Khi tôi còn
nhỏ ở quê nhà, những đêm trăng rằm vào tối mười bốn, tôi thường theo mấy chị
hàng xóm đi chùa lễ Phật, sau khi lễ Phật, tụng kinh xong được ăn xôi chè trôi
nước. Sở dĩ tôi phải đi theo mấy chị vì từ nhà tôi cho đến chùa phải đi qua một
chỗ có vài ngôi mã chôn cất sát bên đường, cạnh đó lại có bụi tre um tùm cây
lá, rồi lại phải đi ngang qua ngôi đình làng, trong sân đình có những ngôi miếu
âm u, lại có những cây dầu, cây sao cao đầy những con dơi đeo những cành cây ấy.
Nên sợ ma mà không dám đi đêm nhất là những hôm không có trăng sáng.
Tôi nhớ mỗi năm vào ngày mồng một Tết, mấy ông làng đi ngang nhà tôi họ như thói quen, dừng xe đạp lại rủ cha tôi cũng là hương chức trong làng cùng đi, tiện thể họ xé một dây chuối bên cạnh nhà để cột vào ống quần dài của họ. Hỏi cha tôi tại sao làm vậy ? Cha tôi giải thích: “Để cho được sạch sẻ khi vào Chánh điện lễ Thần ở Đình hay lạy Phật ở Chùa”.
Trong khu đất bên ngoại tôi có ngôi chùa, nay tôi tin rằng xưa kia chùa ấy là cái am có người được dựng tạm trong đất bà ngoại tôi, sau nầy nó trở thành ngôi chùa ở Bờ Ao huyện Thoại Sơn tỉnh An Giang, mẹ tôi có quy y, tôi không rõ pháp danh của người mà không chừng mẹ tôi cũng không nhớ pháp danh của mình, vì tôi chưa từng nghe mẹ tôi nói đến, nhưng trong nhà, ai cũng biết mẹ tôi có quy y đầu Phật.
Lúc mẹ tôi bệnh, theo ý muốn của người, các anh chị tôi đưa mẹ đến Thoại Sơn để trị bệnh, khi bệnh tình nặng hơn lại đưa về ngôi chùa trong làng Bờ Ao, cho mẹ tôi nghỉ rồi mất tại ngôi chùa đó vào lúc 10 giờ đêm tháng 10 âm lịch, mặc dù chùa cách nhà các dì tôi không xa.
Lúc cha tôi mất trước đó, khi cúng 100 ngày, mẹ cho tôi và em gái tối ngủ chùa Bình Phước ở ấp Bình Thới xã Bình Thủy (Năng Gù) để ông Hòa Thượng Thích Phước Quý tụng kinh, tôi đội sớ Cầu Siêu cho cha tôi.
Chùa ấy ngày trước là Bình Phước Tự thuộc phái Bắc Tông, ngày nay hình như chùa thuộc phái Khất sĩ.
Chùa do Thượng Tọa Thích Giác Minh trụ trì từ năm 1994, được xây dựng lại từ năm 2002 như hiện nay.
Từ năm 1954, tôi đã đi khỏi làng để đi học lại ở Châu Đốc rồi Sàigòn, hình như Tết năm 1960, tôi theo chú đến chùa, dạo đó có người bà con xa là anh Bắn làm ông từ giữ chùa, vì chưa có trụ trì, từ đó đến nay tôi chưa trở lại viếng chùa lần nào.
Chắc sau nầy có về quê, tôi sẽ đến viếng chùa, vì nơi đó có thể còn có di vật do cha tôi để lại như sách hay tranh thờ.
Xưa nhà tôi có một bức Tranh Quan Công, Quang Bình và Châu Thương rất đẹp, cha tôi lộng kính nhưng không thờ, sau có người mách bảo cha tôi nên thờ bức tượng đó vì ngài rất linh thiêng, sẽ phù hộ cho trong nhà được yên đẹp. Sau đó cha tôi đóng trang rồi thờ ở giữa nhà.
Ở xóm có một cậu thanh niên cùng thuộc họ hàng đến chơi, có khi trưa buồn ngủ rồi ngủ luôn, trước hắn ngủ tại bộ ván ngựa giữa nhà, sau hắn chuyển sang ngủ bộ ván ngựa phía trái căn nhà. Về sau hỏi lý do, hắn cho biết nằm bộ ván ngựa giữa nhà hắn bị đuổi, còn ngủ bộ ván bên hông không bị đuổi.
Sau khi cha tôi mất, có người bàn là do tranh thờ, Châu Thương cầm đao quay vào trong, nên có hại cho người trong nhà, do đó gia đình đem bức tranh đẹp ấy xuống gửi cho ông Hòa Thượng trụ trì chùa.
Khi người Phật tử Quy y thì sẽ được vị chủ lễ ban cho Pháp danh. Pháp danh nầy có khi được quy định do vị tổ đặt ra thành một bài kệ truyền thừa, cứ theo đó mà vị chủ lễ ban cho đệ tử theo bài kệ ấy. Như phái Lâm Tế chánh tông ở miền Nam có bài kệ truyên thừa:
Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên 導本原成佛祖先
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên
明如紅日麗中天
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ
靈源廣潤慈風溥
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền 照世真燈萬古懸
Một người Tu sĩ khi thọ Sa-di phải giữ 10 giới, được ban Pháp tự và khi thọ Cụ túc giới được ban Pháp hiệu trở thành Tỳ kheo giữ 227 giới hay Tỳ kheo ni giữ 311 giới. Theo truyền thống Nguyên thỉ, Tỳ Kheo có 311 giới và Tỳ kheo ni có 348 giới.
Trong Luật Tỳ kheo của Phật giáo Bắc tông, tăng sĩ thọ Tỳ kheo giới, còn gọi là Cụ túc giới phải thọ nhận
250 giới cấm. Một tỳ kheo ni phải thọ 348 giới.
Qua đây, chúng ta được biết Pháp danh, Pháp tự và Pháp hiệu của một người Phật tử và Tu sĩ.
Có những trường họp vị thầy truyền giới, đã ban Pháp danh cho đệ tử dựa theo tên của người ấy. Ví dụ như Phật tử Nguyễn Văn Thành, ngoài đời người ta thường nói thành đạt cho nên bổn sư của anh ta ban cho anh ta Pháp danh là Thiện Đạt, ví dụ có người tên Nguyễn Minh Hiền, do người đời thường nói hiền lương, nên bổn sư của anh ta ban cho Pháp danh là Tâm Lương hoặc Thiện Lương Tuy nhiên cũng có những vị ban Pháp danh cho đệ tử của mình theo cách khác. Thí dụ như Hòa Thượng Thích Thanh Thạnh ban Pháp danh cho các đệ tử của ngài như: Đặng Quang Sước, pháp danh Phúc An, Nguyễn Đình Nam Phúc Tuệ, Nguyễn Huy Nghiễn Phúc Ân, Bùi Thế San Phúc Trí, Bùi Thọ Thi Phúc Văn, Nguyễn Văn Liên Phúc Thịnh, Huỳnh Ái Tông Phúc Trung …
Đó là một vài suy nghĩ của tôi, có thể giải đáp cho chính mình về những suy tư đã có từ lâu.
866405092025
No comments:
Post a Comment