Pages

Friday, October 10, 2025

Công việc của người nông dân ngày trước.

 Để có lúa gạo cho chúng ta ăn người  nông dân phải làm ruộng.

Trước tiên phải cày phá đất, cho lớp đất tốt phơi bày ra ánh nắng và cỏ dại bị đứt gốc rể mà chết đi, không giành sự sống với cây lúa của nhà nông.


Người ta bừa cho đất tơi ra, cỏ dại sè bị đứt gốc rể mà chết.


Sau khi bừa cho đất tơi  ra, người ta sẽ rải hột lúa lên đất, được gọi là xạ lúa.

Sau khi xạ lúa xong, người ta lại bừa thêm lần nữa để đất che dấu hạt lúa lại, không cho chim chóc ăn. 


Cây lúa sẽ phát triển lớn lên trên cánh đồng.

Đến mùa lúa chín, người ta sè gặt lúa,

Đập bó lúa cho rời ra hột lúa.

Ngày nay có máy gặt, đập liên hợp vô bao luôn.

Lấy hột đem về phơi khô rồi xay thành gạo.

Giã gạo cho sạch vỏ lụa, cho được trắng trong

Ngày nay có máy xay lưu động

Hoặc nhà máy có công xuất lớn, xay hàng trăm tấn lúa hàng ngày.


Nhà máy xay lúa ở Cần Thơ Miền Tây Việt Nam

Có gạo, nấu gạo thành cơm chúng ta dùng bữa.

Đó là tất cả những giai đoạn nhà nông vất vả làm ra hạt gạo, thành cơm cho chúng ta ăn, để có đủ sức sống hoạt động, sinh hoạt hàng ngày.

866410102025






 

 

Thursday, October 9, 2025

Trồng dâu nuôi tằm dệt lụa

 Muốn sản xuất tơ lụa, người ta phải trồng dâu


Nuôi tằm

Con Tằm ăn lá dâu

Ươm tơ

Kéo kén

Se sợi


Dệt lụa


Tân Châu ở tỉnh An Giang dệt lụa có tiếng, thành phẩm lụa nhuộm đen có tên là Lãnh Mỹ A sản phâm nầy danh tiếng vì phụ nừ ưa chuộng, vốn là sản phẩm của vùng Tân Châu.

Còn về vải sợi, người ta phải trồng cây bông vải.


Kéo bông thành sợi


Dùng sợi dệt vải


Có lụa, vải chúng ta may áo quần mặc che thân, đấp ấm.

Chúng ta ăn mặc ấm cúng, đẹp đẻ cần phải nhớ ơn những người nông phu trồng dâu, nuôi tằm, trồng cây bông vải và những người thợ dệt, thợ may.

866409102025












Wednesday, October 8, 2025

Hãy sống cho mình

Chúng ta ai cũng nghĩ rằng mình sống cho mình, chúng ta làm để nuôi sống bản thân chúng ta, chúng ta nghĩ vì chúng ta, những điều căn bản đó rất chính xác, rất đúng

Nhưng trên hết, khi nào chúng ta nghĩ ta ăn cho chính ta, ta làm cho chính ta, ta suy vì chính ta. Đó mới chính xác là cho chính ta.

Tuy vậy nhưng trên thực tế rất khó mà sống cho mình bởi vì mỗi người sinh ra đời đều có trước hết là cha mẹ, anh em, cạnh đó là xóm giềng, trên nữa là ông bà là xã hội.

Có những người luôn giúp đỡ những người xung quanh khi những người đó nghèo khó, bệnh tật cần có sự giúp đỡ của người khác. Đó là những việc tốt đáng làm trong xã hội.

Có bài học trong sách giáo khoa khi tôi còn nhỏ được học từ 6, 7 chục năm trước là mỗi người chúng ta sống được là phải nhờ những người nông phu họ trãi nắng dầm mưa, cày cấy để có lúa gạo, thực phẩm cho chúng ta ăn hằng ngày, phải nhờ những người nông phu trồng dâu nuôi tầm, để có những sợi tơ dệt thành những tấm lụa hoặc nhà nông trồng những cây bông vải, có nó dể xe thành sợi, dệt thành những tấm vải, cho chúng ta may áo, may quần. Không có những người đó, chúng ta không có cơm ăn, áo mặc. 

Nói rộng ra, xã hội có nhiều người, mỗi người làm một việc, nhờ đó chúng ta mới có cơm ăn, áo mặc, có phương tiện đi đó đi đây, có giường nệm, mái ấm chăn êm. Ngày nay có điện thoại đem con người lại gần nhau, nói chuyện như đang ở cạnh nhau. Thật là khó tưởng tượng nổi.

Cây bông vải

Ngày nay khoa học, kỹ thuật tiến bộ chúng ta không cần trồng dâu, nuôi tầm, ươm tơ để dệt thành những tấm lụa mới có áo quần để mặc, nhưng chúng ta cũng có vải khác thay thế lụa là, có thể may y phục đẹp và thích hợp với thời đại hơn.

Hãy sống cho chính mình có nghĩa là làm những chi cần thiết cho mình, không cần đến sự khen hay chê của người đời, nhưng luôn phải thích hợp với xã hội, tránh mọi sự rào cản của xã hội vì sự lợi ích chung của mọi người.

Đừng tranh đua với người khác để tránh làm những việc có hại cho xã hội chúng ta đang sống, bởi vì chẳng những làm hại xã hội mà nó cũng sẽ gây tổn hại cho bản thân mình, vì mình là một phần tử của xã hội.

Nhưng trên hết, mỗi cá nhân phải có sự đóng góp cho đời sống xã hội, bởi vì dù muốn dù không chúng ta cũng là một phần tử của xã hội, chúng ta phải có trách nhiệm với xã hội mình đang sống, phải đóng góp một phần của mình để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Đó cũng là sống cho chính mình vậy.

866408102025






Monday, October 6, 2025

Thư cho người quen

 Anh H.

Người Việt mình có cái bệnh "Thấy ai hơn mình thì ghét", nên tìm cách hạ người đó. Thuở tôi mới qua Mỹ là những đợt HO đầu tiên đến đây và những người "mồ côi" không có ai bảo trợ nên tới đây do hội USCC (United States Catholic Charity) bảo lãnh. (Tôi có bà chị qua đây diện con lai năm 1984, nên chị ấy bảo trợ cho tôi) Có 1 lần ở chùa Từ Ân vào năm kia, có vài người khách ở xa đến, trong đó có bạn tù với tôi ở Kà-tum nên tôi đến đó định rước anh ta về nhà ăn cơm chiều, trong lúc trò chuyện tôi có nói tôi đi học tập 2 năm, 2 tháng 20 ngày nhưng tôi đi theo diện HO. Ông Lê Trọng Dương ngồi bên cạnh tôi liền lên tiếng: "Tôi không biết anh đi diện chi, nhưng không phải HO". Ngay sau đó các anh có chương trình đi thăm chùa Chánh Pháp ở Exit 28 trên I 64, nên sau đó tôi có viết bài Tôi đi Mỹ theo diện HO.

 Tôi từ Việt Nam sang Thái Lan, theo danh sách b..., cùng đi với H06, rời Tân Sơn Nhất ngày 2-4-1991, đến sân bay Bangkok cùng ngày, ký giấy nợ cho chuyến bay, rồi vào nhà tù Bộ Nội Vụ Thái Lan ở 1 tuần, sau đó mới đi Mỹ, lúc ở trong nhà tù Bangkok thì ở chung với anh Hạp và anh ruột anh Hạp, nhưng về đây định cư chỉ có anh Hạp còn anh ruột anh ấy được định cư ở đâu tôi không biết.. Khi về đây ngày 10-4-1991 (do chuyến bay bị trục trặc phải chuyển cảnh ngủ 1 đêm ở Minnosota),  tôi ở nhà do chị tôi thuê sẵn ở tại chung cư Douglass Park (phía sau nhà thờ Saint John Vianney), hôm sau Nguyễn Thanh Tùng, làm cho hội USCC đến cho biết tôi được hưởng diện HO, nay anh Tùng còn nhớ, hôm trước gặp tôi anh còn nhắc.

              Từ trái: A Sang, Tùng, Tông, Hải, Hào, 2 người quay lưng: Lê Trọng Dương, La Diệu Hưng

Năm nào đó, người ta ghét tôi, vu oan cho tôi theo VC khi tôi đang làm Tổng Thư Ký HO còn anh Trần Ngọc Toản làm Chủ tịch sau khi anh Đỗ Nam Kỳ vì sức khỏe nên không ra tranh cử. Tôi từ chức đêm hết hồ sơ giao cho anh Toản và ngồi nói chuyện với anh chừng 1 giờ (vào buổi tối) - Vậy mà người ta vu oan cho tôi là tôi đem hồ sơ giao cho anh Toản rồi bỏ ra về liền ! Tôi với anh Toản vốn không có chuyện chi, tại sao tôi có thái độ đem hồ sơ đưa cho anh Toản rồi bỏ ra về.

Tôi sang đây chùa chiền chưa có, tôi dùng nhà anh Son tổ chức tụng kinh hàng tuần, sau đó mới gầy dựng nên chùa Từ Ân, chùa Chánh Pháp, chùa thầy Thanh Quang, chùa Thầy Hằng Đạt, mỗi chùa ấy bước đầu đều có tôi.


Từ trái: Anh X, Lê Trọng Dương, Nguyễn Văn Thục, Đỗ Nam Kỳ, Trần Văn Hào, Đỗ Xuân Sơn, anh Dự, Nguyễn Thanh Tùng, Trần Ngọc Toản, Lâm Thanh Xuân, anh Hóa
Hoà Thượng Trí Chơn
Hàng quỳ: Chị Hợp, bà Đồ Xuân Sơn, bà Mai

Ở đất Louisville anh Sơn là người ở đây có gốc rể từ lâu, vì gia đình anh Sơn vượt biên qua đây từ trước, nên anh ta quen biết nhiều người, anh ta cũng thuộc loại người không thích ai hơn mình, nhưng tôi vẫn luôn đối xử tốt với anh ta, trước khi anh ta bị đột quỵ vẫn tới nhà thăm tôi, anh em trò chuyện bình thường.

Đỗ Xuân Sơn

 Tôi biết cho đến giờ nầy vẫn có người ganh tỵ, ghét tôi mà tôi không có làm chi xấu đối với họ.

 Trong những người mến tôi phải kể là anh Đỗ Nam Kỳ, Nguyễn Tiến Dũng, Trần Thiện Tùng, Đỗ Văn Năm, những người nầy qua đây trước HO (trừ anh Đỗ Nam Kỳ là HO).

 Anh tôi muốn nói luôn cho anh biết, người ta ghét tôi vì tôi quen biết với những người như Thích Trí Quang, do trước đây giáo sư Nguyễn Văn Hai (1927-2020) từng là Hiệu Trưởng Trường Quốc Học, từng là Giám Đốc Nha Học Chánh Trung Phần, trước đây ông Hai dạy ở JCC (Jefferson County College) có đến nhà tôi chơi vài lần. Thầy Trí Quang và Tuệ Sỹ bà con chú bác và ông Hai cùng quê ở Quảng Bình. Khi tôi làm báo Phật Học, thầy Hai giới thiệu tôi với Thầy Tuệ Sỹ quen biết nhau, để tôi mời thầy Tuệ Sỹ cộng tác viết bài, nhờ đó Thầy Tuệ Sỹ và tôi thân nhau hơn. 

Hồng Dương - Nguyễn Văn Hai (1927-2020)

Với Thầy Tuệ Sỹ chúng tôi quen biết nhau từ khi Thầy Tuệ Sỹ là thị giả của Thích Minh Châu, lúc đó tôi nằm trong Ban Chấp Hành Tổng Hội Sinh Viên, Viện Đại Học Vạn Hạnh (nhiệm kỳ 1964-1965 do Luật sư Trần Tiến Tự làm Chủ tịch và nhiệm kỳ 1965-1966 do chị Cao Ngọc Phượng nay là Sư Bà Chân Không làm Chủ tịch) 

Huỳnh Ái Tông, Vũ Thế Ngọc, Thích Tuệ Sỹ tại Già Lam Gia Định

Hôm đi đám tang anh Đoàn Nhật Tăng, anh ấy và tôi giống nhau cùng sanh năm Tân Tỵ (1941) làm Thế Vì Khai Sinh để có tuổi nhỏ thi vào lớp Đệ Thất  (lớp 6) Trung Học vào thập niên 1950.

Thôi nghe, dài quá làm anh chán đọc.

Chúc vui vẻ

 Huỳnh Ái Tông

 

Friday, September 26, 2025

Chút suy tư

Khi tôi còn nhỏ ở quê nhà, những đêm trăng rằm vào tối mười bốn, tôi thường theo mấy chị hàng xóm đi chùa lễ Phật, sau khi lễ Phật, tụng kinh xong được ăn xôi chè trôi nước. Sở dĩ tôi phải đi theo mấy chị vì từ nhà tôi cho đến chùa phải đi qua một chỗ có vài ngôi mã chôn cất sát bên đường, cạnh đó lại có bụi tre um tùm cây lá, rồi lại phải đi ngang qua ngôi đình làng, trong sân đình có những ngôi miếu âm u, lại có những cây dầu, cây sao cao đầy những con dơi đeo những cành cây ấy. Nên sợ ma mà không dám đi đêm nhất là những hôm không có trăng sáng.

Tôi nhớ mỗi năm vào ngày mồng một Tết, mấy ông làng đi ngang nhà tôi họ như thói quen, dừng xe đạp lại rủ cha tôi cũng là hương chức trong làng cùng đi, tiện thể họ xé một dây chuối bên cạnh nhà để cột vào ống quần dài của họ. Hỏi cha tôi tại sao làm vậy ? Cha tôi giải thích: “Để cho được sạch sẻ khi vào Chánh điện lễ Thần ở Đình hay lạy Phật ở Chùa”.

Trong khu đất bên ngoại tôi có ngôi chùa, nay tôi tin rằng xưa kia chùa ấy là cái am có người được dựng tạm trong đất bà ngoại tôi, sau nầy nó trở thành ngôi chùa ở Bờ Ao huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang, mẹ tôi có quy y, tôi không rõ pháp danh của người mà không chừng mẹ tôi cũng không nhớ pháp danh của mình, vì tôi chưa từng nghe mẹ tôi nói đến, nhưng trong nhà, ai cũng biết mẹ tôi có quy y đầu Phật.

Lúc mẹ tôi bệnh, theo ý muốn của người, các anh chị tôi đưa mẹ đến Thoại Sơn để trị bệnh, khi bệnh tình nặng hơn lại đưa về ngôi chùa trong làng Bờ Ao, cho mẹ tôi nghỉ rồi mất tại ngôi chùa đó vào lúc 10 giờ đêm tháng 10 âm lịch, mặc dù chùa cách nhà các dì tôi không xa.

Lúc cha tôi mất trước đó, khi cúng 100 ngày, mẹ cho tôi và em gái tối ngủ chùa Bình Phước ở ấp Bình Thới xã Bình Thủy (Năng Gù) để ông Hòa Thượng Thích Phước Quý tụng kinh, tôi đội sớ Cầu Siêu cho cha tôi.

Chùa ấy ngày trước là Bình Phước Tự thuộc phái Bắc Tông, ngày nay hình như chùa thuộc phái Khất sĩ.

Chùa do Thượng Tọa Thích Giác Minh trụ trì từ năm 1994, được xây dựng lại từ năm 2002 như hiện nay.

Chùa Bình Phước, ấp Bình Thới Xã Bình Thủy, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang

Từ năm 1954, tôi đã đi khỏi làng để đi học lại ở Châu Đốc rồi Sàigòn, hình như Tết năm 1960, tôi theo chú đến chùa, dạo đó có người bà con xa là anh Bắn làm ông từ giữ chùa, vì chưa có trụ trì, từ đó đến nay tôi chưa trở lại viếng chùa lần nào.

Chắc sau nầy có về quê, tôi sẽ đến viếng chùa, vì nơi đó có thể còn có di vật do cha tôi để lại như sách hay tranh thờ.

Xưa nhà tôi có một bức Tranh Quan Công, Quang Bình và Châu Thương rất đẹp, cha tôi lộng kính nhưng không thờ, sau có người mách bảo cha tôi nên thờ bức tượng đó vì ngài rất linh thiêng, sẽ phù hộ cho trong nhà được yên đẹp. Sau đó cha tôi đóng trang rồi thờ ở giữa nhà.

Ở xóm có một cậu thanh niên cùng thuộc họ hàng đến chơi, có khi trưa buồn ngủ rồi ngủ luôn, trước hắn ngủ tại bộ ván ngựa giữa nhà, sau hắn chuyển sang ngủ bộ ván ngựa phía trái căn nhà. Về sau hỏi lý do, hắn cho biết nằm bộ ván ngựa giữa nhà hắn bị đuổi, còn ngủ bộ ván bên hông không bị đuổi.

Sau khi cha tôi mất, có người bàn là do tranh thờ, Châu Thương cầm đao quay vào trong, nên có hại cho người trong nhà, do đó gia đình đem bức tranh đẹp ấy xuống gửi cho ông Hòa Thượng trụ trì chùa.

Châu Thương – Quan Công – Quan Bình

Khi người Phật tử Quy y thì sẽ được vị chủ lễ ban cho Pháp danh. Pháp danh nầy có khi được quy định do vị tổ đặt ra thành một bài kệ truyền thừa, cứ theo đó mà vị chủ lễ ban cho đệ tử theo bài kệ ấy. Như phái Lâm Tế chánh tông ở miền Nam có bài kệ truyên thừa:

Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên    導本原成佛祖先
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên    
明如紅日麗中天
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ    
靈源廣潤慈風溥
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền    
照世真燈萬古

Một người Tu sĩ khi thọ Sa-di phải giữ 10 giới, được ban Pháp tự và khi thọ Cụ túc giới được ban Pháp hiệu trở thành Tỳ kheo giữ 227 giới hay Tỳ kheo ni giữ 311 giới. Theo truyền thống Nguyên thỉ, Tỳ Kheo có 311 giới và Tỳ kheo ni có 348 giới.

Trong Luật Tỳ kheo của Phật giáo Bắc tông, tăng sĩ thọ Tỳ kheo giới, còn gọi là Cụ túc giới phải thọ nhận 250 giới cấm. Một tỳ kheo ni phải thọ 348 giới.

Qua đây, chúng ta được biết Pháp danh, Pháp tự và Pháp hiệu của một người Phật tử và Tu sĩ.

Có những trường họp vị thầy truyền giới, đã ban Pháp danh cho đệ tử dựa theo tên của người ấy. Ví dụ như Phật tử Nguyễn Văn Thành, ngoài đời người ta thường nói thành đạt cho nên bổn sư của anh ta ban cho anh ta Pháp danh là Thiện Đạt, ví dụ có người tên Nguyễn Minh Hiền, do người đời thường nói hiền lương, nên bổn sư của anh ta ban cho Pháp danh là Tâm Lương hoặc Thiện Lương Tuy nhiên cũng có những vị ban Pháp danh cho đệ tử của mình theo cách khác. Thí dụ như Hòa Thượng Thích Thanh Thạnh ban Pháp danh cho các đệ tử của ngài như: Đặng Quang Sước, pháp danh Phúc An, Nguyễn Đình Nam Phúc Tuệ, Nguyễn Huy Nghiễn Phúc Ân, Bùi Thế San Phúc Trí, Bùi Thọ Thi Phúc Văn, Nguyễn Văn Liên Phúc Thịnh, Huỳnh Ái Tông Phúc Trung …

Đó là một vài suy nghĩ của tôi, có thể giải đáp cho chính mình về những suy tư đã có từ lâu.

866405092025









Wednesday, September 24, 2025

Vài phụ nữ ngày nay

Trước tiên xin nói đến bà Khúc Minh Thơ, bà sinh năm 1939 tại Sa Đéc, thuộc Miền Nam Việt Nam đã cộng tác chặt chẽ với Đặc Sứ Robert Funseth trong công cuộc vận động tù nhân chính trị được sang định cư tại Hoa Kỳ. Chuyến phi cơ đầu tiên vào ngày 13 Tháng Giêng 1990 chở 32 H.O.1 là một khúc quanh lịch sử tỵ nạn, cho đến khi kết thúc đã có khoảng 300,000 tù nhân chính trị và gia đình đi định cư tại nước ngoài.



Khúc Minh Thơ (1939-20XX)

Tưởng cũng nên nhắc lại, vào những ngày cuối Tháng Tư 1975, bà Khúc Minh Thơ đang làm việc tại Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Phi Luật Tân. Chồng bà bị đi tù cộng sản, sau này biết được tin tù nhân cải tạo bị ngược đãi và chết dần chết mòn tại các trại tù, bà đến Hawaii cuối Tháng Giêng 1977, và bắt đầu cuộc tranh đấu đòi Cộng Sản Việt Nam phải thả các sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi tù. Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị ra đời vào Tháng Tám 1977 và được dư luận chú ý đặc biệt. Nhờ vào những tài liệu chính xác về tình trạng tù nhân chính trị nên những vận động của hội đã có tiếng vang lớn. Thời Tổng Thống Reagan, phần lớn kết quả những chuyến đi của Đặc Sứ Robert Funseth sang Việt Nam thương thuyết cho anh chị em H.O. đi định cư là có sự vận động hữu hiệu của Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị. 

Đc biệt bà đã can thiệp cho những nhà văn, nhà báo nổi tiếng và bị bắt sau tháng 4 năm 1975 như Uyên Thao, Hoàng Hải Thuỷ, Thanh Thương Hoàng…được ra đi, bà cho biết: "Đây là vấn đề nhân đạo của chính phủ Hoa Kỳ, họ có cho dễ dãi hơn, là những người bị bắt sau năm 1975 bởi vì những nhà văn, nhà báo họ đã bị ở tù và bị những cái sự bạc đãi vì vậy mà tôi đã nói vấn đề đó để đưa ra cho chính phủ Hoa Kỳ, như là Hoàng Hải Thủy, Thanh Thương Hoàng, Uyên Thao đều có hợp tác với chính phủ Hoa Kỳ trước 75.

Những đêm thức trắng đọc thư của các gia đình HO từ Việt Nam gửi sang, những ngày lặn lội nắng mưa, tuyết bão để đi gõ cửa từng văn phòng dân biểu, rồi những buổi tối ngồi dán từng cánh tem trả lời thư cho các gia đình H.O. còn kẹt ở Việt Nam…Từ những ngày đầu tiên cho tới ngày về hưu, bà vẫn hăng say làm việc bất kể ngày đêm.


Bà Khúc Minh Thơ tham quan bức tường quân nhân Mỹ hy sinh tại Việt Nam từ 1965-1972

Người được kể đến tiếp theo là bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn

Định mệnh đã đặt tên cho chị như đúng cuộc đời chị, vỏn vẹn có hai chữ “Hạnh Nhơn” ngắn gọn nhưng súc tích bao la! Chị đức hạnh và nhân từ qua những công việc chị đã làm cho thương binh, quả phụ, cho những người thân còn lại ở quê nhà.


Cựu Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn (1939-2017), ân nhân của TPB VNCH. (Hình: Người Việt)

Bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn sanh năm 1939 tại Sa Đéc,

Bà đã tận lực những tháng năm cuối đời để vận động, gây quỹ giúp cứu trợ các thương phế binh VNCH và các gia đình cô nhi quả phụ còn kẹt lại ở Việt Nam.

Nhập ngũ năm 1950 ngành tài chánh, phát lương cho quân nhân ở Quân Đoàn 1. Là thiếu úy rồi trung úy sĩ quan tiếp liệu Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Sau đó qua trung tâm huấn luyện và trường Nữ Quân Nhân, rồi lên đại uý làm việc tại văn phòng đoàn Nữ Quân Nhân của Bộ Tham Mưu.

Năm 1969, là thiếu tá trưởng Phòng Nghiên Cứu, chuyển qua Không Quân và lên trung tá năm 1972 – Trung tá phân đoàn trưởng Nữ Quân Nhân quân chủng Không Quân. Bà đã cống hiến 25 năm của tuổi thanh xuân cho quân đội, để rồi sau cùng phải sống nhiều năm trong tù ngục chính trị đau thương của VNCH.

Sau Tháng Tư 1975, bà cũng như những sĩ quan khác của quân lực VNCH bị đi tù, bị giam giữ nhiều nơi khác nhau: Long Giao, Quang Trung, Z30D, Hàm Tân và Long Thành.

Ra tù, năm 1990 bà định cư ở Hoa Kỳ. Sau khi cuộc sống được ổn định, bà tham gia Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH. Ban đầu, bà là phó chủ tịch hội Tương Trợ Cựu Tù Nhân Chính Trị, làm giấy tờ bảo lãnh cho các cựu quân nhân quân lực VNCH không có thân nhân bảo lãnh, sau đó làm hội trưởng HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH.

Trong thời gian làm việc, bà chuyển giao một số hồ sơ của cựu cảnh sát ở Việt Nam đang gặp khó khăn. Mấy năm trước đây, những gia đình này đã được Hội HO giúp đỡ. Nay, chuyển hồ sơ qua cho Tổng Hội Cảnh Sát Quốc Gia VNCH để tiếp tục hỗ trợ trong khả năng có thể giúp được của tổng hội.

  Nguyễn Thị Hạnh Nhơn đã ra đi vào ngày 18 Tháng 4 năm 2017 những tháng ngày đau khổ nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta khóc cho đất nước, dù đã mấy chục năm qua vẫn còn điêu linh khốn khổ.

Một đoạn xa lộ 405 được đặt tên cố Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.
 (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Bao năm dài bà theo đuổi một việc làm hết sức có ý nghĩa. Thật đáng kính phục thay, một nữ sĩ quan Quân Lực VNCH kiên cường nhưng giàu lòng nhân ái như chị. bà đảm đương khoảng gần 10,000 hồ sơ thương phế binh và cô nhi quả phụ VNCH còn tại quê nhà; chia sẻ tình thương, an ủi họ bằng xe lăn, bằng số tiền nho nhỏ tượng trưng nhưng đã nói lên tấm lòng yêu thương tha thiết dành cho đồng ngũ ngày nào.

Bà thường tổ chức “Hội ngộ nữ quân nhân hải ngoại” theo truyền thống cứ mỗi ba năm một lần, mục đích để: duy trì tình yêu thương đoàn kết; hồi tưởng thời gian trong quân ngũ và để biết ai còn, ai mất mà tưởng nhớ các chị em đã quá vãng.

Yểm trợ “Quỹ tình thương nữ quân nhân” để lo cho các chị em còn kẹt tại quê nhà đang gặp khó khăn và bịnh hoạn.

Thật là cảm động, mỗi lần mời gọi hội ngộ, các chị em dù ở phương trời nào: Pháp, Canada, Úc Châu, Âu Châu và khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, đều không quản ngại thì giờ và tốn kém, nồng nhiệt hưởng ứng, bay về hội tụ với nhau để sống lại những ngày thân ái cũ.

Đây cũng là dịp để tình yêu thương đồng đội, bằng hữu thêm gắn bó. Họ kể cho nhau nghe những năm tháng tù đày, những cảnh vượt biên, vượt biển, những năm tháng làm lại từ đầu với hai bàn tay trắng nơi xứ lạ quê người và điều quan trọng hơn nữa là để thế hệ kế tiếp cảm nhận được ý nghĩa cuộc chiến đã qua, để yêu thương chính thể VNCH, để thông cảm niềm đau của các chiến sĩ VNCH.

Bà còn là người đứng đầu các đại nhạc hội “Cám Ơn Anh” gây quỹ giúp thương phế binh và quả phụ VNCH tại quê nhà. Đại nhạc hội này đã trở thành một trong những sự kiện lớn nhất cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại. Mỗi năm Hội đã giúp hàng chục ngàn chiến binh VNCH bị mất một phần thân thể cùng những quả phụ chồng hy sinh trong cuộc chiến bảo về miền Nam Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của bà, cùng phối hợp với các tổ chức, trung tâm ca nhạc và cơ quan truyền thông đại nhạc hội “Cám Ơn Anh” đã được luân phiên tổ chức ở Nam và Bắc Cali, mỗi năm thu được cả trăm ngàn, cả triệu đôla và đã gởi về Việt Nam giúp đỡ nhiều người.

Bà thường nói: “Tôi vui sướng theo niềm vui của họ khi nhận được tiền, con cái họ có thêm miếng cơm, có thêm tấm áo, gia đình họ ấm lòng khi đồng bào ở hải ngoại vẫn nghĩ đến và nhớ ơn hy sinh của họ.”

Bà là người sống khoan hòa đức độ, cảm thông, sống với tấm lòng vị tha vì người, vì đời. Biết bao nhiêu người nhất là các anh thương phế binh, các cô nhi quả phụ ở quê nhà đã đau đớn vô cùng khi hay tin chị rũ áo ra đi. Rồi đây ai sẽ là người mở rộng trái tim để lo cho anh chị em như bà đã từng làm!

(Theo Nguyên Hạnh HTĐ)

Là những người định cư tại Mỹ theo diện HO, chúng ta luôn nhớ ân những người đã giúp chúng ta và gia đình được định cư tại Mỹ, vượt qua mọi khó khăn dưới chế độ mới. Đó là bà Khúc Minh Thơ và những người cộng tác với bà, chúng ta cũng ca tụng Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn đã cứu giúp những đồng đội TPB và gia đình tại quê nhà. Họ là những người có lòng vị tha, bác ái bao la.

Một người đã khóc Cựu Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn:

“Tin sét đánh ngang tai.
Một tượng đài vừa đổ.
Nay chị lìa bể khổ.
Để về cõi vĩnh hằng.
Chúng em gạt nước mắt.
Đành chúc chị bình an.”

(Trần Văn Lý, một thương phế binh VNCH


Đại nhạc Hội Cám ơn anh Người Thương Binh VNCH năm 2025 tại San Jose Bắc California vào ngày Chủ nhật 27-7-2025

Tôi thuộc Danh sách H06, gia đình chúng tôi đến trạm trung chuyển Bangkok ngày 2-4-1991, đặt chân lên đất Mỹ tại San Francisco ngày 9-4-1991. Cho nên gia đình chúng tôi luôn nhớ ơn bà Khúc Minh Thơ và những vị trong Hội Gia Đình Tù Nhân Chánh Trị.

Nguyện cầu ơn trên phù hộ cho bà Khúc Minh Thơ luôn được an vui, nhiều sức khỏe và cựu Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn vãng sinh về cõi an lạc.

Dương Nguyệt Ánh (sinh năm 1960) là một nữ khoa học gia người Mỹ gốc Việt. Bà cùng gia đình tị nạn tại Mỹ năm 1975 sau khi cộng sản đánh chiếm Việt Nam Cộng hòa.

 

Dương Nguyệt Ánh (1960-20XX)


Dương Nguyệt Ánh rời Việt Nam năm 1975 cùng với gia đình bằng trực thăng, trong làn sóng người Việt tỵ nạn Cộng sản vào cuối Tháng Tư và đến được Philippines. Sau một thời gian ở trại tạm cư ở Pennsylvania, Hoa Kỳ, gia đình được định cử ở vùng Washington, DC.

 

Dương Nguyệt Ánh tốt nghiệp Đại học Maryland ngành kỹ sư hóa học, khoa học điện toán và quốc gia hành chánh rồi được tuyển vào làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu của Hải Quân Maryland.

 

Trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ Dương Nguyệt Ánh nhậm chức Giám đốc Khoa học và Kỹ thuật (Director of Science and Technolgy) của chi nhánh Indian Head Division thuộc Trung tâm Vũ khí Hải quân Hoa Kỳ (Naval Surface Warfare Center) tại Maryland, tiểu ban chất nổ với nhiều giải thưởng. Bà từng là người đại diện cho Hoa Kỳ trong lãnh vực chất nổ tại Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO). Bà cũng là tác giả của bom áp nhiệt (thermobaric bomb).

 

Năm 2005, bà được cử về Bộ Quốc phòng Mỹ làm cố vấn khoa học cho phó Đề Đốc Hải Quân Hoa Kỳ về thông tin và chiến thuật tại Ngũ Giác Đài.

 

Năm 2008 bà được bổ nhiệm làm Giám đốc An ninh Biên giới và Lãnh hải (Director of the Borders and Maritime Security division) thuộc nha Khoa học và Kỹ thuật (Science and Technology Directorate) của Bộ Nội an Hoa Kỳ (Department of Homeland Security)

 

Source: Wikipedia

866423092025