Lê Hoằng Mưu
Lê Hoằng Mưu (1879-1941)
Nhà văn
Lê Hoằng Mưu sinh năm 1879(*) tại Cái Cối thuộc làng An Hội, Tổng Bảo
Hựu, hạt Bến Tre, nay là xã Mỹ Thạnh An, Thị xã Bến Tre, ông sinh ra trong một
gia đình làm ruộng khá giả, do đó được đến trường học.
Thuở nhỏ Lê Hoằng Mưu học tại Bến Tre, rồi ông lên
Sài Gòn tiếp tục học, nhưng chưa hết bậc trung học Pháp Việt. Sau đó ông đi làm thư ký cho Sở Công chứng.
Ông
bắt đầu hoạt động văn học với tư cách là một cộng tác viên của báo Nông Cổ Mín Đàm, ông dịch kịch thơ Rocambole
Tome V. Le drames de Paris, ông còn viết truyện thơ Hoạn Thơ bắt
Túy Kiều theo thể thất ngôn.
Ông có bút hiệu Mộng Huê Lầu là cách đảo chữ trong tên Lê Hoằng Mưu của
ông.
Năm 1912,
cuốn tiểu thuyết đầu tay của Lê Hoằng Mưu được đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm từ số 19, ra
ngày 20 tháng 7 năm 1912 với nhan đề Truyện
nàng Hà Hương đến số 53, ngày 29 tháng 5 năm 1915 chưa kết
thúc, được nhà in Imp. J. Nguyễn Văn Viết xuất bản thành sách với tên là Hà Hương phong nguyệt, được độc giả
ưa thích nồng nhiệt đón nhận, nên cùng năm này, Hoạn Thơ bắt Túy Kiều được nhà in Imp. J. Nguyễn
Văn
Viết,
Sàigòn, in thành sách.
Năm 1907,
tờ Lục Tỉnh Tân Văn ra đời, Trần
Chánh Chiếu là Chủ bút đầu tiên, đến tháng 10 năm 1908, Trần Chánh Chiếu bị bắt
vì làm cách mạng, chống Pháp, nên Lương Khắc Ninh thay làm Chủ bút.
Năm 1921,
tờ Nam Trung Nhật Báo sáp nhập vào Lục Tỉnh Tân Văn, Lê Hoằng Mưu làm chủ
bút tờ báo này cho đến năm 1933 hoặc sau đó.
Năm 1930,
Lê Hoằng Mưu cùng Võ Thành Út sáng lập tờ Long Giang độc lập, xuất bản
mỗi tuần 3 số, do Lưu Công Châu làm chủ bút. Đến năm 1931, tờ báo bị đình bản một
thời gian, sau được tục bản cho đến ngày 11-5-1934 thì bị chính quyền thực dân
đình bản vĩnh viễn..
Lê Hoằng
Mưu là người được trả lương Chủ bút cao nhất, và làm chủ bút chỉ nhờ tài viết tiểu thuyết mà thôi, các tác phẩm của
ông được bán chạy nhất ở đất Sàigòn thời bấy giờ.
Lê Hoằng
Mưu mất năm 1941 tại Sàigòn, thọ 62 tuổi.
Tác phẩm:
- Hoạn Thơ bắt Túy Kiều (truyện thơ, Imp. J. Nguyễn Văn Viết, 1915)
- Hà Hương phong nguyệt (tiểu thuyết, Imp. J. Nguyễn Văn Viết, 1915)
- Tây Hồ công chúa ngoại sử (tiểu thuyết, Imp. de l’Union, 1916)
- Một ngàn con ma (tiểu thuyết, Imp. J. Nguyễn Văn Viết, 1917)
- Lạc Thúy Duyên. Nữ giáo Tô Huệ Nhi ngoại sử (tiểu thuyết, Imp. de l’Union, 1918)
- Oán hồng quần ngoại sử (tiểu thuyết, Imp. de l’Union, 1920)
- Oan kia theo mãi hay Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật (tiểu thuyết, Imp. J. Nguyễn Văn Viết, 1922)
- Đầu tóc mượn (tiểu thuyết, Imp. de l’Union, 1926)
- Đỗ Triệu kỳ duyên (kịch thơ, 1928)
- Đêm rốt của người tội tử hình (tiểu thuyết, Đức Lưu Phương, 1929)
- Người bán ngọc (tiểu thuyết, Đức Lưu Phương, 1931)
Tác phẩm đăng trên báo:
- Ba gái cầu chồng hay Thập báo niên tiền ly miêu hoán chúa (đăng
trên Nông Cổ Mín Đàm từ số 55, ngày
13 tháng 7 năm 1915)
- Hồ Thể Ngọc (đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm từ số 85, ngày 17 tháng 2 năm 1916 đến số 108, ngày 29 tháng 7 năm 1916, chưa kết thúc. Đăng lại trên Công luận báo từ số 46, ngày 15 tháng 3 năm 1917 đến số 127, ngày 19 tháng 4 năm 1918 thì kết thúc.)
- Giọt nước nhành dương hay Hoa chìm bể khổ (với bút hiệu Mộng Huê Lầu - đăng trên Công luận báo từ số 73, ngày 19 tháng 2 năm 1924 đến số 79, ngày 9 tháng 12 năm 1924, chưa kết thúc)
- Nhược nữ báo phụ thù hay Hiếu tình bất nhứt (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 1877, ngày 13 tháng 11 năm 1924 đến số 1929, ngày 15 tháng 1 năm 1925.)
- Hoan hỉ kỳ oan (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 1942, ngày 3 tháng 3 năm 1925 đến số 2052, ngày 16 tháng 6 năm 1925.)
- Cuồng phụ ngộ cừu nhân (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 2393, ngày 9 tháng 8 năm 1926 đến số 2478, ngày 1 tháng 12 năm 1926, chưa kết thúc)
- Thập báo niên tiền Kim Liễu hàm oan (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 3549, ngày 10 tháng 7 năm 1930 đến số 3641, ngày 3 tháng 11 năm 1930.)
- Trăng già độc địa (đăng trên Long Giang độc lập từ số 5, ngày 15 tháng 11 năm 1930 đến số 57, ngày 9 tháng 4 năm 1931, chưa kết thúc)
- Hồ Thể Ngọc (đăng trên báo Nông Cổ Mín Đàm từ số 85, ngày 17 tháng 2 năm 1916 đến số 108, ngày 29 tháng 7 năm 1916, chưa kết thúc. Đăng lại trên Công luận báo từ số 46, ngày 15 tháng 3 năm 1917 đến số 127, ngày 19 tháng 4 năm 1918 thì kết thúc.)
- Giọt nước nhành dương hay Hoa chìm bể khổ (với bút hiệu Mộng Huê Lầu - đăng trên Công luận báo từ số 73, ngày 19 tháng 2 năm 1924 đến số 79, ngày 9 tháng 12 năm 1924, chưa kết thúc)
- Nhược nữ báo phụ thù hay Hiếu tình bất nhứt (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 1877, ngày 13 tháng 11 năm 1924 đến số 1929, ngày 15 tháng 1 năm 1925.)
- Hoan hỉ kỳ oan (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 1942, ngày 3 tháng 3 năm 1925 đến số 2052, ngày 16 tháng 6 năm 1925.)
- Cuồng phụ ngộ cừu nhân (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 2393, ngày 9 tháng 8 năm 1926 đến số 2478, ngày 1 tháng 12 năm 1926, chưa kết thúc)
- Thập báo niên tiền Kim Liễu hàm oan (đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 3549, ngày 10 tháng 7 năm 1930 đến số 3641, ngày 3 tháng 11 năm 1930.)
- Trăng già độc địa (đăng trên Long Giang độc lập từ số 5, ngày 15 tháng 11 năm 1930 đến số 57, ngày 9 tháng 4 năm 1931, chưa kết thúc)
Trích văn:
Oán Hồng Quần ngoại sử (**)
...
Trên chữ đề Tân Hiệp nhà ga, dưới chạo rạo người ta lên xuống.
Huê
khát nước thấy dừa muốn uống, tính xuống mua mà xuống lại e, may đâu con bán
dừa đem lại gần xe, cho hành khách tiện bề mua lấy. Huê mừng dạ mau chân bước
lại, kêu hỏi thăm một trái mấy đồng. Xãy đâu gần bên nàng có một thầy thông,
chợt thấy khách má hồng bủn rũn. Trơ đôi mắt hỏi thầm trong bụng: “Có phải Túy
Kiều xưa, nay sống lại chăng ? Thầy mới lần tay toan mở túi gió trăng, kiếm lời
ghẹo ả Hằng cung nguyệt”.
……..
Người bán ngọc (**)
Hồi thứ năm
Trang Tử Minh chẳng vị tình khảo án
Hồ Quốc Khanh e tội nặng hại mình
Hồ Quốc Khanh e tội nặng hại mình
Tô Thường
Hậu khai rồi đứng khoanh tay, mắt chưa ráo giọt mà nhìn quan Phủ, mong chờ nghe
coi quan Phủ có vấn tra mình không hay đâu Tô Thường Hậu đã mõi chờ, mà không
nghe hỏi han chi cả; duy thấy quan Phủ ngồi dựa án thiêu thiêu, tay chống trên
mái đầu bộ như ngủ gật. Nào có ai dám làm khua động bên tai. Cho đến thầy thông
hình, thế cho Đề lại lấy khai, chép rồi lời khai cũng để đó mà bước ra , chớ chẳng
dám kêu quan Phủ. Giây sau quan Phủ mở mắt ra ngó Tô Thường Hậu mà nói một cách
nghiễm nhiên rằng:
Ưng cũng có ưng, oan cũng có oan,
Oan là không trộm ngọc cướp vàng,
Ưng là có dâm loạn vợ quan dinh cấm.
Oan là không trộm ngọc cướp vàng,
Ưng là có dâm loạn vợ quan dinh cấm.
Nói rồi
quan Phủ dạy lính lệ dẫn Tô Thường Hậu ra ngoài chờ, để cho ngài gặn hỏi Hồ Lăng
đủ sau trước mới tàng hắc bạch.
Đề lại dẫn
Hồ Lăng vào.
Hồ Lăng đứng
sửng trước mặt, không cúi đầu, không thi lễ. Quan Phủ nổi giận, quở Hồ Lăng:
- Người biết
chốn này là chốn nào không ?
Hồ Lăng:
- Lý nào tôi ở chốn này mà không biết đây là Phủ.
Quan Phủ:
- Ngươi biết sao không thủ lễ ? Ngươi tên họ là gì, làm chức gì, ở đâu?
Hồ Lăng:
- Ức vì tôi vô tội mà bị bắt, tôi muốn hiểu chỗ đó mà nóng lòng, nên vào tới Phủ
tôi quên thi lễ.
Quan Phủ:
- Không! Ta có dạy bắt ngươi đâu? Thơ ta gửi qua Đô đốc cũng xin dạy ngươi sang
đây cho ta hỏi việc chớ. Ngươi mựa chớ tưởng lầm mà hờn vội. Ngươi tên họ là
chi, nói đi cho ta rõ?
Hồ Lăng:
- Có vậy tôi mới an lòng mà hầu hồi cho. Tôi tên Hồ Lăng đang làm đội trưởng
trung quân đô đốc.
Quan Phủ:
- Ngươi có khi nào bị quan Đô đốc đuổi ra chăng ?
Hồ Lăng:
- Bẩm không! Tùng chinh từ buổi mới đầu quân, tôi lấy làm may mà đặng Đô đốc yêu
dùng hơn hết.
Quan Phủ:
- Vậy cũng là đáng khen! Ngươi ở đây có biết Bảo Anh tự là chùa nào không?
Hồ Lăng:
- Bẩm biết chớ sao không! Đã nhiều lúc dưng hương cầu nguyện.
Quan Phủ:
- Ngươi có cơn nào tá túc đó một ít lâu không?
Hồ Lăng:
- Bẩm không; mắc việc quan, có rảnh ngày giờ đâu mà dời đổi.
Quan Phủ:
- Ngươi nói sai rồi. Ai khai với quan Phủ ngay trước đây, nói rằng vâng lệnh nên
giữ quan tài mạng phụ ?
Hồ Lăng:
- Bẩm tôi, song đó là việc quan sai, chớ về tư gia tư sự thì tôi chưa hề ở đó.
Quan Phủ:
- Ngươi lên ở đặng mấy ngày ?
Hồ Lăng:
- Bẩm chưa đầy nửa tháng.
Quan Phủ:
- Khi ngươi đến gửi thân nương náu ngươi mượn cớ nào vào xin?
Hồ Lăng:
- Bẩm vì mật lịnh, tôi dối bậy rằng bị Đô đốc đuổi ra, nghèo đói không chỗ dựa
nương, vô phang thê chỉ.
Quan Phủ:
- Khi mới vào, người có làm quen với ai
mà cậy tiến dẫn chăng ?
Hồ Lăng:
- Bẩm có, song không biết là ai, duy nhớ có một vị chúng tăng tiến dẫn.
Quan Phủ:
- Thật ngươi không biết và cũng không nhớ là ai hay sao ?
Hồ Lăng:
- Bẩm thật thì không ?
Quan Phủ: - Trong những ngày ngươi dối giả nương
dựa cửa thuyền nhờ của thập phương đó ngươi thường đàm đạo cùng ai hơn.
Hồ Lăng:
- Bẩm, tôi thường đàm đạo với chúng tăng, mà trong tăng chúng có một vị, tôi
thường gần ngày đêm hơn hết. Mà tôi cũng không nhớ mặt biết tên là gì !
Quan Phủ:
- Có khi nào ngươi thuật chuyện trong dinh đô đốc cùng tăng chúng hay không?
Hồ Lăng:
- Bẩm dám đâu! Tôi đã vâng mật lịnh đi dọ tin, lí đâu bày tâm sự.
Quan Phủ:
- Ngươi không nói với ai là con Đào Anh là thế nữ trong dinh chết rồi sao ?
Hồ Lăng:
- Bẩm không! Tôi không thể nói; thề mấy chùa mấy miễu tôi cũng dám thề đa!
Quan Phủ:
- Muốn thề để rồi sau sẽ. Ngươi cũng không nói đô đốc nghi tình giết Đào Anh, đuổi
ngươi ra khỏi sao?
Hồ Lăng:
- Bẩm không. Cái đó mới thật là nước lả khuấy nên hồ đó.
Quan Phủ:
- Đào Anh bây giờ ở đâu ?
Hồ Lăng:
- Bẩm tôi không biết đâu; nam nữ có đặng gần nhau đâu hòng biết.
Quan Phủ:
- Nhưng mà ngươi biết nó còn trong dinh chăng?
Hồ Lăng:
- Bẩm nó còn ở trong đó chớ đâu.
Quan Phủ:
- Ngươi biết nó không.
Hồ Lăng:
- Bẩm tôi biết nó lắm chớ.
Quan Phủ:
- Hay a! Vậy ta cậy người đi với Đề lại với lính nhà, cầm thơ ta về trình quan Đô
đốc rồi đòi Đào Anh sang qua nha cho ta hỏi.
Hồ Lăng lỡ
lời , nghe dạy mặt mày điến xanh, song không lẽ nói sao, phải chịu làm thinh lãnh
thơ về dinh đặng có trần tình cùng đô đốc.
Hồ Lăng lãnh
thơ cùng Đề lại đi rồi, quan Phủ ngó theo cười mà thầm nói: “Cáo đội lớp hùm đây
ai không kiên sợ. Ta há phải như ai đó sao, khuyên thì đừng lầm tưởng. Dẫu rằng
thật là hùm, phải lối ta cũng dám lùa vô rọ vậy chớ!”
Nói rồi
Quan Phủ dạy dẫn Tô Thường Hậu vào mà gạn hỏi:
- Này, mi
nói con Đào Anh chết rồi, bị chủ nó giết, mi nói vậy mà thiệt hay không, mi rõ
biết hay mi nghe nói?
Tô Thường
Hậu: - Bẩm quan lớn, tớ mắc ở chùa có đâu rõ biết. Lời tôi nói đó là lời Hồ Lăng
khi nọ đó chớ. Mà quan lớn đã chiêm bao thấy Đào Anh hiện về đội trạng bạch,
quan lớn còn nghi lẽ gì.
Quan Phủ:
- Phải, ta không nghĩ Đào Anh còn sống, song ta e vì ta sai đòi Đào Anh, ta e Hồ
Lăng mưu trá. Ta chưa biết mặt Đào Anh, thì biết lấy chi làm bằng mà cải, nếu nó
lẹ trí bắt con thế nữ nào vào mạo hiệu Đào Anh.
Tô Thường
Hậu: - Bẩm quan lớn nghi vậy cũng có lí, nhưng mà không sao, nếu quan lớn chẳng
chê tôi xin dâng một kế. Nếu quả Hồ Lăng mưu tính, bắt thế nữ thế vào, thì tôi
có kế làm cho lộ mối.
Quan Phủ:
- Kế chi ? Phụ nhỉ thử coi cao thấp ?
Tô Thường
Hậu bước lại kề bàn quan Phủ mà nói nhỏ và dặn nếu Hồ Lăng về mà có dẫn Đào
Anh, quan lớn dạy dẫn tôi vào ra oai khoát nạt, thịnh nộ tôi mới hỏi như vầy như
vầy; rồi để mặc tôi khai sao thì khai, tự nhiên giối kia lòi giả. Quan Phủ khen
hay, rồi dạy Tô Thường Hậu ra ngoài ngồi đợi.
Ngồi đợi
giây phúc, hẳn thật chỗ nghi của quan Phủ không sai, Hồ Lăng cùng Đề lại trở về
có dắt một nàng cũng trong thế nữ. Đem vào trình với quan Phủ con đó là Đào
Anh. Thật là tuồng hát có một đoạn diễu cợt lạ lùng mà quan Phủ cười tỉnh nói sai
giả hình chưa biết. Ngài liền dạy quân dẫn Hồ Lăng ra ngoài, để cho ngài gạn hỏi
Đào Anh cho thấu đáo kẻ răng chơn tóc.
Hồ Lăng
ra rồi, ngài mới hỏi Đào Anh:
- Mi là Đào
Anh thế nữ bên dinh đô đốc phải không ?
Thế nữ: -
Bẩm phải, tiện tì tên thiệt là Đào Anh, ở hậu dinh đô đốc.
Quan Phủ: - Mi còn có tên chi nữa không?
Thế nữ: -
Bẩm không.
Quan Phủ:
- Mi có quen biết chi với Tô Thường Hậu chăng ?
Thế nữ: -
Bẩm con chưa biết Tô Thường Hậu là ai.
Quan Phủ:
- Nếu mi là thế nữ trong dinh, lí nào mi không biết Tô Thường Hậu là một tay
thiếu niên nam tử, lúc đô đốc mắc đi dẹp giặc, lịnh phu nhân còn ở dinh một mình,
nó thường hay sớm tối ra vào, khi bán ngọc, khi dâng ngọc?
Thế nữ: -
Bẩm quan lớn con chưa quen biết Tô Thường Hậu.
Quan Phủ:
- Mà mi biết người bán ngọc chăng?
Thế nữ: -
Bẩm quan lớn con có biết mặt.
Quan Phủ:
- Sao nó khai rằng quen biết với mi lắm, nhờ mi tiến dẫn mà vào thấu lịnh phu
nhân.
Thế nữ: -
Bẩm quan lớn người nói sao chớ phận con là tôi đòi, mắc lo giữ phận tôi đòi,
khi người vào bán ngọc, thấy thì hay thấy chớ không hay làm quen lắm lời.
Quan Phủ:
- Mà mi thiệt là Đào Anh chăng?
Thế nữ: -
Bẩm thật.
Quan phủ:
- Lạ dữ a! Hai đàng khai khác. Vậy để ta đòi Tô Thường Hậu ra đây đối diện. Thôi
ngươi ngồi dẹp lại một bên bàn kia mà nghe.
Nói rồi
quan Phủ cho đòi dẫn Tô Thường Hậu vào Tô Thường Hậu vừa ló mặt vào, Quan Phủ vỗ
bàn ra oai thịnh nộ.
Quan Phủ
mới hỏi:
- Tô Thường
Hậu, mi đã khai rằng mi biết rõ Đào Anh, việc cạy hòm trộn ngọc cắp châu có Đào
Anh tư thung với mi mà chỉ mưu bày kế, sao nay ta hỏi Đào Anh lại nói không hề
quen biết với mi lần nào, dầu khi ngươi vào dinh bán ngọc cho Hồ phu nhân Đào
Anh cũng chẳng hề quen biết?
Tô Thường
Hậu:
- Bẩm
quan lớn rõ ràng Đào Anh sợ tội mà chối đó thôi, chớ thật, buổi tôi vào dinh bán
ngọc, tôi chẳng hề quen biết với ai khác hơn Đào Anh, lần lần đôi lứa tư thung
với nhau cho tới lúc Hồ đô đốc dẹp giặc trở về nên nổi gối chăn chia cách. Không
gặp nhau yêu ấp nhau như buổi ban đầu, thương nhớ nhau nên có thơ nhắn tin cá
nhăn nhe, ấy là thơ từ nạp giữa đường phải nào nói ngược. Đến khi Hồ phu nhân
chẳng may qua đời đi rồi, Đào Anh chắc mình không còn ở trong dinh lâu nữa, quyết
vầy cùng tôi, cửu thất hửu gia, Đào Anh mới tư tình cùng tôi cạy hòm trộm ngọc,
chỉ cho tôi cắp cho đặng châu báu trong hòm mạng để gây sự nghiệp cho nên; thơ
của Đào Anh mà xuối mưu cũng còn kia, tôi đã có nạp rồi, bằng chẳng tôi có biết
mà lấy.
Tô Thường
Hậu khai rồi, Quan Phủ xây lại ngó thế nữ mà quở van, lại nói:
- Đào Anh
tội lỗi rõ ràng, đủ đáng phân cang còn chi nữa mà la oan than ức!
Thế nữ
nghe rõ trước sau, mặt xanh như chàm, thất kinh hồn vía, đã vậy còn bị quan Phủ
quở phạt hăm he, nàng lại càng sợ rung, lật đật dứng dậy ra giữa mà bẩm rằng:
- Bẩm
quan lớn, xin dạy Tô Thường Hậu nhìn lại cho kĩ kẻo lầm. Nếu quả có Đào Anh tư
thung với gian nhân thơ qua thơ lại xuôi mưu trộm báu trong hòm, thì là Đào Anh
kia, chớ phải Đào Anh này, tuy cũng là Đào Anh mà chẳng phải tình nhân của Tô
Thường Hậu.
Quan Phủ:
- Nói vậy trong dinh còn có tên Đào Anh khác nữa sao?
Thế nữ: -
Bẩm có, Đào Anh đó là tay yêu dùng của Hồ phu nhân, thường ở một bên Hồ phu nhân
mà chờ sai khiến.
Quan Phủ:
- Đào Anh đó bây giờ ở đâu?
Thế nữ: -
Bẩm Đào Anh đó đã mất rồi, nên mới có lệnh dạy tôi phải vào mà thay thế.
Quan Phủ:
- Nói vậy vì sự thay thế ấy mà mi cải danh là Đào Anh kì trung mi có tên thiệt
của mi khác nữa phải không?
Thế nữ: -
Bẩm quả vậy; vì sự thay thế ấy mà tiện tì phải chịu lấy tên Đào Anh, chớ tên
thiệt của tiện tì chẳng phải là Đào Anh mà rõ là Giáng Tuyết.
Quan Phủ;
- Hay a! Tại vậy nên Tô Thường Hậu không thấy mặt mi mà lầm cũng phải. Bây giờ
ta tin thật không phải mi, song mi phải khai ngay cho ta biết tại sao con Đào
Anh thiệt tại sao mà chết.
Giáng Tuyết:
- Bẩm
quan lớn, nghe nói Đào Anh chết thì hay chết chớ ít ai rõ tại sao mà chết. Nhưng
mà một thế nữ phục sự Hồ phu nhân, có chết thì tại số trời không ai cãi đặng.
Quan Phủ:
- Ta biết
mi có tình ngay, ta khen mi và muốn tha mi về bây giờ, nếu mi không giữ lấy mực
mà khai thật hết cho ta tường những đều ta đã hay biết rõ thì ta e cho mi phải
bị tội vạ tràng mà bất năng hồi cố đa con! Mi phải biết tại sao mà con Đào Anh
thác, ngày nay thiên hạ đều hay, cho đến Tô Thường Hậu là tình nhân của nó cũng
đã có khai, mi còn toan dấu dím ?
Giáng Tuyết:
- Bẩm quan lớn, thật sự khi Đào Anh chết thì hay chết, không ai rõ cớ chi, chớ
tiện tì mô dám giấu.
Quan Phủ:
- Rồi từ ấy những nay không khi nào mi nghe ai nói lại sao?
Giáng Tuyết:
- Bẩm, tiện tì có nghe song chỗ ấy nghe không lấy chi làm chắc.
Quan Phủ:
- Mi nghe người nói sao?
Giáng Tuyết:
- Bẩm quan lớn tiện tì có nghe rằng Đào Anh bị …
Quan Phủ:
- Có phải bị nghi tình mà giết bỏ vậy chăng?
Giáng Tuyết:
- Bẩm phải vậy.
Quan Phủ:
- Nghi tình cách nào, giết cách nào, mi nghe thuật cho ta nghe coi có y lời Hồ
Lăng khai hay không?
Giáng Tuyết:
- Bẩm quan lớn, vì cùng chung một dinh Hồ Lăng nghe sao, tiện tì nghe y vậy.
Quan Phủ:
- Lời mi nói phải, song ta muốn nghe coi Hồ Lăng có gian dối chút nào không?
Giáng Tuyết:
- Bẩm quan lớn, sự nghi tình đấy bởi khi Hồ đô đốc bang sư, về tới dinh vào phòng
còn thấy bãi nước miếng nơi đầu giường, xem ra nước miếng đàn ông, hỏi Hồ phu
nhân chối ngược. Tánh sâu sắc nước đời nghe Hồ phu nhân chối vậy, ngài liền bỏ
qua, nhưng mà ngài không bỏ luôn, ngài ghi chớ để chờ khi gạn hỏi. Kế đó Hồ phu
nhân đi cúng chùa. Hồ đô đốc ở nhà một mình, sai Đào Anh bẻ hoa, ngài mới ra chặn
hỏi. Vườn vắng vẻ có ai, bởi thấy Hồ đô đốc hỏi mà có gươm cầm tay, hăm he đòi
giết, nếu Đào Anh giấu giếm một lời. Đào Anh lúc cùng chẳng đã biết sao phải
khai ngay, nỗi tâm sự của bà từ ông bước ra, và những khi bà ở nhà, chích bóng
cô phòng sanh sự loan chung phượng chạ. Đào Anh vẻ cho tới hình người bán ngọc
giả gái vào ra, cho đến khi ông về nhà, bà ôm lòng đòi đoạn gần xa, bà mới giả
việc cúng chùa, cho có thể bướm hoa tương hội.
Tưởng
khai thật hết mà đặng Hồ đô đốc tha, dè đâu khai rồi, Hồ Đô đốc lại sợ để Đào
Anh mà lậu cơ mưu, vì ngài tính kế trả cừu, nên ngài mới nhẫn tâm hạ thủ. Giết
rồi ngài quăng thây Đào Anh xuống hồ, phó mặc bèo sen chôn lấp. Giết Đào Anh rồi
ngài quyết ý giết Hồ phu nhân với Tô Thường Hậu. Tưởng ngài có quyền giết bao
giờ cũng đặng; nhưng ngài không muốn giết liền cho nhơ, ngài muốn làm cho rõ mặt
phi thường, cho Tô Thường Hậu phải bị tan xương nát thịt; nên ngài chờ Hồ phu
nhân về, dối bày chuyện tình tệ của Đào Anh, nên ngài giận đuổi Đào Anh với Hồ
Lăng mà chưa an lòng, ngài còn muốn theo tàn sát. Hồ phu nhân ngỡ thật giáng
can, nào dè ngài đã sai Hồ Lăng, giả hình tới Bảo Anh, xin nương náu mà dọ tin
Tô Thường Hậu. Nhờ có vậy, ngài mới rõ thấu những khi nào Hồ phu nhân còn đến
chùa Bảo Anh to nhỏ cùng tình nhân. Ngài giận lắm song ngài kết oán thù thâm để
dạ chờ khi rửa hận. Một đêm kia vợ chồng chén tạc chén thù cùng nhau trong phòng,
bộ ngài nhờ lúc hết rượu sai Hồ phu nhân xuống hầm, cùng trên tới dưới mà chiếc
thêm; rồi ngài đánh mò theo sau mà ra tay nên lúc gần sáng ngài tri hô mất Hồ
phu nhân, hối đoàn thế nữ chạy đi kiếm khắp hết trong ngoài, cùng trên tới dưới.
Kiếm không thấy Hồ phu nhân chốn nào. Chừng vào hầm rượu kiếm mới gặp thây Hồ
phu nhân, chết một cách thảm thiết vô cùng, đã chết trong mái rượu mà thây lại
trồng chuối ngược. Ngài khóc than Hồ phu nhân, nói Hồ phu nhân rủi trật tay nên
nông nỗi; Ngài là vị quan Đô đốc, nói vậy hay vậy, nào ai dám cãi tiếng chi.
Khi liệm thây rồi, ngài dạy không chôn, đình đem gửi trên chùa quàng để chờ ngày
chờ tháng. Tưởng thật vậy ai dè là kế chi. Ít ngày nghe Tô Thường Hậu cạy hòm
phu nhân mà trộm châu báu ngọc ngà, chừng ấy ai mới biết, trơ mắt nhìn nhau mà
hít hà chắc lưỡi.
Quan Phủ:
- Khoan! Mi nói chừng ấy ai nấy biết trơ mắt nhìn nhàu mà hít hà chắc lưỡi, chẳng
hay mi nói biết giống chi, biết sự gì mi hãy nói huỵch ra cho ta hẳn thấu.
Giáng Tuyết:
- Bẩm quan lớn tiện tì muốn nói biết là oan, biết Tô Thường Hậu bị vu oan vì nỗi
tình kia sanh oán chớ biết giống chi.
Quan Phủ:
- Tại sao mi biết vì tình kia sanh oán, nên bị vu oan, chớ thật Tô Thường Hậu
không lòng gian giảo.
Giáng Tuyết:
- Bẩm, Tô Thường Hậu là tình nhân, nghe Hồ phu nhân thác, thương tiếc không biết,
chớ dạ nào đành làm sự tế vi như thế. Nếu quả Tô Thường Hậu mà chịu có cạy hòm
trộm ngọc, có Đào Anh chỉ kế bày mưu thì tại Tô Thường Hậu bị khảo kẹp, chịu không
nỗi mà phải cam chịu lấy cho rồi, thà chết hơn là ngồi mà chịu khảo.
Quan Phủ:
- Ta cảm ân mi khai rõ đầu đuôi. Vậy mi hãy tạm bước ra ngồi ngoài, chờ ta hỏi
Hồ Lăng coi có điều gì đối cãi.
Giáng Tuyết
với Tô Thường Hậu bước ra. Bấy giờ quan Phủ mới dạy đòi Hồ Lăng vào, cho ngài cật
vấn, Hồ Lăng bước vào, quan Phủ ngó Hồ Lăng mà cười và nói:
- Hồ Lăng,
mi có làm tới chức Đội trưởng, mi biết chốn nha môn chẳng phải chỗ chơi, cớ sao
mi dám làm chuyện bưng mắt bắt chim phỉnh gạt ta như thế hử?
Hồ Lăng
nghe qua lấy làm lạ mới ngước mặt trơ mắt, dường muốn hỏi quan Phủ thì đã nghe
quan Phủ nói tiếp:
- Thật
ngươi muốn giễu ta, nên ngươi dám đem con Giáng Tuyết đến mà dối làm Đào Anh là
con tì nữ đã bị tay chủ gia tận sát. Cái tội khi quan ấy không có chỗ dung thứ.
Hồ Lăng:
- Bẩm quan lớn, ai nói con thế nữ của Đô dốc gửi đó là không phải Đào Anh, thì
người ấy là người nhục mạ quan đô đốc. Ai nói con Đào Anh bị chủ giết, thì người
ấy là vu oan giá họa cho Hồ đại nhân. Mà quan lớn rõ biết Hồ đại nhân là một vị
tướng quân bên thượng liêu, đang cơn li loạn này đây đã ra tài đông xông tây đột,
đáng tay rường cột nước nhà, ai nói hai đều tội lỗi ấy, tưởng quan Đô đốc cũng
không dung tha mạng!
Trang Tử
Minh nghe dứt, phát đại nộ, vỗ bàn mà khoát nạt Hồ Lăng rằng:
- Ngươi dám
hăm dọa ta là một vị minh oan của triều đình. Á lịnh ngồi đây phân xử nữa sao?
Ngươi tưởng đâu ta là người sợ mạnh hiếp yếu hay sao mà ngươi đem quyền thế của
đô đốc ra mà hăm dọa ta. Ta nói cho mi biết, nếu mi chẳng khai thiệt sự con ĐàoAnh
bị tay ai giết, ai giết Hồ phu nhân, ai bày kế độc, chỉ mưu sâu cho ngươi tới
chùa Bảo Anh cạy hòm lấy ngọc mà vu oan cho Tô Thường Hậu thì ta quyết hẳn truyền
quân căn duổi nọc mi ra mà tra cho đến bao giờ mi khai thiệt thì ta mới nghe
cho.
Hồ Lăng
nghe tiếng khảng khái, bụng đã sợ hết hồn; song còn gượng lời, nghỉ cho trong tỉnh
không còn ai có quyền thế lớn hơn Hồ Đô đốc, nên sợ thì sợ mà Hồ Lăng cũng còn
làm gang nói trả treo rằng:
- Tôi tội
gì, ai dám tra khảo thì tra khảo thử coi; tôi có quản gì thân tôi, e cho ai vì
chút lợi trước mắt mà phụ nghĩa anh em đồng liêu, đến chừng vàng đá không phân ăn
năn thì đã muộn thôi chớ.
Quan phủ:
- À há, mi lấy oai thế của Hồ đô đốc mà hăm dọa
ta, hễ ta mà tra khảo mi, thì chủ mi là Hồ đô đốc kéo quân tới đây, không phân
vàng đá. Ta muốn biết thế lực của mi ra sao, nên ta sẵn lòng tra mi lắm. Nói vậy
mi quyết chẳng khai thiệt sự Đào Anh phải chăng? Quân bây đâu, hãy bắt Hồ Lăng
căng ra tra khảo giùm cho ta thử coi đến chừng nào nó nói.
Quân lính
vâng lịnh bắt Hồ Lăng căng ra; Hồ Lăng cượng lí không vâng, song ngó quất ngó
quanh, trước sau một mình cượng sao cho nỗi. Cho nên cượng thì cượng vậy đó thôi,
rồi ra không qua phép. Đi cũng bị quân kéo cỗ đi ra căng duổi nọc, Bị khảo chưa
đầy mười roi. Hồ Lăng khóc la một cách dữ tợn, kêu Hồ đô dốc làm rung động hết
cả Phủ. Quân đánh riết một hồi, hết khóc la mà cũng hết kêu Hồ đô đốc, Hồ Lăng
túng phải xuống nước chiều lụy xin tha. Lại nói:
- Quan Phủ
dầu không tưởng nghĩa cũng nghĩ tình Hồ đô đốc là chủ tôi, chớ có lí đâu quan
Phủ chẳng vị chút nào, đánh tôi không kiên chủ.
Quan Phủ
cười mà rằng:
- Đánh tớ
kiên chủ là việc tư kia kìa; chí như việc công, quân pháp bất vị thân, lí đâu
ta dám làm đều bất minh bất chánh. Nếu mi muốn ta dung ngươi, thì khai ngay đi,
khó gì mà không chịu. Chuyện Đào Anh bị giết làm sao, Hồ phu nhân bị chết thế nào,
mi phao cho Tô Thường Hậu làm sao cứ khai thiệt thì ta tha thứ. Mi đừng tưởng
con Đào Anh giả của mi dẫn tới phỉnh ta đó nó chưa khai thật mà lầm. Nếu mi không
tin ta dẫn nó ra nói cho mi biết.
Nói rồi
quan Phủ dạy dẫn Giáng Tuyết vào, Giáng Tuyết bước vô cúi đầu, quan Phủ dạy ngước
mặt lên coi có biết Hồ Lăng cùng chẳng. Hai đàng nhìn mặt nhau, quan Phủ mới hỏi:
- Thế nữ,
mi tên họ là chi; có phải tên là Đào Anh như lời Hồ Lăng khai trước?
Thế nữ: -
Bẩm quan lớn, tiện tì là Giáng Tuyết chẳng phải tự là Đào Anh; Đào Anh đã thác
rồi Hồ Lăng dạy tôi vào thế mặt mà tròng tên đổi họ.
Quan Phủ:
- Đào Anh chết rồi đó vì sao mà chết, bị ai giết hay là chết cách nào ?
Giáng Tuyết:
- Bẩm quan lớn, ngày nọ chính mình Hồ Lăng nói với tiện nữ rằng Đào Anh bị chủ
nghi tình chặn giết giữa vườn ném thây xuống nước.
Quan Phủ:
- Đó mi nghe không Hồ Lăng? Còn gì mà mi chưa chịu khai ngay cho ta xử án?
Hồ Lăng:
- Bẩm quan lớn quan lớn, nỡ nào chẳng vị tình chủ tôi là Hồ Đô đốc đi nghe lời
nói mồ hồ của một con tiện tì mà bắt tôi khảo tra tội nghiệp.
Quan Phủ:
- Thế thì mi quyết hẳn chẳng khai ngay nữa chi?
Hồ Lăng:
- Bẩm quan lớn, lẽ nào tớ lại dám lấy chuyện không làm có mà vu oan cho chủ.
Quan Phủ:
- Vậy thì ta phải dạy quân tra khảo mi: cái là tại nơi mi cừ khôi, mựa trách ta
sâu độc, đa nhé!
- Quân bây
đâu đem Hồ Lăng ra khảo nó coi có chịu khai chăng?
Phán chưa dứt lời, quân chưa kịp vâng,
có kẻ bước vào bẩm quan Phủ có Hồ đô đốc đến, còn chờ ngoài ngỏ. Quan Phủ vội vàng
sửa áo bước ra, và đi và khoát biểu quân dẹp việc tấn tra, dẫn hết đem giam chờ
lịnh.
…………………….
- 0 –
Một đoạn
trích tiểu thuyết Oán hồng quần ngoại sử
của Lê Hoằng Mưu được sáng tác năm 1921, cho thấy tác giả sử dụng văn biền ngẫu,
Người bán ngọc sáng tác năm 1931, tác
giả đã tiến bộ hơn, áp dụng kỹ thuật hành văn gần với truyện tàu thời bấy giờ.
Lãng Tử với
tựa đề Con voi già trong mục “Nợ văn” trên tờ tuần báo Mai xuất
bản tại Sàigòn số 68, ngày 6-1-1939, đã viết về nhà văn Lê Hoằng Mưu như sau:
“Đó là một nhà viết báo kỳ cựu trong gần ba
mươi năm nay hằng mục kích những cái vinh, cái nhục của nghề và bao nhiêu chế độ
đổi thay (…). Buổi ấy, Lê quân là người có "tài sắc" nên tiếng tăm nổi
dậy như cồn. Lời văn cũng lý luận đã lôi cuốn, hấp dẫn, chinh phục cả xứ Nam Kỳ
và cả thế hệ thanh niên hồi đó (…) Tài bút chiến của ông làm khuất phục cả các
bạn cùng nghề thuở nọ. Nói rằng khét tiếng một độ rất lâu trong báo giới xứ
này, thì cái danh dự ấy chỉ riêng ông có".
Chú thích:
(*) Về năm sinh và năm mất của tác giả, ông Bùi Đức Tịnh ghi theo trí nhớ những bạn bè của ông Lê Hoằng Mưu. Bùi Đức Tịnh, Phần đóng góp của văn học miền Nam: Những bước đầu của báo chí tiểu thuyết và thơ mới, Lửa Thiêng, Sàigòn, 1975.
(**) Ghi đúng nguyên văn.
Tài liệu tham khảo:
- Lê Hoằng Mưu Web: bentre.gov.vn
- Người bán ngọc Nguyễn Q. Thắng Văn Học Việt Nam Tập 1, Văn Học, Việt Nam, 2007
- Người bán ngọc Nguyễn Q. Thắng Văn Học Việt Nam Tập 1, Văn Học, Việt Nam, 2007
No comments:
Post a Comment