Mười mấy năm trước, tôi về Việt Nam ăn thôi nôi cho đứa cháu đầu tiên, đó là thằng con đầu lòng con gái lớn của tôi. Bên nội cháu cho rằng tôi biết cúng kiếng, nhờ tôi đứng ra cúng vái dùm tại nhà của họ.
Tôi nhớ hồi nhỏ ở nhà chú đi học, chú tôi cúng thôi nôi cho con, cúng chè, xôi, tôi nhớ chú vái “ … tạ lễ mười hai Mụ bà, mười ba đức Thầy trong năm qua đã độ cho bé khỏe mạnh, biết cười, biết nói, xin độ cho bé ăn ngon, chóng lớn, học hành thông minh …” . Rồi chú bẻ một cái hoa trong bình, đưa đến miệng con nói: “ xin chư vị độ cho con gái, mở miệng ra cười như hoa, nói lời dịu ngọt, hiếu thuận, được mọi người yêu mến.”
Buổi trưa cúng kiếng ở nhà, cúng trên bàn thờ ông bà hoa quả và chè, xôi. Đặc biệt trên bàn cúng đầy tháng cho cháu một bình hoa to, một dĩa lớn trái cây, mười hai chén chè cho Mụ bà và 13 chén xôi cho các đức Thầy.
Lại chuẩn bị cho cháu một cái mâm bày biện: quyển sổ tay, cây bút chì, cây kéo, cái lược, cái gương, một nắm xôi, tôi nhớ ở nhà quê người ta còn để nắm đất. Đây là những món người ta dùng xem đứa bé thích món nào, hay có khuynh hướng phát triển thế nào? Chẳng hạn như sổ tay có khuynh hướng trở thành văn thi sĩ, chọn cây bút thích học hành, cây kéo thích vá may thêu thùa, cái gương, cái lược thích trang điểm ăn mặc chưng dọn, nắm xôi thích ăn uống, cục đất thích làm nghề nông.
Thằng cháu ngoại tôi sau khi cúng, cho nó ngồi xuống nền nhà, để cái mâm đã bày mấy món tượng trưng, nó bò lại bốc quyển sổ tay, mẹ nó thử lấy quyển sổ từ trong tay nó ra, liệng đi xa chừng 1 thước, nó cũng bò tới lấy. Ông bà nội cháu hài lòng nói:
- Thằng này bỏ nghề nhà, buôn bán bông hoa, cây cảnh, thích sách vở, muốn thành văn nhân thi sĩ!
Nó là cháu nội đầu tiên, nên được nâng niu, buổi chiều ông bà nội và cha mẹ cháu mời một ít khách, đãi tiệc Thôi Nôi cho cháu ở nhà hàng nổi trên bến sông Sàigòn.
Từ đó cho đến sau này, tôi biết cúng đầy tháng hay cúng giáp năm cho đứa bé gọi là cúng Thôi Nôi là cúng tạ lễ cho mười hai bà mụ đã nắn tay chân, tạo hình hài cho đứa bé, bảo hộ cho nó được tròn tháng, tròn năm. Còn dạy cho đứa bé biết khóc, biết cười, biết đòi bú mớm, ẩm bồng, phân biệt lạ quen là do mười ba ông Thầy.
Xưa kia nuôi một đứa trẻ sơ sinh cho đầy tháng cũng như tròn năm là rất khó. Cho nên người ta tin có sự phò hộ của các đấng vô hình. Lúc bà mẹ nằm cử, người ta còn treo ở cửa ra vào một nhánh xương rồng, lổm chổm đầy gai, một gói trầu têm vôi với cau, vài cái vỏ ốc bưu, để trấn ếm trừ khử tà ma. Trong năm, đứa bé đi xa khi về bên nội, bên ngoại người ta còn dùng lọ nghẹ bôi lên trán, có người cho đó là làm dấu, có người cho là làm cho nó xấu xí đi, ra đường khỏi bị người khuất mày khuất mặt quở. Đó chẳng qua chỉ là sự mê tín.
Còn cúng đầy năm gọi là thôi nôi, vì đứa bé khi còn nhỏ nuôi nó trong cái nôi, tránh khi nó lăn, nó bò bị té trầy da, sức trán, có khi thương tật tay chân, khi đủ năm có thể không cần đến cái nôi, do đó gọi là thôi nôi.
Cúng thôi nôi, người ta thường nghe người xưa nói cúng “mười hai Mụ bà, mười ba đức Thầy” , người ta tìm thấy có gốc tích mười hai bà mụ. Đó là:
- Mụ bà Trần Tứ Nương, coi việc sanh đẻ (chú sanh)
- Mụ bà Vạn Tứ Nương, coi việc thai nghén (chủ thai)
- Mụ bà Lâm Cửu Nương, coi việc thụ thai (thủ thai)
- Mụ bà Lưu Thất Nương, coi việc nặn hình hài nam, nữ (chủ giới tính).
- Mụ bà Lâm Nhất Nương, coi việc chăm sóc bào thai (an thai)
- Mụ bà Lý Đại Nương, coi việc chuyển dạ (chuyển sanh)
- Mụ bà Hứa Đại Nương, coi việc khai hoa nở nhụy (hộ sản)
- Mụ bà Cao Tứ Nương, coi việc ở cữ (dưỡng sanh)
- Mụ bà Tăng Ngũ Nương, coi việc chăm sóc trẻ sơ sinh (bảo tống)
- Mụ bà Mã Ngũ Nương, coi việc ẵm bồng con trẻ (tống tử)
- Mụ bà Trúc Ngũ Nương, coi việc giữ trẻ (bảo tử)
- Mụ bà Nguyễn Tam Nương, coi chứng kiến và giám sát việc sinh đẻ (giám sinh).
Nhưng người ta không tìm ra gốc tích của mười ba đức Thầy, nên có một bài viết của Viện Nghiên Cứu Văn Hóa cho không phải mười ba đức thầy, mà chỉ có ba ông thầy, đó là Tiên sư, Thánh sư và Tổ sư.
Tiên sư là vị thầy đầu tiên, Thánh sư là vị thầy được tôn xưng, phong lên thánh và Tổ sư là vị Tổ của một ngành nghề. Đó là người ta thay thế mười ba thành ra ba. Do vậy, tôi nghĩ phải tìm kiếm truy nguyên, vì ai cũng nghe hay được lưu truyền, ngay người viết bài khảo cứu ấy, cũng biết tín ngưỡng dân gian tin là có mười ba ông thầy.
Theo Gia Định Thông Chí của Trịnh Hoài Đức cúng tạ mười hai bà mụ là tục theo người Trung Hoa.
Mười hai bà mụ có tượng thờ ở chùa Ngọc Hoàng, đất Hộ, Đakao, nay là chùa Phước Hải, 73 Mai Thị Lựu, Phường Đa Kao, Quận 1, ở Hội An tại chùa Phúc Kiến cũng có tượng thờ mười hai bà mụ.
Theo sự tìm hiểu của Mai Thục qua bài viết Bút Ký Hội An thì xưa kia người Hoa đến Hội An lập chùa Phước Kiến, đầu tiên lợp lá vào năm 1697, đến năm 1757 mới lợp ngói, người Hoa tin tưởng Thiên Hậu Thánh Mẫu hộ trì họ khi vượt bển sang Việt Nam nên mang tượng từ Phúc Kiến sang thờ.
Xưa có chùa Bà Mụ ông Chú lập ở ranh Cẩm Phố và Thanh Hà vào năm 1626, sau dời về Tây Bắc Hội An, nơi đây đất đai rộng nên chùa lập cung Cẩm Hà bên trái chùa để thờ đức Bảo Sanh Đại Đế cùng ba mươi sáu vị thần trong truyện Phong Thần và bên phải chùa lập cung Hải Bình thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu cùng mười hai bà mụ gọi là Sanh Thai Thập Nhị Tiên Nương, nơi đây có tên là Cẩm Hải Nhị Cung, người dân quanh vùng thường gọi là chùa Bà Mụ Ông Chú. Sau chỉ gọi là Chùa Bà Mụ, vì chùa lâu năm không được tu bổ, thấy không an toàn phải hạ xuống, hiến đất cho Giáo Hội Phật Giáo tỉnh Quảng Nam xây dựng trường Trung Học Bồ Đề.
Theo bài viết của ông Trương Duy Cường (hậu duệ của sáu họ trong mười ông người Hoa đến lập nghiệp ở Quảng Nam là Trương, Chu, Huỳnh, Khâm, Thuấn, Thái) như sau:
Hiện nay Chùa Bà Mụ chỉ còn hai cổng là nguyên vẹn, được chức quyền địa phương bảo quản và liệt vào hạng "Di Tích Lịch Sử" của thị xã Hội An. Còn tượng 12 Bà Mụ được chuyển đến thờ tại chùa Phúc Kiến - tức Kim Sơn Tự - Tượng Tam Thập Lục Tướng được ký gởi tại chùa Chúc Thánh (phía Bắc cách trung tâm thị xã chừng 2 cây số). Các tượng khắc được ký gởi thờ tại Chùa Âm Bổn (do người Triều Châu xây dựng, thờ Phục Tướng Quân Mã Viện).
Trong Bút ký Hội An, tìm hiểu về Chùa Bà Mụ Ông Chú, tác giả Mai Thục đã viết:
Đi tìm giá trị của Chùa Bà Mụ Ông Chú, gặp bài viết của ông Thái Văn Hiếu trên Tạp chí Văn Hóa Hội An số Xuân Đinh Hợi, tôi vừa thỏa mãn sự hiểu biết về Bà Mụ, vừa thêm xót vì Chùa đã mất.
Dân Phố Hội gọi “Chùa Bà Mụ”, nhưng nơi đây không chỉ thờ Bà Mụ mà còn thờ Ông Chú nữa. Đời Hy Tông Hiếu Văn Hoàng Đế năm Bính Dần (1626) xây hai cung Cẩm Hải ở nơi tiếp giáp hai xã Cẩm Phô- Thanh Hà, rồi dời về đây thay chỗ đất tốt hơn. Xưa chùa có hai cung. Cung Cẩm Hà ở bên tả thờ Đức Bảo Sanh (Ông Chú và mười hai vị tướng được phong thần). Cung Hải Bình bên hữu thờ Thiên Hậu, bà Chúa Thiên Thai và Mười hai bà Mụ. Cung cách bài trí nơi thờ cũng mười hai vị thần và Mười hai bà Mụ mang tính triết lý Á- Đông, định vị theo nguyên tắc: Đực- Cái, Trống- Mái. Thuyết Âm- Dương dựa theo: Lục Kinh, Lục Tánh, Can Chi… Tượng Mười hai bà Mụ đặt dưới tượng bà Chúa Thiên Thai, xếp thành hàng ngang hai cấp, trên dưới. Tượng mỗi bà Mụ một dáng điệu, tình cảm tinh tế: bà bồng, bà bế, bà ẵm, bà cõng, bà địu… Tình tượng ấu nhi sinh động: đứa nằm ngửa, đứa nằm nghiêng, đứa bú ngồi được ẵm trên tay bà Mụ , miệng ngậm vú, bầu sữa căng tròn, bà Mụ nở nụ cười tự hào hãnh diện “ làm mẹ thế gian”.
Cung thờ Mười hai bà Mụ theo biểu tượng Can Chi. Ấu nhi sinh thành, lấy Can Chi để tính tuổi: Tý, Sửu, Dần, Mão…Mỗi Chi hợp với một Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh…thành tuổi Mụ: Giáp Tý, Ất Sửu…
Cung Cẩm Hà thờ mười hai vị thần (Ông Chú) biểu tượng của Lục Kinh, Lục Tánh. Các vị thần được điêu khắc khá độc đáo, hiện trên nét mặt mỗi người một tính cách: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Lạc, Ai… Mười hai vị thần là mười hai ông thầy dạy dỗ cho ấu nhi, từ bước đi chập chững cho đến khi bước vào ngưỡng cửa trường học và trường đời:
- Học Kinh Dịch để biết được sự biến hóa của đất trời, Âm- Dương, bốn mùa, Ngũ hành…
- Học Kinh Lễ, dạy đạo đức làm người, tu thân, tề gia, trị quốc, kỷ cương, luật pháp.
- Kinh Thư luận bàn, nghiên cứu các triều đại vua chúa thời trước, hiểu được cái hư, cái thực, xấu, tốt để có đường lối chính trị đúng. Người trị quốc lấy dân làm gốc, dân lấy ngũ cốc làm đầu. Dân no nước được yên bình.
- Kinh Thi chép thiên thời địa lý, núi sông, hang, suối, chim muông, cây cỏ, trống mái, đực cái, muôn thú.
- Kinh Nhạc để khỏa nỗi niềm, hòa hợp cuộc sống, thêm niềm vui vị tha, hỉ xả.
- Kinh Xuân Thu có mấy vạn chữ tới mấy ngàn. Vạn vật tan hợp đều ở Kinh Xuân Thu. Trước mặt ta có kẻ gièm pha mà ta không biết, sau lưng ta có quân giặc mà ta không hay. Người làm tôi không thể không biết Kinh Xuân Thu, khi gặp việc thường không biết nên ứng xử như thế nào? Gặp việc biến không biết xoay sở ra sao? Làm sao thành người?
Ông Thái Văn Hiếu tâm đắc với sự dạy làm người của cổ nhân mà luận bàn:
“Lục Tánh- người đời ai chẳng có lúc mừng, giận, yêu, ghét, vui, buồn. Sách ghi: Dù là bậc hiền triết, thánh nhân, vĩ nhân, đấng minh quân, trăm lần nghĩ có một lần sai. Dù dân đen dốt nát, trăm lần nói có một lần đúng. Thậm chí kẻ điên, người khùng nói ra thánh hiền cũng phải nghe. Bất luận thời đại nào cái cảnh lẫn lộn: đen/ đỏ, thiện/ ác, trung/ nịnh, tốt/ xấu, vinh quang/ đê hèn… luôn đan xen đồng hành, chèn ép, trừ khử lẫn nhau, khó lường nổi. Nay nó vẫn nhởn nhơ tồn tại, hiển hiện trên đời. Tai hại lắm! Tai hại lắm!
Ta thờ Bà Mụ- Ông Chú cốt mong mọi sinh linh hòa đồng, yên bình, ấm no, hạnh phúc trọn đời
Chùa Bà Mụ Ông Chú nằm trong quần thể di tích Hội An, nay không còn nữa! Tượng Mười hai bà Mụ được đưa về thờ ở chùa Phước Kiến. Tượng mười hai vị thần chỉ còn sáu vị (Lục Tánh) cũng thờ tại đây.
Chùa Bà Mụ Ông Chú giàu tính nhân văn, triết lý Lục Kinh, Lục Tánh, Can Chi là vậy. Thiết nghĩ nay đến lúc cần ưu tiên phục chế, tôn tạo, bởi sau này sẽ là điểm tham quan mang nhiều ý nghĩa sâu sắc trong cuộc sống hiện tại và mai sau”.
Về sự tích Ông Chú hay đức Bảo Sanh Đại Đế như sau:
Về Đức Bảo Sanh Đại Đế, Tương truyền, thần sinh ở Phúc Kiến, thời nhà Tùy, Trung Quốc. Từ nhỏ, ngài được các vị tiên trên núi dạy cho phép tiên và các thuật linh đơn. Đến tuổi thanh niên, ngài kết thân với Lâm Ngạc Nương (người sau này được sắc phong là Thiên Hậu nương nương) nhưng không lập gia đình mà tiêu dao đây đó, bốc thuốc cứu người. Danh tiếng ngài lẫy lừng từ Hoa Hạ xuống Giang Nam.
Hôm, nghe tin thân mẫu lâm bệnh, ngài vội vã về quê nhưng không kịp cứu mẹ già. Từ đó, ngài buồn bã, xếp tất cả sách vở vào hòm khóa lại, còn chìa khóa thì quăng xuống sông Hoàng Hà, lên núi ở ẩn. Một hôm, nghe tiếng kêu cứu thảm thiết, động lòng tìm đến, mới hay người vợ của một ngư phủ đang hồi nguy kịch trong cơn vượt cạn khó khăn. Ngài ra tay cứu giúp. Người ngư phủ hôm sau ra sông Hoàng Hà câu được con cá chép lớn mang lên núi tặng ân nhân. Nhận quà tạ ơn, ngài mang cá ra sông phóng sinh nhưng lạ thấy cá không chịu bơi đi. Ngài đưa tay xuống nước thì trong miệng cá nhả ra chiếc chìa khóa mà hơn mười năm trước ngài đã quẳng đi. Biết là số trời đã định, ngài trở về lấy chiếc hòm cũ và bắt đầu chuyên tâm nghề thuốc, chữa bệnh cứu người. Ngài thác đi người đời tôn là Đức Bảo sanh Đại đế.
Thần Bảo sanh đại đế, vừa là một vị thần của tín ngưỡng dân gian, vừa mang dáng dấp tiêu biểu của Lão giáo. Khi di cư sang các nước Đông Nam Á, người Hoa mang theo vị thần Bảo sanh của mình và được cộng đồng cư dân bản địa cùng tôn thờ.
Như vậy, chúng ta biết người ta cúng Đầy tháng hay Thôi nôi vái cúng mười hai Mụ bà, mười ba đức Thầy là tín ngưỡng dân gian, chịu ảnh hưởng sâu đậm của người Trung Hoa. Mười ba vị Thầy gồm có: 6 Thầy dạy về Lục tính, 6 Thầy dạy về Lục kinh, cộng thêm đức Bảo Sanh.
Để truy tìm nguồn gốc của phong tục, cúng đầy tháng, thôi nôi hay về mười hai mụ bà và mười ba đức thầy. Cúng kiếng ấy do phong tục, tin thần linh có quyền năng vô hạn sinh sát, cho rằng đấy là mê tín cũng phải, cho rằng đây là một tập tục cốt để mừng cha mẹ nuôi được trẻ tròn tháng đầy năm cũng hay. Giữ được phong tục hay là điều đáng giữ nét đẹp của văn hóa Việt Nam ta, mê tín nên trừ.
Vài hôm nữa, tôi sẽ cúng thôi nôi cho đứa cháu ngoại, sẽ cầm hoa “bắt miếng” cho cháu: “Lớn lên cháu cười tươi như hoa, nói thuận nói hòa, nói ngay nói thật, nói rất nhân từ, cho kẻ thương người mến”.
Jackson,TN 10-3-2011