tại sở Thương
chánh Bến Tre cho
đến năm 1883. Năm 1889, ông làm thông ngôn tại tòa án Bến Tre, từng làm thành
viên Hội đồng quản hạt Bến Tre.
Năm 1900, ông bỏ lên Sài Gòn viết báo. Ngày 1 tháng 8 năm 1901 tờ Nông cổ mín đàm 農賈茗談, do Paul Canavaggio, là một chủ đồn điền và thương gia người đảo Corse,
hội viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ làm chủ nhiệm, Lương Khắc Ninh làm Chủ bút, Nông cổ mín đàm được
xem là tờ báo kinh tế đầu tiên bằng Quốc ngữ tại Việt Nam. Trên báo này, ngay từ
số đầu có dịch truyện
Tam quốc chí ra Quốc ngữ, đến số 8, mới
ghi tên người dịch là Canavaggio, nhưng theo Vương Hồng Sễn người dịch là Lương
Khắc Ninh, và đó là truyện Tàu đầu tiên xuất hiện ở Miền Nam cũng như Việt Nam.
Năm 1902, ông đắc cử vào Hội đồng Quản hạt
Nam Kỳ.
Năm 1905, ông thành lập gánh hát bội Châu
Luân ban ở Sàigòn.
Năm
1906 ông được bổ nhiệm làm thành viên của Hội đồng Tư vấn Đông Dương, nhà văn Trần Chánh Chiếu
thay thế ông làm chủ bút Nông cổ mín đàm.
Tuy là người có danh tiếng, từng làm nghị
viên hội đồng nên người đương thời gọi ông là Hội đồng Ninh, tuy nhiên hoạt động chính của ông vẫn trong ngành báo chí hơn là chính
trị.
Tháng 10 năm 1908, từ số 51,
ông làm chủ bút tờ Lục tỉnh tân văn, thay
cho Trần Chánh Chiếu bị chính quyền thuộc địa Pháp bắt, vì hoạt động cho phong trào Đông Du
của Phan Bội Châu.
Năm 1922, ông dẫn đầu một đoàn hát bội sang
lưu diễn tại Pháp nhân có hội chợ đấu xảo tại Marseille. Tại đây, ông đã nhiều
lần tiếp xúc và trao đổi về quan điểm, đường lối cứu nước với chí sĩ Phan Châu
Trinh và tỏ ra rất kính trọng và khâm phục tài năng chí sĩ họ Phan trong đường
lối giành độc lập dân tộc. Cũng tại Pháp, ông từng viết một bức thư gửi vua Khải
Định, bấy giờ cũng đang ở Pháp, khuyên vua nên tiếp thu và thực thi quan điểm
của Phan Châu Trinh.
Sau khi ở Pháp về, ông vẫn tiếp tục cộng
tác với các báo ở Sài Gòn và thường đi diễn thuyết ở các tỉnh Vĩnh Long, Trà
Vinh, Mỹ Tho cổ động cho phong trào duy tân tự cường.
Ông mất ngày 22 tháng 11 năm 1943, hưởng
thọ 81 tuổi.
Tác phẩm:
- Sãi
Vãi (phiên âm với Nguyễn Khắc Huề và Nguyễn Dư Hoài, Claude
& Cie, 1905)
- Tuồng Gia Trường (tuồng hát viết chung với Lương Khắc Huề, 1906)
- In khờ mà khôn (thơ lục bát kể chuyện, 1924)
- Tuồng Gia Trường (tuồng hát viết chung với Lương Khắc Huề, 1906)
- In khờ mà khôn (thơ lục bát kể chuyện, 1924)
Trích văn:
Bão lụt phía
Tây-Nam(*)
Trong một năm hai lần bão, tại xứ nhỏ như Nam Kỳ, thương hại
thay cho dân khổ, 16 tháng ba bão nơi Ðông Nam dân Tây-Nam bình tịnh, đến đêm
26 tháng chín bão nơi Tây Nam từ 8 giờ tối tới 4 giờ sáng mới ngơi. Từ Sóc
Trăng, Ðại Ngãi, Bạc Liêu, Cần Thơ, Long Xuyên, Rạch Giá, Châu Ðốc và Hà Tiên,
cây ngã nhà xiêu, ghe chìm người chết, hao của dân vật, nghĩ rất thảm thương.
Chẳng phải bão mà thôi, lại nước lụt tràn bờ, lúa cày mạ gieo đều trốc rễ. Nghĩ
coi sáu tháng chia nhau chịu khổ, người mắc trước kẻ bị sau, lúa thóc mùa màng
mang hại. Thương là thương dân hèn gặp khổ, kẻ khó chịu tai; nhọc hình-hài làm
mọi cho người, đói lòng, dạ không an con vợ. Thương ôi! Ðã biết rằng: Trời còn
có khi mưa khi nắng, người sao không lúc thạnh lúc suy. Nhưng vậy mà ngoài ba
mươi năm dân luống thảnh-thơi, quen thời-tiết phong điều võ-thuận. Xãy một phút
trời sanh tai biến, người không dè phải chịu nghèo nàn. Dẫu tiên-tri cũng khó
thở-than, vì dân-vật thường không tin lời phải. Nếu luận chuyện thành tiên
thành phật cùng địa-phủ thiên-đàng, thì nhiều nơi tham nơi sướng tránh chỗ go;
bằng mà luận trái phải việc đời, lo việc tới lui, thạnh lắm phải lo suy, sướng
lâu thì sợ cực; những điều ấy người cho rằng luận vấy, ăn cơm nhà để lo chuyện
bao đồng. Ôi thôi ! Hể trời khiến tai-nàn người chịu, xót tình thương nên tỏ
một đôi lời. Gia Cát xưa chưa bỏ lều tranh, đã rõ trước tam-phân đảnh túc; bởi
Chiếu-liệt đốc-thành kỉnh-sĩ, nên người đành tận-tụy cúc-cung. Vì một người,
chịu nhọc một mình; làm hết sức, chớ cơ trời nào dám cãi. Thương trăm họ nên
phân trái-phải, hết sức mình cho trọn phận làm người, há cầu ai rằng phải rằng
chăng, điều phải chẳng tự nhiên người xét lấy.
Thương ôi !
Bị bị tai tai trời trời khiến khiến hại hại người người đời đời
hết hết tưởng tưởng chơi chơi thì thì phải phải sợ sợ.
Xin chư văn hữu đọc bài tứ tuyệt nầy, rồi gửi đến cho bổn quán, như
trúng thì xin phụng lại một tháng nhựt-trình xem chơi.
Chủ bút
Trích văn vần:
In
khờ mà khôn
……………….
Ai mà hiểu thấu thiện duyên,
Trọn đời mới rõ hiếu hiền thành thân.
Người mà tâm tánh tham gian,
Bất trung bất hiếu oan [hoang] đàng lụy thân.
Thông Đạo hai tên an nhàn,
Thảo cha, thuận bạn, vợ chồng thảnh thơi.
Khuyên ai phải xét việc đời,
Ngay tin đặng sưóng, dữ thời táng thân.
Ai mà hiểu thấu thiện duyên,
Trọn đời mới rõ hiếu hiền thành thân.
Người mà tâm tánh tham gian,
Bất trung bất hiếu oan [hoang] đàng lụy thân.
Thông Đạo hai tên an nhàn,
Thảo cha, thuận bạn, vợ chồng thảnh thơi.
Khuyên ai phải xét việc đời,
Ngay tin đặng sưóng, dữ thời táng thân.
- 0 -
Trên trang Web Nam Kỳ Lục Tỉnh
có đăng bài của Nguyễn Văn Sâm, có nhận định về nhà văn Lương Khắc Ninh như
sau:
“Là một nhà báo, nhà văn, một người cổ động cho thương nghiệp,
người viết tuồng kiêm bầu gánh hát bội, một nghị viên Hội Đồng Tư Vấn của chánh
phủ, Lương Khắc Ninh là một nhân vật hoạt động hăn say trong nhiều lãnh vực văn
hóa ở Sàigòn suốt từ năm 1900 cho đến hết thập niên 30 của thế kỷ 20. Trong
lãnh vực nào ông cũng để lại ảnh hưởng và tiếng tốt.”
Ghi chú:
(*) Nông cổ mín đàm số 166 ngày 17-11-1904
Tài liệu tham khảo:
- Lương Khắc Ninh Web: vi.wikipedia.org
- Bảo lụt phía Tây Nam Web: ahvinhnghiem.org
- Bảo lụt phía Tây Nam Web: ahvinhnghiem.org
No comments:
Post a Comment