Pages

Saturday, August 31, 2024

Một chút gợi nhớ

Hôm nay, tôi không nhớ do đâu tôi lên Mạng và nghe một câu chuyện có tựa là Chuyện Tâm linh của người lính dù của Người Việt Quốc Gia tại trang Mạng https://www.youtube.com/@NVQG do tác giả Mủ đỏ Út Bạch Lan viết.

Tên tác giả làm cho tôi nhớ lại vào khoảng thập niên 1980, tôi có công tác làm nhà máy đường công suất nhỏ khoảng 10 tấn đường cát/ ngày cho huyện Minh Hải tỉnh Trà Vinh, sau khi đi khảo sát địa điểm sẽ lắp đặt nhà máy về. Trên đường về nay tôi không còn nhớ trước hay sau khi qua chợ Trà Vinh, có lè sau khi qua chợ Trà Vinh về Vĩnh Long có một quán cà phê ven đường tên là quán Út Bạch Lan, lúc đó bỗng dung tôi nghĩ hay là quê Út Bạch Lan ở đây ? Nay tìm biết Út Bạch Latên thật là Đặng Thị Hai, sinh năm 1935, tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, Đức Hòa, Long A. Lúc mẹ của Út Bạch Lan và mẹ thầy đàn Văn Vĩ thuở  hàn vi, kết thân nhau sống lây lất ở Chợ Bình Tây, khoảng 7, 8 tuổi Út Bạch Lan được Văn Vĩ dạy ca hát rồi cùng nhau hát rong để xin tiền từ Chợ Bình Tây ra Sàigòn.

Năm 1970, tôi từ Banmêthuột được thuyên chuyển về dạy tại Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ tại địa chỉ số 2 đường Phạm Đăng Hưng, quận Nhất, Sàigòn, nay là số 2 đường Mai Thị Lựu, Phường Đa Kao, Quận Một, thành phố HCM. Lúc đó Út Bạch Lan thuê một chỗ thuộc Đình Tân An nằm ngay ngã tư đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Tự Đức, cách Đài phát thanh Sàigòn không xa, nên là chỗ hẹn cho nhiều nghệ sĩ tới lui, tới nay tôi còn nhớ diền viên Tú Trinh vì nét da cô đậm đà, người không cao.

Nơi đây, có một cô đào trẻ rất trẻ nên chưa nổi tiếng. cô ta cũng đẹp, thùy mị, nhưng chắc không thích trở thành đào mà thích trông nom cửa hàng cà-phê của Út Bạch Lan, tại đây Út Bạch Lan có nuôi cậu con trai của Thành Được, nhìn cậu ta là biết ngay vì gương mặt y chang Thành Được, hồi đó tôi không biết, nên nghĩ đó là con của Thành Được với Út Bạch Lan, nhưng chẳng phải vậy Út Bạch Lan chẳng qua chỉ nuôi con Thành Được mà thôi. 

              Út Bạch Lan (1935-2016)           Bích Sơn (1937-20 ..)           Thanh Nga (1942-1978)

 

  

Tôi ít đi xem cải lương, nói thật là vì trong túi có ít tiền, thuở nhỏ ở làng cũng có gánh hát cải lương về đình làng hoặc về chợ hát, đình ở gần còn chợ ở xa, nhưng cũng không có tiền đi xem, lúc lên Châu Đốc học, nhà chú tôi ở gần Rạp hát Việt Thành nên ban đêm học bài, chờ gánh hát xã giàn mới vào xem

Khi lên Sàigòn, tôi ở nhà họa sĩ Phạm Thăng, tôi nhớ năm nào đó 1957 hay 1958 có tổ chức triền lãm vào dịp Quốc Khánh 26 tháng 10. Họa sĩ Phạm Thăng và Loka vẽ một tấm Pano và viết tay trình bày bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa, sau thời gian đó có gánh cải lương Thúy Nga do một đại gia tên Hoàng hình như là Giám đốc hãng sơn Bạch Tuyết hay là Bông gòn Bạch Tuyết nằm trên đường Trương Tấn Bửu Phú Nhuận thành lập. Tôi có giúp anh Phạm Thăng và Loka công việc lặt vặt khi các anh trình bày Pano và viết Hiến pháp tại nhà in Info nằm trên đường Thi Sách Quận Nhất Sàigòn, nên anh Loka có cho tôi vé xem tuồng Khi Hoa Anh Đào Nở của đoàn Thúy Nga do đào Bích Sơn và kép Thành Được thủ vai chánh, hình như đó là sân khấu đầu tiên tại Sàigòn do Thành Được trình diền. Còn anh Loka hình như giúp phần trang trí hậu đài của đoàn, sau họa sĩ Loka cộng tác cho đoàn Thanh Minh Thanh Nga.

Một lần khác nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu mua 3 vé của đoàn cải lương Thanh Minh Thanh Nga ở rạp Nguyễn Văn Hảo cũ hình như là tuồng Áo Cưới trước cổng chùa, đó là lần đầu tiên Bảo Quốc lên sân kháu, anh ta không thuộc tuồng, Thanh Nga phải nhắc cho cậu ta. Đêm đó tôi đi xem với bà cụ thân sinh và em gái anh Thu.

Thời gian qua mau, mấy chục năm rồi, tôi chưa từng đi lại ngang qua quán cà-phê Út Bạch Lan ở miền quê thuộc Trà Vinh, ngay cả quán cà-phê của Út Bạch Lan ở Đình Tân An tôi cũng chưa hề trở lại sau thập niên 1980, mặc dù thỉnh thoảng tôi có tới trường cũ dự lễ Ngày Nhà Giáo Việt Nam 20-11.

Trong tôi còn hình ảnh của ca sĩ Duy Khánh, thập niên 1980, tại quán Ca-phê trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, cách quán Út Bạch Lan con đường Tự Đức và 3 căn phố khác, Duy Khánh ngồi lặng lẻ một mình uống một xị rượu đế, chắc để hồi tưởng một thời của mình lặng lẻ trôi qua.

Hôm nay sao tự dưng vì một chuyện lính tráng, đã đưa đẩy tôi đến chuyện nghệ thuật cải lương, tân nhạc.

Dù sao hồi tưởng lại được những hình ảnh đẹp ngày xưa cũng có thể làm cho đời sống của mình đẹp hơn, ý nghĩa hơn, tránh những lúc buồn bả dễ sanh ra trầm cảm, làm cho đời sống kém vui, mất ý nghĩa cho mình và những người chung quanh, trong đó có người thân trong gia đình và bạn bè. 

8664302024






 

Wednesday, August 28, 2024

Nhạc Hay & Tài liệu

Lòng Mẹ ( Y Vân) - Danh Ca Thái Thanh

https://www.youtube.com/watch?v=besYtLG-eTQ

Christophe - Maman (1967)

https://www.youtube.com/watch?v=nVR2rGg_9zI

Louane – Maman

https://www.youtube.com/watch?v=oC_ffV--tcE

Tình Cha - Ngọc Sơn | Official Music Video

https://www.youtube.com/watch?v=fDCo3EIzKA4

Papa - Paul Anka

https://www.youtube.com/watch?v=0XDwO6Sx6SM

[Vietsub] The Longest Day Song

https://www.youtube.com/watch?v=k_dirzUJHN8

Mozart - Metallica (Symphony No. 40 - Enter Sandman : MOZART HEROES [OFFICIAL VIDEO]

https://www.youtube.com/watch?v=UBfsS1EGyWc  

Doris Day - Que Sera Sera

https://www.youtube.com/watch?v=xZbKHDPPrrc

Nhạc phim Cầu Sông Kwai. (The Bridge On The River Kwai) - Ban Nhạc HM Royal Marine

https://www.youtube.com/watch?v=WfAUBRTF8U0

The Bridge on the River Kwai - Colonel Bogey March (HD) Film

https://www.youtube.com/watch?v=4k4NEAIk3PU

The River Kwai March "Colonel Bogey March" (Huýt sáo)

https://www.youtube.com/watch?v=0UIz7ZAyP_A

Thiên thai-Ánh tuyết

https://www.youtube.com/watch?v=b4Jzsa4N8yM

PBN 19 | Thái Thanh - Tình Hoài Hương

https://www.youtube.com/watch?v=rw-8IWG9vxM

Cô Láng Giềng: Hoàng Quý – Sĩ Phú

https://www.youtube.com/watch?v=Tk8XJDjh9fM

Nhạc sĩ Châu Kỳ: Đời sống đa tình kỳ lạ; qua đời 16 năm vẫn nuôi cả 4 gia đình con cháu

https://www.youtube.com/watch?v=mDYyTJ-J6tY

 Tướng Ngô Quang Trưởng - nhân tài lỗi lạc của quân lực VNCH, mong tro cốt được gửi lại quê hương

 https://www.youtube.com/watch?v=iEYc0kr_TcM

866428082024





Sunday, August 25, 2024

Tôi đi học

Tôi nhớ những ngày đầu tôi đi học như thế nào, nhưng không thể nhớ năm đó tôi mấy tuổi hoặc đó là vào năm nào ? Nhưng tôi nhớ rõ, tôi theo chú tôi sang bên kia sông đi học, trên xuồng do chú tôi bơi còn có anh kế tôi và con gái của chú bằng tuổi tôi cùng sang sông đến trường.

Trường nằm sát lộ đá tráng nhựa cho xe chạy đường Long Xuyên – Châu đốc, trước sân trường là cái cổng bằng gạch xây tô, có bảng hiệu ghi École De Bình Mỹ, qua khỏi cổng là cái sân rộng, sâu chừng 20 thước, dài chừng 30 thước. Phía tay phải có trồng một cây điệp tây, mùa Hè trỗ bông đỏ rực. Phía tay trái là cái khung cây treo cái xích đu và một sợi dây luộc to, để cho học sinh xích đu hoặc leo dây trong giờ chơi hoặc trong khi chờ đợi trước khi vào lớp.

Như những trường khác ở trong Nam, trường tôi có 3 lớp học và một căn phòng chừng bằng phân nữa lớp để cho Trưởng giáo ở trông nom nhà trường. Trường tôi chỉ có 2 thầy giáo, chú tôi là Trưởng giáo và Thầy tôi người ở Long An đến đây dạy học.

Một lớp học bên cùng phía tay trái được phòng sinh hoạt cho gia đình Thầy tôi. Gia đình Thây tôi lúc ấy gồm có Thầy tôi, Thím giáo (vợ của Thầy) và 2 con trai là Khải và Khá. Ngoài giờ học Thầy tôi kéo kẹo cho Thím bán tại trường, để kiếm thêm thu nhập.

Hai phòng học còn lại chia thành 3 lớp: Thầy tôi tên là Lê Văn Thọ dạy Cours Enfantin (lớp Đồng Ấu), chú tôi tên Huỳnh Bá Nhệ dạy Cours Élémentaire (Lớp Sơ Đẳng), anh tôi và con gái chú tôi tên Nga đều học lớp của chú tôi, nhưng tôi không rõ họ học Cours nào.

Lớp chú tôi dạy có nhiều thiếu nữ học, trong đó có chị Phấn nhà chị phía dưới trường chừng 6, 7 chục thước, ngang sông nhà tôi - Chị Phấn con nuôi bác Hai Nam, chị có nước da trắng, gương mặt rất đẹp, ngoài ra còn có cô Phe khoảng tuổi Nga với tôi và còn có một số chị, em khác nửa ngày nay tôi không còn nhớ được.

Lớp của tôi hầu hết là nam sinh, lớp học chỉ có 1 cửa ra vào, có mấy cái cửa sổ bàn thầy giáo kê gần tường, hai bên bàn thầy là 2 tấm bản đen, có 2 dãi bàn học, mỗi bàn ngồi bốn học sinh, tôi nhớ là tôi ngồi bàn trên cùng phía tay trái của thầy giáo.

Bàn tôi ngồi có trò Độ, nhà cạnh phía dưới trường, trò Khải con trai trưởng của Thầy Thọ, trò Trai nhà ở cạnh phía trên trường và tôi ngồi ngoài cuối bàn. Những bàn sau là những anh lớn hơn chúng tôi về tuổi cũng như thể xác.

Ngày xưa khi tôi đi học, lúc mới đầu học về chữ cái như a, b, c, d, e, …, kế đó học vần xuôi có thể là an, em, it .., rồi vần ngược có thể là sàn, nước, quan …. Khi tôi tôi học vần ngược, tức chưa đầy một năm học thì chú tôi cũng như Thầy tôi không dạy nữa, bỏ trường về tỉnh dạy. Còn trường gần nhà tôi, các thầy cùng bỏ dạy, trường đóng cửa, ông Trưởng giáo đem chìa khóa trường đến nhà giao cho cha tôi, vì cha tôi lúc đó trong Ban Hội Tề, giữ chức Hương Sư. Các thầy theo Thanh Niên Tiền Phong, mang huy hiệu cờ đỏ ngôi sao vàng trên ngực áo, khi họ đi dự hát hội trong lễ Kỳ Yên ở Đình làng.

Vì Thầy nghỉ dạy, trường đóng cửa, nên tôi bị thất học từ đó. Tôi không lý giải được do năm 1945, tôi mới có 4 tuổi sao lại bị thất học ? Đến năm 1950, tôi đi học tư tại trường làng gần nhà, tôi đi dự thi tại Trường Nam Tiểu học Long Xuyên, lần thi đó tôi đã đậu, được cấp Văn Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, đáng lẽ năm đó được đến tỉnh để vào học lớp Nhì, nhưng không được vì gia đình không có tiền, do phải nuôi anh kế tôi đang học ở Long Xuyên, tôi lại bị thất học thêm lần nữa.

Khi học tại trường làng Bình Mỹ, có vài kỷ niệm đáng nhớ đầu đời khi đi học. Do tôi và Khải hẹn nhau trước, nên khi Thầy kêu Trò Trai đứng lên đọc chữ trên bảng, chúng tôi mỗi người nắm một bên quần đùi đen, lưng luồn dây thung của trò Trai, nên Trai đứng lên cái quần bị giữ lại, nên Trai sợ bị ở truồng nên liền ngồi xuống. Thầy Thọ thấy sao Trai đứng lên không chịu đứng yên lại ngồi xuống, tức nhiên dám cãi lời Thầy, sẵn tay cầm thước bảng, Thầy đánh Trai mấy cái thước bảng, rồi thầy kêu trò khác đọc. Còn Trai chịu đau, im lặng không nói gì.

Lần khác Thầy gọi Trai đọc bảng, đáng lẽ Trai phải đứng lên tại chỗ rồn đọc, nhưng lần nầy Trai lại ngồi im, Thầy tức giận đứng lên, định đi lấy cây thước bảng đánh trò Trai, nhưng có vài anh ở phía sau, dơ tay đứng lên nói:

- Thưa Thầy, xin Thầy đừng đánh trò Trai, nó không dám đứng lên, vì khi nó đứng lên như lần trước bị trò Khải và trò Tông nắm cái quần, hắn sợ bị ở truồng nên ngồi xuống cho nên bị Thầy đánh lần đó.

Nghe xong, Thầy hiểu chuyện, nét mặt Thầy giận lên, nói to:

- Khải, Tông lên đây !

Khải và tôi sợ quýnh lên, đứng lên bước vội lên chỗ Thầy đứng gần tấm bảng đen, Thầy bảo:

- Hai đứa dơ tay phải ra.

Thầy Thọ đánh con Thầy là trò Khải trước rồi đánh tôi sau, mỗi đứa bị 3 khẻ thước bảng, vừa khẻ tay, Thầy vừa nói:

- Nhớ không được nghịch như vậy nữa nghe không ? 

Khẻ tay xong Thầy bảo:

Về chỗ !

Hai đứa chúng tôi, mỗi đứa một ngã, riu ríu đi về chỗ mình, tôi nhìn thấy có mấy anh ngồi ở dưới mĩm cười hài lòng. 

Có một anh ở Bình Thạnh Đông (Thị Đam), cũng đến làng tôi ở nhờ nhà người bà con đi học, tôi tự hỏi sao anh ta không học trường BÌnh Thủy, cũng gần nhà anh ta ở nhờ mà lại sang sông đi học với tôi. Tôi nhớ khi Thầy gọi anh ta đánh vần để đọc chữ trên bảng đen: T ô i, nhưng anh ta cứ đánh vần T, ô, tô, i, tui.

Anh ấy đánh vần xong, thầy bảo sai, đánh vần lại, nhưng anh ấy vẫn cứ T, Ô, Tô, I, Tui. Cuối cùng Thầy nói:

- Thôi ! Tao cũng chịu thua mầy ! Ngồi xuống đi.

Rồi Thầy kêu trò khác tiếp tục học đánh vần. 

Tôi nhớ có một hôm lúc giờ ra chơi, học trò hầu hết ra sân chơi, con gái tụ năm tụ ba đánh đủa, hoặc chơi cò cò. Đám con trai chơi xích đu hoặc kéo co, cũng có nhiều trò không chơi chi đứng nhìn người khác chơi, tôi đang tìm bạn chơi thì thấy chú tôi đứng ở hành lang lớp học, dơ tay ngoắc tôi, tôi liền đi về phía chú, khi tôi đên gần, chú móc bóp lấy ra, đưa cho tôi tờ giấy bạc màu vàng, đó là tờ tiền 1 hào, chú bảo:

- Chú cho đi mua kẹo ăn đi !

Tôi nói:

- Cám ơn chú!

Rồi lấy tiền từ tay chú, đi đến chỗ Thím giáo mua kẹo kéo ăn.

Có lẽ chú tôi vừa mới lãnh lương nên cho tiền tôi ăn kẹo, tôi nhớ hình như đó cũng là lần duy nhất chú cho tôi tiền khi tôi còn nhỏ, đi học trường của chú làm Trưởng giáo. Được biết thời đó lương của chú là 28 đồng/ tháng. Có lần sau nầy về một chuyện khác, chính chú cho tôi biết, lương của chú thời gian đó là như vậy. 

Còn một chuyện nữa cũng liên quan đến thời cuộc thời bấy giờ tôi còn nhớ. 

Hôm đó không hiểu vì sao Thầy không dạy học, có ba, bốn đứa rủ tôi đi tới nhà thầy Phó kiếm pháo chà đập cho nó nổ chơi, vì nghe nói trong nhà có nhiều pháo chà. Tôi nhớ hình như có 3 người cùng đi, trong đó có thằng Uẩn, mẹ nó là cháu họ của mẹ tôi, ông ngoại nó với mẹ tôi là anh em cô cậu, ngày xưa mẹ tôi gả mẹ nó lấy chồng là anh ba Cao, nên nó kêu tôi bằng cậu, dù nó lớn tuổi hơn tôi, người nữa là thằng Chiêu, nó cùng lớn tuổi hơn tôi, ở cùng xóm lại là bà con họ hàng, nên nó gọi tôi bằng chú.

Nghe nói ở trong khu nhà Thầy Phó, họ đi hết rồi không còn ai ở trong đó, nhưng đi với hai thằng lớn tuổi hơn, tôi cũng vững bụng không còn lo sợ. Cũng nên nói thêm thầy Phó có dinh cơ lớn, dinh cơ của ông bên kia sông. Trước năm 1945, đối diện với nhà tôi bên nầy sông, cũng là đối diện với nhà ông Phủ hồi hưu Nguyễn Hà Thanh. Dinh cơ ông thầy Phó cất sát bên đường lộ đá LT 10 nay là QL91, qua khỏi đường là con sông có tên là Xép Năng Gù, phía trước dinh cơ là hàng rào sắt, phần sát đất xây gạch, cẩn gạch bông tráng men nổi, mua từ bên Pháp, chạy dọc theo hàng rào, cứ cách xa chừng 3 thước có một trụ gạch, giữa những trụ gạch nầy là hàng rào sắt, trên các trụ gạch nầy cũng cẩn gạch bông nổi, khoảng cách chừng 20 thước có cổng cho xe hơi du lịch có thể ra vào, mỗi cổng có 2 cánh cửa gỗ dầy, phần dưới là tấm gỗ, phần trên là song sắt để có thể nhìn xuyên qua đó, riêng 2 cái cổng giữa lại xây lầu, do có cầu thang lên xuống, nên xe du lịch không thể ra vào 2 cổng giữa nầy. Nói chung là bức tường phía trước có 4 cái cổng, 2 cái giữa giống nhau, 2 cái bìa ngoài giống nhau, cuối tường mỗi đầu cũng xây tường chạy dài vào trong chừng 50 thưóc nhưng không có cẩn gạch hoa nổi. Có thể nói tường rào của thầy phó Quý 10 thì tường rào Dinh Độc Lập chỉ bằng 3 mà thôi. 

Khi 3 chúng tôi đến, liền vào Phủ thờ là một ngôi nhà 3 gian bề thế, cửa hông bên phía tay phải có ai đã phá bỏ 1 miếng ván ở khung dưới, chúng tôi khom người chui vào, bên trong tuy có hơi tối vì không có đèn, nhưng cũng thấy rõ gần như mọi vật còn nguyên, trước bàn thờ là một cập ngà voi, trên bàn thờ là bộ lư đồng to chạm trổ tinh vi có hình nổi rồng phượng, mấy bình cấm hoa to bằng sứ, không có hoa trong bình, chúng tôi thấy có chiếc xe đạp trẻ con sơn màu hường, những bức màn, trướng còn mới nguyên. 

Chúng tôi lo lục tìm pháo chà, khi có rồi, chúng tôi chui ra rồi theo cầu thang đi lên lầu ở cổng tay phải. Trên lầu trống trơn, không có bàn ghế chi hết, tôi để miếng pháo chà lên thành cửa sổ rồi dùng cây thước vuông của học trò bằng cây thông cạnh chừng 1 phân vuông, dài chừng 3 tấc, tay phải nắm cây thước dọng xuống miếng pháo, pháo nổ cái “bốp”, nhìn lại cây thước của tôi đã bị tét làm đôi. Thấy thế thằng Uẩn và thằng Chiêu không đập pháo chà nữa và chúng tôi cùng nhau trở về trường.

Tôi nhớ khi còn nhỏ, cô tôi có dẫn tôi sang nhà Thầy Phó 1 lần, khi đó ông bà ấy đã mất rồi, trong khu nhà Thầy Phó khi ấy có 4 ngôi nhà: Phủ thờ, ở gần ngoài đường, nằm khoảng giữa hai cổng có lầu, một căn nhà của bác Hội Đồng Thu, lợp ngói móc, vách ván và cửa đều sơn màu xanh lá cây, hai căn nhà kia một căn ở giữa và một căn phía trên đều lợp ngói, tường xây tô, nền lát gạch.

Vào nhà tôi không nhớ của ai, ngồi ở ghế trường kỷ gỗ chạm trổ màu đỏ, có thể là nhà Bác Sáu Thơi, Bác từng du học ở Pháp, sau về nước làm Xã trưởng trong làng. Có thể nói do thời cuộc lúc đó, các bác Ba Nghệ, Bác Tư Chuốc và Bác Sáu Thơi “chạy bỏ của giữ lấy người” mà thôi. Ông thân của các bác là Phạm Phú Quý xưa từng làm Phó Cai Tổng, tổng An Lương, huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc nên được gọi là Thầy Phó. 

Khoảng thập niên 1950, bộ đội Hòa Hảo của Tướng Lâm Thành Nguyên lấy nơi đây làm Trung tâm huấn luyện sĩ quan Hòa Hảo, sau năm 1955 quân đội Hòa Hảo không còn, có lúc nơi đây có Trung đoàn bộ binh VNCH đóng, sau đó Trung đoàn nầy dời đi. Năm 1972, người Mỹ mở rộng đường Long Xuyên – Châu Đốc, tường rào nầy bị phá bỏ để làm đường, sau đó khung sắt hàng rào được bệnh viện Phú Tân mua lại, còn Phủ thờ và những căn nhà bên trong không ai ở, dần dần hoang phế, ngày nay không còn dấu tích gì. 

Rồi các thầy giáo có lòng yêu nước, đi theo tiếng gọi của con tim theo Thanh Niên Tìền phong chống Pháp, giành độc lập. Chú tôi Thầy tôi cũng bỏ trường về tỉnh Châu Đốc dạy học. Tôi bị thất học lần đầu từ đó. 

Sau một vài năm, có một chú bà con là con thầy giáo Nguyễn Bá Thế, xuất thân từ trường Sư Phạm Sàigòn (Ecole Normal), từng dạy trường tỉnh Sa Đéc và Long Xuyên, lấy trường làng, gần nhà tôi dạy tư, cha mẹ tôi cho tôi đi học. Đến năm 1950, tôi xuống Long Xuyên thi tại Trường Nam Tiểu học và kết quả đạt được Văn Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học.

Văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học

Đáng lẽ sau đó tôi được xuống Long Xuyên vào học lớp Nhì, nhưng do anh tôi đang học ở Long Xuyên, gia đình không đủ sức cho tôi đi học, nên tôi lại bị ở nhà chăn dê, tôi bị thất học lần thứ hai. 

Đến năm 1954, đầu năm ông thân tôi mất. Anh tôi ở Pháp viết thư về cho chú tôi, nhờ chú tôi giúp cho tôi đi học lại. Đầu niên khóa 1954-1955, tôi được lên Châu Đốc ở nhà chú tôi, đi học lại lớp Nhì H, trường Nam Tiểu Học Châu Đốc. Học với Thầy Lê Quang Điện.

Năm sau lên lớp Nhất, học lớp Nhứt E với thầy Châu Văn Tính, sau thầy làm Hiệu Trưởng trường nầy rồi làm Thanh Tra Tiểu Học trước khi về hưu. Về hưu, Thầy dọn về Cư xá Lữ Gia Sàigòn sống hưởng tuổi già, tôi có đến đây thăm Thầy một lần.

Vì thất học lên thất học xuống, tôi không còn tuổi để thi vào lớp Đệ Thất trường Trung Hoc Thủ Khoa Nghĩa, nên bác Hai và chú Chín tôi làm cho tôi Giấy Thế Vì Khai Sanh, phải ra tòa Hòa Giải ở Long Xuyên, khai tôi sinh ngày 15 tháng 5 năm 1943 tại làng Mỹ Hòa Hưng, huyện Châu thành, tỉnh Long Xuyên. Nay Mỹ Hòa Hưng thuộc thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang, đó là quê hương của cựu Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng. 

Từ Lớp Nhì tôi đã học giỏi, vì đã lớn tuổi, lên lớp Nhất, tôi thường đứng vị thứ nhất nhì lớp. Năm lớp Nhất tôi được miễn thi để nhận cấp bằng Tiểu học, năm đó thi vào Trung học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc, tôi làm sai hết 2 bài toán vậy mà tôi đậu thứ 51/300 học sinh được trúng tuyển. 

Vì là học sinh gỉỏi, tôi được nhà trường thưởng cho đi trại Hè dành cho học sinh tại Vũng Tàu trong 3 tuần lễ, chúng tôi ra đó được ở 2 dãi nhà có lầu do Pháp để lại, sau nầy 2 dãi nhà ấy thuộc Công Đoàn quản lý, không còn thuộc bộ Giáo Dục, trước kia mỗi học sinh đi học phải đóng 10 đồng để gây quỹ mua nhà cho Trại Hè Toàn Quốc. 


Học sinh Châu Đốc dự Trại Hè Học Sinh Vũng Tàu năm 1956, do Thầy Trần Văn Ngà hướng dẫn 

Năm đó, chú tôi cũng cho tôi đi thi vào Trung học Kỹ Thuật Cao Thắng, chú khuyến khích tôi : “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” . Tôi đi lên Sàigòn dự thi với 3.000 thí sinh tại Trường Nữ Gia Long Sàigòn, tôi làm trúng 1 bài toán, nhưng được trúng tuyển hạng 132/250 thí sinh trúng tuyển, nên tôi được học bổng toàn phần từ đó cho đến khi ra trường, học bổng toàn phần 400 đồng/tháng, bán phần 200 đồng/tháng.

Mặc dù tôi thi đậu 2 trường, nhưng chú tôi cho tôi lên Sàigòn theo học tại Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng, số 65 Đỗ Hữu Vị Quận Nhất, nay đổi lại là đường Huỳnh Thúc Kháng. Từ trường đi bộ ra chợ Bến Thành chỉ mất chừng 5, 7 phút. 

Nhưng khi nhập học, chúng tôi học tại chi nhánh của trường là Trung học Kỹ Thuật Phan Đình Phùng, số 2 đường Phạm Đăng Hưng, nơi đó từng là lớp học của Trường Kỷ sư Công Nghệ Khóa 1, Trường Quốc Gia Âm Nhạc, Trường Nữ Công Gia Chánh, Trường Thương Mại, Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, Trung Tâm Chuyên Nghiệp Phan Đình Phùng, Nay là Trường Cao Đẳng Nguyễn Trường Tộ. Nơi đây gần Đài Phát Thanh Sàigòn, không xa Sở Thú, nên những khi không có giờ học, chúng tôi thường đi vào Sở Thú ngắm mấy con thú, thời đó vào ra Sở Thú không mất tiền và hình như ban đêm cũng vào được. Sau đó chừng 1 năm vào Sở Thú phải mua vé vào cửa và không được vào ban đêm.

Học sinh lớp Đệ Thất E nìen học 1956-1957, đi chơi trong Sở Thú Sàigòn
Hàng đứng từ trái: Hòa, Hơn, Châu Viễn, Liêm , Đắc, Đông ?, Sĩ, Mẫn, Tông
Đứng khom lưng: Lương
Hàng ngồi từ trái: Phước, lý Lạc Long Giang, Tùng, Châu, ? , Tòng.

Năm đó học lớp tại Trường Phan Đình Phùng, nhưng học xưởng và Kỹ Nghệ Họa phải học tại trường Cao Thắng.

Lúc mới lên Sàigòn học, tôi ăn ở tại nhà anh Trung sĩ Nguyễn Vạn An, là trại gia binh nhỏ,, ở khu vực ngã Sáu Sàigòn, sau nầy ở đó là Trường Trung học Chu Văn An, ở đó được chừng 2 tháng, anh An chuyển đi Biên Hòa, tôi phải chuyển chỗ ở với nhà một anh người Châu Đốc, có nhà tại con hẽm xéo cửa Rạp chiếu bóng Việt Long, nằm trên đường Cao Thắng, lúc đó chưa có đường Trần Quý Cáp khúc từ Rạp Nam Quang tới rạp Việt Long, tôi ở chừng 1, 2 tháng thì chuyển về ở nhà anh họa sĩ Phạm Thăng, trong con hẽm 400 Lê Văn Duyệt, trước chợ Hòa Hưng.

Do hoàn cảnh gia đình nghèo, nên tôi xin và được ông Giám Đốc Nha Kỹ Thuật và Mỳ Thuật Học Vụ, Kỷ sư Trần Văn Bạch cho tôi cũng như một số học sinh khác được tá túc trong khu vực của Nha, vốn là công ty cưa xẻ gỗ của người Pháp để lại, chúng tôi phải tự ăn uống và ngủ nghỉ trong những nhà kho bỏ trống, đặt dưới sự kiểm soát của anh gát-dan Gusaland, người Chà lai, mẹ Việt Nam.

Khi tôi vào ở đây có anh Tự, anh Hà, anh Sĩ, anh Long, anh Trực là những người ở Cao Lãnh theo học Cao Thắng, có Bùi Văn Chín, Bùi Văn Mười, Huỳnh Đình Huê người Trà Vinh, anh Đức dân miền Tây, tôi quên anh người ở đâu, Nguyễn Tiến Minh trong thời gian ở đây đã trở thành nhà văn Nhất Giang, Nguyễn Văn Giáp người Bắc di cư năm 1954, Nguyễn Quang Vui người Huế, theo học Trường Quốc Gia Âm Nhạc, Trần Xuân Vĩnh Quế, mồ côi người Sàigòn, sau nầy đã hy sinh trong trận Mậu Thân. Anh Huỳnh Phương người miền Trung theo học Sư Phạm Kỹ thuật khóa cấp tốc 1 năm.

Năm 1959, ông Trần Văn Bạch không còn làm Giám Đốc Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học Vụ, kỷ sư Nguyễn Được và Trần Lưu Cung ở Pháp về được chánh phủ bổ nhiệm Giám Đốc và Phó Giám Đốc Nha Kỹ Thuật Học Vụ. Ông Được không cho phép chúng tôi trú ngụ trong khuôn viên Nha nữa, mọi người được 1 tháng để tìm chỗ ở. Riêng tôi lại trở về nhà anh chị Phạm Thăng tại địa chi 400/40 Lê Van Duyệt, Quận 3 Sàigòn, nơi đây tôi đã ở từ đó cho đến khi ra trường đi dạy học ở Banmêthuột. Anh chị xem tôi như người thân, như em trong gia đình. 

Đến niên học 1957-1958, lên Đệ Lục chi nhánh Trường Phan Đình Phùng dẹp bỏ, từ đó học sinh Cao Thắng chỉ học tại trường Cao Thắng mà thôi. Nơi đó là Trường Quốc Gia Âm Nhạc, Trường Nữ Công Gia Chánh, Trường Thương Mại. 

Niên học 1959-1960, năm nầy tôi học lớp Đệ Tứ A, thời đó ông Cao Thanh Đảnh Kỷ sư ENSM (Ecole nationale supérieure de Mécanique) làm Hiệu Trưởng thay ông Phạm Xuân Độ, ông Đảnh chủ trương phân loại học sinh giỏi, trung bình, yếu kém sắp đặt theo thứ tự lớp A, B, C, D, E. Tôi được xếp vào Đệ Tứ A và cuối niên học đã thi đậu bằng Trung Học Kỹ Thuật Đệ Nhất Cấp. 

 

Năm 1961 do cuộc đảo chánh của Nguyễn Chánh Thi, trong lớp tôi anh em chịu ảnh hưởng, nên đảo chánh Trưởng lớp, rồi cử tôi làm Trưởng lớp Đệ Tam A, niên học 1961-1962 lên Đệ Nhị A tôi vẫn được bầu làm Trưởng lớp. Trưởng lớp có bổn phận ôm sổ đầu bài, sổ điểm danh ghi ai vắng mặt trong giờ học và lấy phấn cho giáo sư viết bảng. 

Giáo sư Lê Tài Quấc về sau làm Thượng Nghị Sĩ đứng giữa lớp Đệ Nhị A do tôi làm Trưởng lớp, trong lớp nầy có Lương Văn Nhơn làm HT trường Kiến Hòa, Lý Thất làm HT. trường Long Xuyên, Lê Kim Nghĩa làm HT trường Chợ Mới và tôi làm HT. trường Nguyễn Trường Tộ Sàigòn. 

Lớp nầy hầu hết đều đậu Tú Tài I và năm sau đậu Tú Tài II. Rất tiếc có Trần Bình Đức vừa đậu Tú Tài II chưa kịp nghe kết quả, anh đã bị chết do sưng màn óc vì anh học nhiều quá, nào là vừa học Đệ Nhất Cao Thắng lại học lớp Dự Bị ở Khoa Học Đại Học Đường Sàigòn. Anh trối lại với các em của anh: "Đừng học nhiều như anh."

Số còn lại của lớp nầy đa số đều lên Đại học, hoặc trường Kỷ sư công nghệ, hoặc Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật, có 2 anh đi khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, đó là Trần Thanh Quang và Huỳnh Văn Dân. Riêng tôi năm học nầy, tôi thi rớt 4 lần thi Tú Tài I; 2 lần thi phổ thông và 2 lần thi kỹ thuật. 

Rớt Tú Tài I, tôi phải học lại. Do thi rớt tôi buồn, nên về quê không làm đơn xin học lại, năm đo chương trình học thay đổi, thay vì học 2 sinh ngữ, nay chỉ học 1 sinh ngữ. Thấy đến ngày hết hạn nộp đơn xin học lại, thầy Giám Thị Phạm Văn Luật tự làm đơn xin cho tôi học lại, do Thầy thấy trong học bạ Anh văn tôi khá hơn Pháp Văn, nên Thầy chọn cho tôi học Anh Văn, Từ Đệ Thất lên cho tới Đệ Nhị có 5 lớp, tôi được học lại lớp Đệ Nhị 5 học sinh ngữ Anh Văn. Năm sau lên Đệ nhất  chỉ còn lại có 3 lớp: Đệ Nhất 1 và Đệ nhất 2 học Pháp Văn, chúng tôi Đệ nhất 3 học Anh Văn có 39 học sinh mà thôi. 

Tôi nhớ những anh em ở lại học chung lớp Đệ nhi 5 và Đệ Nhứt 3 với tôi có Huỳnh Ngọc Điệp, Ngô Phước Tường, Vũ Duy Khiết, Hồ Ngọc Điển nhưng nay đã lâu tôi không còn nhớ được nữa. Trưởng lớp là Phan Thành Tưa, lớp nầy tôi mới học chung với Huỳnh Hữu Lộc, Nguyễn Văn Chúc, Hoàng Thanh, Nguyễn Văn Nghĩa …   

Sau khi đậu Tú Tài Kỹ Thuật toàn phần năm 1964, tôi thi vào trường Kỷ sư Công nghệ, ngày đi thi Kỹ Nghệ Họa tôi bị chiếc Vélo Solex của mình gây trở ngại, máy không nổ, đem cho thợ sửa không được, tôi bỏ thi. Sau đó thi vào Sư Phạm Kỹ thuật, tuyển 10 Sinh viên, tôi đậu dự thính thứ 2. Ngày khai giảng, kể cả tôi chỉ có 7 người theo học, trong đó có anh Nguyễn Mạnh Hoạt, học chừng 2 tuần anh Hoạt cũng bỏ học, do anh được học bổng, nên sang Pháp theo học và đã tốt nghiệp ở trường Ecole nationale supérieure de Mécanique, tại Nante miền Nam nước Pháp, tôi và anh vẫn liên lạc với nhau. 

 Năm 2012 tôi sang Paris, anh Hoạt có mời tôi đến Nantes chơi với anh, nhưng do xứ lạ, tôi ngại nên không đi, chỉ đi theo người bà con đến Colmars cách Ý vào khoảng 30 km, ở đó 1 tuần lễ, có tham quan thành phố Nice, ra bờ biển, nhưng không có tắm biển.

Bờ biển Nice năm 2012

Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật được thành lập từ năm 1962, không có cơ sở riêng, nên đặt chung cơ sở của Trường Bách Khoa Trung Cấp, trong Khuôn viên Bách Khoa Phú Thọ, do ông Trần Lưu Cung Phó Giám Đốc Nha Kỳ Thuật, kiêm Hiệu Trưởng Trường Bách Khoa Trung Cấp, kiêm Giám Đốc Trường Cao Đẳng Sư Phạm Kỹ Thuật.                                                                                                                                                                  

Do học Cao Đẳng Sư Phạm mỗi tuần học chừng 30 giờ, Viện Đại Học Vạn Hạnh lại vừa mới mở, Có Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn đặt tạm tại Chùa Xá Lợi, học phí cũng không cao, giờ giấc thuận tiện từ 6 giờ chiều đến 10 giờ đêm, tôi lại thích văn chương từ nhỏ, nên rủ thêm vài bạn cùng ghi danh học, lúc đó học theo Tín chỉ, một năm chia làm 2 mùa: Khóa Mùa Xuân và Mùa Thu. Tôi học được 2 năm, có được 3 hay 4 Tín Chỉ rồi năm 1966 tôi tốt nghiệp Giáo Su Trung Học Kỹ Thuật Đệ Nhứt Cấp, được bổ nhiệm đến trường Trung Học Kỹ Thuật Y-Út Banmêthuột, nên tôi nghỉ học thêm để lên Cao nguyên dạy học tại trường dành riêng cho dân tộc thiểu số.

 Tôi đi dạy ở Trung học Kỹ Thuật Y Út Banmêthuột từ đầu niên học 1966-1967 đến đầu tháng Giêng năm 1968 tôi được gọi nhập ngũ, được đưa đi học Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức khóa 27, nhập học ngày 12 tháng Giêng và tốt nghiệp ngày 10-8 năm 1968 được gắn cấp bậc Chuẩn Úy, rồi có xe của đơn vị rước về nhập học tại Trường Quân Cụ ở Gò Vấp, học liền 2 khóa Khóa Sĩ Quan Quân Cụ Cơ Bản, có Ám số chuyên nghiệp 552 và tiếp theo Khóa Sĩ Quan Sữa Chữa Vũ Khí và Quân Xa, có Ám số Chuyên nghiệp 572. Tháng 4 năm 1969, mãm khóa, được phân bổ về Vùng 4, rồi được phân bổ tiếp về Đại Đội 21 Quân Cụ, ngay lúc đó được cải tổ, sáp nhập vào Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận, thuộc Quân Đoàn 4. Đon vị đóng tại Thị xã Sóc Trăng, tôi được phân bổ về Tiểu đội Sửa Chữa, yểm trợ cho Trung Đoàn 32 thuộc Sư Doàn 21, đóng tại Thị xã Cà Mau. Tôi ở Cà Mau được chừng hơn tháng thì lại bị điều động về Đại Đội Bảo Toàn, giữ chức Trung Đội Trưởng Trung Đội Hậu Cứ có nhiệm vụ sửa chữa xe và vũ khí. Cho đến ngày 15-9-1969, lên Air Việt Nam ở Sóc Trăng bay về Sàigòn, nghì phép 10 ngày, rồi trở về Banmêthuột dạy lại. 

Trường Trung Học Kỹ Thuật Y Út Banmêthuột năm 1966

Trường đã thay đổi Hiệu Trưởng từ Đống Văn Quan sang Nguyễn Văn Quán nay là ông Nguyễn Văn Huệ, ông Huệ cử tôi làm Phụ tá Học Vụ (Chức vụ tương đương Giám Học kiêm Tổng Giám Thị) và cử tôi làm Phát Ngân Viên. 

Đầu năm học 1970-1971, tôi được đổi về Trung học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, Sàigòn, tôi  ghi danh đi học lại tại Phân Khoa Văn Học và Khoa Học Nhân Văn do Thượng Tọa Thích Quảng Độ làm Khoa Trưởng, tôi được xếp theo học năm thứ 2. 

Viện Đại học Vạn Hạnh 222 Trương Minh Giảng Quận 3 Sàigòn. Gồm các Phân Khoa: Phật Học, VH và KHNV, Khoa Xã hội học, Giáo dục, Trung tâm Ngôn Ngữ 

Tôi còn nhớ những sinh viên cùng học với tôi đã tốt nghiệp Cử Nhân Văn Chương có: Vũ Văn Trung (Chỉ huy Trưởng Liên Đoàn Khóa sinh Trường Quân Cụ), Bùi Văn Sớm (nhân viên Nha Khảo Thí, Bộ Giáo Dục Sàigòn), Lý Trương Quang (giáo sư Trung học), Trần Hổ Từ (sau khi tốt nghiệp du học Đài Loan), Chu Thị Xuân Mai, Trương Thị  Bích Vân (giáo sư Trung học Xuân Thu Sàigòn), Nguyễn Ngọc Mai, Trần Thị Bích Bướm, Vũ Thế Ngọc (tác giả Trà Kinh) và Mai Vi Phúc. 

Lễ Phát văn bằng cử nhân kỳ 3 năm 1973 được tổ chức vào buổi sáng ngoài sân trường, đa số sinh viên tốt nghiệp đều có mặt, để nhận lãnh văn bằng, được mặc áo và đội mũ. 

 Từ phải: Anh X, Nguyễn Thị Huỳnh Mai (Báo Chí) Lý Trương Quang (Van Học Việt Nam), Bùi Văn Sớm (VHVN), Huỳnh Ái Tông (VHVN), các Cử Nhân (Văn Chương Anh Mỹ) 

Tôi đã ghi danh theo học Cao Học Văn Học Việt Nam, đã lấy Chứng Chỉ Cao Học 1, sau đó biến cố 1975. Viện Đại Học Vạn Hạnh bị đóng cửa, tôi không thể học tiếp. 



866424082024





Tuesday, August 20, 2024

Để tôi kể cho bạn nghe

Trước hết tôi kể về tôi. Tôi sanh ngày 13 tháng 5 năm 1941 tại làng Bình Thủy, tổng Định Thành, quận Châu thành, tỉnh  Long Xuyên. Cha là Huỳnh Văn Đoan, người làng Bình Thủy, mẹ là Đặng Thị Sảnh người làng Phú Hòa, tục danh Bờ Ao, quận Châu Thành tỉnh Long Xuyên nay là làng Phú Hòa, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, gốc ông ngoại tôi ở Bù Húc, tỉnh Sa Đéc.

Do những năm loạn lạc thời Đệ nhị thế chiến 1939-1945, và hoàn cảnh gia đình, nên tôi bị thất học một thời gian, năm 1948 hay 1949 tôi mới được đi học lại tại trường làng, có thầy giáo mở lớp dạy tư.

Năm 1950, tôi xuống tỉnh Long Xuyen dự thi và đã đậu văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, có bằng nầy được vào học lớp Nhì, nay là lớp 4.

Văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học

Do gia đình không có đủ điều kiện đi xuống tỉnh học, nên tôi tiếp tục học thêm ở trường tiểu học trong làng vài năm rồi lại thất học tiếp.

Học lại ở trường làng sau khi đã có văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học

Làng tôi là Cù lao Năng Gù, nằm song song với QL91 xưa kia là đường LT10 (có nghĩ là đường Liên Tỉnh 10 – thời Pháp thuộc Nam Việt có 20 tỉnh: Gia Định số 1, Châu Đốc số 2, Hà Tiên số 3, …, Long Xuyên số 8, cộng lại thành 10) bao bọc chung quanh là Sông Hậu Giang và Xép Năng Gù, Xép có nghĩa là con sông nhỏ, nó là chi nhánh của sông Hậu, đầu cù lao nằm gần Vàm Nao, đuôi cù lao nằm chỗ Bến đò Rạch Gộc, nơi đây có phà chạy từ Bến đò Rạch Gộc sang Tham Buôn thuộc xã Mỹ Hội Đông.


Cù lao Năng Gù (xã Bình Thủy) bao bọc bởi Sông Hậu và Xép Năng Gù (chạy dọc theo QL91)

Nguồn gốc của tôi có vẻ mù mờ, năm tôi được 13 tuổi, tháng Giêng ông thân tôi mất, tháng 10 bà thân tôi mất, nên tôi chỉ biết thân tộc mồ mả ông bà qua sự chỉ dẫn của bác Hai và cô Bảy tôi, rồi sau nầy tôi tự tìm hiểu thêm.

Theo như tôi biết, quê ông cố tôi ở Đình Cũ làng Mỹ Hội Đông, ông cố tôi có 3 anh em trai, nghe nói gốc ông họ Tạ, ông là anh cả sang Cù Lao Năng Gù lập gia đình với bà cố tôi, là bà Phan Thị Thông và ông lấy họ Huỳnh tên họ đầy đủ là Huỳnh Quới, người em kế đi đến Rạch Giá lập nghiệp lấy họ Lê và người em Út vẫn ở tại Đình Cũ, sau con cháu đổi thành họ Nguyễn, nay ở tại Tham Buôn thuộc Mỹ Hội Đông. Năm 2013, tôi có cùng anh em tôi sang Tham Buôn tìm thăm bà con, chúng tôi có gặp Bảy Thành, là em thuộc gánh họ nhà chúng tôi ở Mỹ Hội Đông.

7 người phía tay trái là anh em, cháu gánh họ chúng tôi ở Tham Buôn Mỹ Hội Đông, An Giang

Còn gánh họ Nguyễn theo lời người em họ Bảy Thành ở Tham Buôn cho biết, người của gánh họ nầy từ Rạch Giá sau chuyển về thành phố Long Xuyên, ở gần khu nhà đèn, gần cầu Henry xưa, nay là cầu Hoàng Diệu  về sau nầy chuyển đi đâu không biết.

Ông cố tôi là ông Huỳnh Quới thành hôn với bà cố tôi là Phan Thị Thông, họ có 3 người con trai, ông nội tôi là Huỳnh Bá Thảo con đầu lòng, con trai thứ hai là Huỳnh Văn Nghì lập nghiệp ở làng Hòa Tú, tỉnh Sóc Trăng, lập gia đình tại đây có tham gia vào Ban Hội Tề làng và có 2 người con, con trai là Huỳnh Văn Hòa có gia nhập gánh hát bội và con gái là Huỳnh Thị Chánh. Con trai thứ ba của ông cố tôi là Huỳnh Văn Đắc theo người dì thứ 8 có gia đình ở Nhà Bàn, nên đến đó lập nghiệp, có gia đình sanh được 3 người con trai là Huỳnh Văn Thung, Huỳnh Văn Diện và Huỳnh Văn Thường.

Ông nội tôi lập gia đình với bà Nguyễn Thị Thoi, hai ông bà sanh được 8 người con, gồm có 4 nam và 4 nữ. Bác Hai tôi tên Huỳnh Bá Dinh, kế đó cha tôi là Huỳnh Văn Đoan, kế đó cô Tư tôi là Huỳnh Thị Thu, kế đó cô Năm tôi là Huỳnh Thị Thuộc, kế đó cô Sáu tôi là Huỳnh Thị Cầu, kế đó cô Bảy tôi là Huỳnh Thị Kiếm, kế đó chú Tám tôi là Huỳnh Bá Nhệ sau cùng chú Chín tôi là Huỳnh Văn Thích. Trong anh em của cha tôi có cô Tư lập gia đình ở làng Bình Thạnh Đông (Thị Đam), cô Sáu lập gia đình ở làng Cần Đăng (Hang Tra), còn chú Tám tôi trước dạy học ở làng Bình Mỹ, sau 1945 dạy học ở Trường Nữ tỉnh Châu Đốc, chú Chín tôi khi còn trẻ, trước 1945 làm biện làng (thư ký), sau nầy có làm Chủ tịch Hội Đồng Xã, thập niên 1970-1980 sống ở thị xả Long Xuyên, kỳ dư đều lập gia đình sinh sống trong làng, trừ cô thứ Bảy không lập gia đình, sinh sống với cha mẹ và anh em tôi cho đến khi mãn phần.

Chú 9, Chú 8, Dượng 6, Dượng 4, Bác 2, Bác 2 gái, Cô 5, Cô 6, Cô 7 và Thím 8

Bên ngoại tôi xưa kia sinh sống tại Bù Húc, nay thuộc xã Phong Hòa, huyện Lai Vung tỉnh Đồng Tháp. Ông cố ngoại tôi là Đặng Văn Sĩ lập gia đình với bà cố ngoại tôi là Lê Thị Giàu. 


Ông Đặng Văn Sĩ – Bà Lê Thị Giàu

Ông bà cố ngoại tôi sinh được 5 người con: Thứ 2 là ông Đặng Huy Phương lập gia đình với bà Nguyễn Thị Dư sinh sống tại làng Phú Hòa (Bờ Ao) quận Châu thành, tỉnh Long Xuyên, có 5 người con gồm 1 trai và 4 gái. Thứ 3 là ông Đặng Văn … lập gia đình sinh sống tại Ô Môn, Cần Thơ, có 2 người con trai là Đặng Văn Cảnh và Đặng Văn Nhân. Thứ 4 là bà Đặng Thị Cúc lập gia đình với ông Trương Văn Xuyên ở Bù Húc, có 6 người con. Thứ 5 là bà Đặng Thị Cụt lập gia đình ở Thới Lai, Cần Thơ từ lâu không liên lạc nên không biết tin tức. Thứ 6 là ông Đặng Văn Mùi không lập gia đình, sinh sống tại Bù Húc.

Cũng nên nói thêm, tôi còn một ông cố nữa, đó là ông ngoại của cha tôi, ông ấy tên là Nguyễn Văn Suốt. Theo lời cô Bảy (Huỳnh Thị Kiếm) kể cho tôi nghe, ngày xưa ông bà Sơ tôi sống với nhau không khá giả chi, khi bà sơ có mang ông cố tôi, mùa màng làm xong, ông sơ tôi đi xuống miệt dưới ( Sa Đéc, Cần Thơ) làm thuê, làm mướn để kiếm thêm tiền, ở nhà bà sơ tôi sinh ra ông cố tôi, khi ông sơ tôi trở về nhà, hai ông bà thân sinh bà sơ tôi cho rằng ông sơ tôi không thương vợ con, không có trách nhiệm gia đình, nên không cho ông sơ tôi vào nhà, ông sơ tôi tủi thân ở bên hè nhà khóc suốt đêm, gần sang ông bỏ đi biệt tăm, mất tích từ đó. Về sau bà sơ tôi lập gia đình với ông họ Quách, rồi bà sơ tôi cho ông cố tôi làm con nuôi quan phủ hồi hưu Nguyễn Hà Thanh. Theo lời cô tôi kể không biết gốc tích ông Phủ Nguyễn Hà Thanh, nhưng ông họ Đoàn, tôi dò tìm trong sử ở Huế dưới triều Tự Đức có phản loạn vì việc xây lăng Tự Đức, những người làm phản dung chày quết vôi chống quân triều đình nên gọi là “giặc chày vôi”, người cầm đầu họ Đoàn, họ Đoàn bị khép tội, nhưng có 2 người trốn thoát biệt tâm mất tích. Khi về hưu ông Phủ định cư ở làng tôi không hề có bà con, họ hàng xa gần với ai hết.

Ông cố tôi Nguyễn Văn Suốt thành hôn với bà Dương Thị Út, theo gia phả họ Dương ở làng, bà Dương Thị Út là con ông Dương Văn Sanh, cháu nội ông Dương Văn Thành, cháu cố ông Dương Văn Hóa. Ông Dương Văn Hóa là người lập làng Bình Lâm nay là làng Bình Thủy nằm trên cù lao Năng Gù, thuộc Tổng Định Thành, quận Châu Thành tỉnh Long Xuyên, nay là làng Bình Thủy huyện Châu Phú tỉnh An Giang. Ông Dương Văn Hóa được dân làng tôn xưng là ông Tiền hiền có bài vị thờ trong Đình làng và dòng họ có lập phủ thờ gần đó. Xưa mộ ông Dương Văn Hóa nằm trong phần đất của bà Dương Thị Út vào thập niên 60 khi lập miếu thờ thì phần mộ được cải táng, di dời về phủ thờ.

Tôi muốn nói gia đình tôi thuộc họ Dương trong làng, ông Tiền Hiên xưa kia quy tụ người lại khai khẩn đất và lập nên làng Bình Lâm, là bên ngoại của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ và khi tôi còn nhỏ, tôi còn nhớ nhà ông bà để lại cho cha mẹ tôi nằm sát bên nền nhà ông Phủ xưa, do nhà cột gỗ mái ngói âm dương, lót gạch tàu, lâu ngày gỗ bị mối mọt, nên cháu nội ông Phủ xây dựng thu gọn lại.

866420082024