Trước tiên xin nói đến bà Khúc Minh Thơ,
bà sinh năm 1939 tại Sa Đéc,
thuộc Miền Nam Việt Nam đã cộng tác chặt chẽ với Đặc Sứ Robert Funseth trong
công cuộc vận động tù nhân chính trị được sang định cư tại Hoa Kỳ. Chuyến phi
cơ đầu tiên vào ngày 13 Tháng Giêng 1990 chở 32 H.O.1 là một khúc quanh lịch sử
tỵ nạn, cho đến khi kết thúc đã có khoảng 300,000 tù nhân chính trị và gia đình
đi định cư tại nước ngoài.
Khúc Minh Thơ (1939-20XX)
Tưởng cũng nên nhắc lại, vào những ngày cuối Tháng Tư 1975, bà Khúc Minh Thơ
đang làm việc tại Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Phi Luật Tân. Chồng bà bị đi
tù cộng sản, sau này biết được tin tù nhân cải tạo bị ngược đãi và chết dần
chết mòn tại các trại tù, bà đến Hawaii cuối Tháng Giêng 1977, và bắt đầu cuộc
tranh đấu đòi Cộng Sản Việt Nam phải thả các sĩ quan và viên chức Việt Nam Cộng
Hòa ra khỏi tù. Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị ra đời vào Tháng Tám 1977 và
được dư luận chú ý đặc biệt. Nhờ vào những tài liệu chính xác về tình trạng tù
nhân chính trị nên những vận động của hội đã có tiếng vang lớn. Thời Tổng Thống
Reagan, phần lớn kết quả những chuyến đi của Đặc Sứ Robert Funseth sang Việt
Nam thương thuyết cho anh chị em H.O. đi định cư là có sự vận động hữu hiệu của
Hội Gia Đình Tù Nhân Chính Trị.
Đặc biệt bà đã can thiệp cho những nhà văn, nhà báo nổi tiếng và bị bắt sau tháng 4 năm 1975 như Uyên Thao, Hoàng Hải Thuỷ, Thanh Thương Hoàng…được ra đi, bà cho biết: "Đây là vấn đề nhân đạo của chính phủ Hoa Kỳ, họ có cho dễ dãi hơn, là những người bị bắt sau năm 1975 bởi vì những nhà văn, nhà báo họ đã bị ở tù và bị những cái sự bạc đãi vì vậy mà tôi đã nói vấn đề đó để đưa ra cho chính phủ Hoa Kỳ, như là Hoàng Hải Thủy, Thanh Thương Hoàng, Uyên Thao đều có hợp tác với chính phủ Hoa Kỳ trước 75.
Những đêm thức trắng đọc thư của các gia đình HO từ Việt Nam gửi sang, những ngày lặn lội nắng mưa, tuyết bão để đi gõ cửa từng văn phòng dân biểu, rồi những buổi tối ngồi dán từng cánh tem trả lời thư cho các gia đình H.O. còn kẹt ở Việt Nam…Từ những ngày đầu tiên cho tới ngày về hưu, bà vẫn hăng say làm việc bất kể ngày đêm.
Định mệnh đã đặt tên cho
chị như đúng cuộc đời chị, vỏn vẹn có hai chữ “Hạnh Nhơn” ngắn gọn nhưng súc
tích bao la! Chị đức hạnh và nhân từ qua những công việc chị đã làm cho thương
binh, quả phụ, cho những người thân còn lại ở quê nhà.
Cựu Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn (1939-2017), ân nhân của TPB VNCH. (Hình: Người Việt)
Bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn sanh năm 1939 tại Sa Đéc,
Bà đã tận lực những tháng
năm cuối đời để vận động, gây quỹ giúp cứu trợ các thương phế binh VNCH và các
gia đình cô nhi quả phụ còn kẹt lại ở Việt Nam.
Nhập ngũ năm 1950 ngành
tài chánh, phát lương cho quân nhân ở Quân Đoàn 1. Là thiếu úy rồi trung úy sĩ
quan tiếp liệu Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương. Sau đó qua trung tâm huấn luyện
và trường Nữ Quân Nhân, rồi lên đại uý làm việc tại văn phòng đoàn Nữ Quân Nhân
của Bộ Tham Mưu.
Năm 1969, là thiếu tá
trưởng Phòng Nghiên Cứu, chuyển qua Không Quân và lên trung tá năm 1972 – Trung
tá phân đoàn trưởng Nữ Quân Nhân quân chủng Không Quân. Bà đã cống hiến 25 năm
của tuổi thanh xuân cho quân đội, để rồi sau cùng phải sống nhiều năm trong tù
ngục chính trị đau thương của VNCH.
Sau Tháng Tư 1975, bà cũng
như những sĩ quan khác của quân lực VNCH bị đi tù, bị giam giữ nhiều nơi khác nhau: Long Giao, Quang Trung,
Z30D, Hàm Tân và Long Thành.
Ra tù, năm 1990 bà định
cư ở Hoa Kỳ. Sau khi cuộc sống được ổn định, bà tham gia Hội HO Cứu Trợ Thương
Phế Binh và Quả Phụ VNCH. Ban đầu, bà là phó chủ tịch hội Tương Trợ Cựu Tù Nhân
Chính Trị, làm giấy tờ bảo lãnh cho các cựu quân nhân quân lực VNCH không có
thân nhân bảo lãnh, sau đó làm hội trưởng HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ
VNCH.
Trong thời gian làm việc,
bà chuyển giao một số hồ sơ của cựu cảnh sát ở Việt Nam đang gặp khó khăn. Mấy
năm trước đây, những gia đình này đã được Hội HO giúp đỡ. Nay, chuyển hồ sơ qua
cho Tổng Hội Cảnh Sát Quốc Gia VNCH để tiếp tục hỗ trợ trong khả năng có thể
giúp được của tổng hội.
Bà Nguyễn Thị Hạnh Nhơn đã ra đi vào ngày 18 Tháng 4 năm 2017 những
tháng ngày đau khổ nhất của dân tộc Việt Nam chúng ta khóc cho đất nước, dù đã
mấy chục năm qua vẫn còn điêu linh khốn khổ.
Một đoạn xa lộ 405 được đặt tên cố Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.
(Hình: Nguyên Huy/Người Việt)
Bao năm dài bà theo đuổi một việc làm hết sức có ý nghĩa. Thật đáng kính phục
thay, một nữ sĩ quan Quân Lực VNCH kiên cường nhưng giàu lòng nhân ái như chị. bà
đảm đương khoảng gần 10,000 hồ sơ thương phế binh và cô nhi quả phụ VNCH còn
tại quê nhà; chia sẻ tình thương, an ủi họ bằng xe lăn, bằng số tiền nho nhỏ
tượng trưng nhưng đã nói lên tấm lòng yêu thương tha thiết dành cho đồng ngũ
ngày nào.
Bà thường tổ chức “Hội
ngộ nữ quân nhân hải ngoại” theo truyền thống cứ mỗi ba năm một lần, mục đích
để: duy trì tình yêu thương đoàn kết; hồi tưởng thời gian trong quân ngũ và để
biết ai còn, ai mất mà tưởng nhớ các chị em đã quá vãng.
Yểm trợ “Quỹ tình thương
nữ quân nhân” để lo cho các chị em còn kẹt tại quê nhà đang gặp khó khăn và
bịnh hoạn.
Thật là cảm động, mỗi lần
mời gọi hội ngộ, các chị em dù ở phương trời nào: Pháp, Canada, Úc Châu, Âu
Châu và khắp các tiểu bang Hoa Kỳ, đều không quản ngại thì giờ và tốn kém, nồng
nhiệt hưởng ứng, bay về hội tụ với nhau để sống lại những ngày thân ái cũ.
Đây cũng là dịp để tình
yêu thương đồng đội, bằng hữu thêm gắn bó. Họ kể cho nhau nghe những năm tháng
tù đày, những cảnh vượt biên, vượt biển, những năm tháng làm lại từ đầu với hai
bàn tay trắng nơi xứ lạ quê người và điều quan trọng hơn nữa là để thế hệ kế
tiếp cảm nhận được ý nghĩa cuộc chiến đã qua, để yêu thương chính thể VNCH, để
thông cảm niềm đau của các chiến sĩ VNCH.
Bà còn là người đứng đầu
các đại nhạc hội “Cám Ơn Anh” gây quỹ giúp thương phế binh và quả phụ VNCH tại
quê nhà. Đại nhạc hội này đã trở thành một trong những sự kiện lớn nhất cộng
đồng Việt Nam tại hải ngoại. Mỗi năm Hội đã giúp hàng chục ngàn chiến binh VNCH
bị mất một phần thân thể cùng những quả phụ chồng hy sinh trong cuộc chiến bảo
về miền Nam Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của bà,
cùng phối hợp với các tổ chức, trung tâm ca nhạc và cơ quan truyền thông đại
nhạc hội “Cám Ơn Anh” đã được luân phiên tổ chức ở Nam và Bắc Cali, mỗi năm thu
được cả trăm ngàn, cả triệu đôla và đã gởi về Việt Nam giúp đỡ nhiều người.
Bà thường nói: “Tôi vui
sướng theo niềm vui của họ khi nhận được tiền, con cái họ có thêm miếng cơm, có
thêm tấm áo, gia đình họ ấm lòng khi đồng bào ở hải ngoại vẫn nghĩ đến và nhớ
ơn hy sinh của họ.”
Bà là người sống khoan
hòa đức độ, cảm thông, sống với tấm lòng vị tha vì người, vì đời. Biết bao
nhiêu người nhất là các anh thương phế binh, các cô nhi quả phụ ở quê nhà đã
đau đớn vô cùng khi hay tin chị rũ áo ra đi. Rồi đây ai sẽ là người mở rộng
trái tim để lo cho anh chị em như bà đã từng làm!
(Theo
Nguyên Hạnh HTĐ)
Là những người
định cư tại Mỹ theo diện HO, chúng ta luôn nhớ ân những người đã giúp chúng ta
và gia đình được định cư tại Mỹ, vượt qua mọi khó khăn dưới chế độ mới. Đó là bà
Khúc Minh Thơ và những người cộng tác với bà, chúng ta cũng ca tụng Cựu Trung
Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn đã cứu giúp những đồng đội TPB và gia đình tại quê nhà.
Họ là những người có lòng vị tha, bác ái bao la.
Một người đã khóc Cựu Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn:
“Tin sét đánh ngang tai.
Một tượng đài vừa đổ.
Nay chị lìa bể khổ.
Để về cõi vĩnh hằng.
Chúng em gạt nước mắt.
Đành chúc chị bình an.”
(Trần Văn Lý, một thương phế binh VNCH
Tôi thuộc Danh
sách H06, gia đình chúng tôi đến trạm trung chuyển Bangkok ngày 2-4-1991, đặt
chân lên đất Mỹ tại San Francisco ngày 9-4-1991. Cho nên gia đình chúng tôi
luôn nhớ ơn bà Khúc Minh Thơ và những vị trong Hội Gia Đình Tù Nhân Chánh Trị.
Nguyện cầu ơn trên phù hộ cho bà Khúc Minh Thơ luôn được an vui, nhiều sức khỏe và cựu Trung tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn vãng sinh về cõi an lạc.
Dương Nguyệt Ánh (sinh năm 1960) là một nữ khoa học
gia người Mỹ gốc Việt. Bà cùng gia đình tị nạn tại Mỹ năm 1975 sau khi cộng sản
đánh chiếm Việt Nam Cộng hòa.
Dương Nguyệt Ánh rời Việt Nam năm 1975 cùng
với gia đình bằng trực thăng, trong làn sóng người Việt tỵ nạn Cộng sản vào
cuối Tháng Tư và đến được Philippines. Sau một thời gian ở trại tạm cư ở
Pennsylvania, Hoa Kỳ, gia đình được định cử ở vùng Washington, DC.
Dương Nguyệt Ánh tốt nghiệp Đại học
Maryland ngành kỹ sư hóa học, khoa học điện toán và quốc gia hành chánh rồi
được tuyển vào làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu của Hải Quân Maryland.
Trong Bộ Hải quân Hoa Kỳ Dương Nguyệt Ánh
nhậm chức Giám đốc Khoa học và Kỹ thuật (Director of Science and Technolgy) của
chi nhánh Indian Head Division thuộc Trung tâm Vũ khí Hải quân Hoa Kỳ (Naval Surface Warfare Center)
tại Maryland, tiểu ban chất nổ với nhiều giải thưởng. Bà từng là người đại diện
cho Hoa Kỳ trong lãnh vực chất nổ tại Liên minh Phòng thủ Bắc Đại Tây Dương
(NATO). Bà cũng là tác giả của bom áp nhiệt (thermobaric bomb).
Năm 2005, bà được cử về Bộ Quốc phòng Mỹ
làm cố vấn khoa học cho phó Đề Đốc Hải Quân Hoa Kỳ về thông tin và chiến thuật
tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2008 bà được bổ nhiệm làm Giám đốc An
ninh Biên giới và Lãnh hải (Director of the Borders and Maritime Security
division) thuộc nha Khoa học và Kỹ thuật (Science and Technology Directorate)
của Bộ Nội an Hoa Kỳ (Department of Homeland Security)
Source: Wikipedia
866423092025
No comments:
Post a Comment