Tôi chơi
thân với nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, có thể nói là từng “ăn chung một mâm, ngủ chung
một giường”. Thuở còn trẻ, buổi chiều hôm thi Tú Tài ngày cuối cùng, không hẹn
mà Thu và tôi cùng ra cổng Trung Tâm Trung Học Tư Thục Đăng Khoa một lượt, vô
tình gặp nhau khi trả xong nợ sách đèn trong năm, chúng tôi cùng rủ nhau đạp xe
xuống bờ sông Sàigòn, nằm trên bãi cỏ nhìn trời trong, mây trắng thả hồn
theo cơn gió thoảng.
Một vài lần,
Thu và tôi đi sinh hoạt về khoảng 10, 11 giờ đêm, Thu bảo:
- Cậu với
ta đi cho có bạn, rồi ghé nhà ta ngủ cho rồi!
Nhà Ngô Mạnh
Thu trước tiên khi di cư vào Nam ở khu Nancy, bị cháy nhà khi quân đội Quốc gia
đánh với Bình Xuyên, nên được định cư ở khu cư xá tại ấp Đông Ba, Quận Phú Nhuận.
Nhà chỉ có bà cụ mẹ Thu, cô em gái tên Quy và Thu.
Về tới
nhà, hai anh em lẳng lặng vào nhà, rón rén leo lên gác xép, tránh phá giấc ngủ
của người nhà, tiếp tục chuyện trò, cho tới khi đi vào giấc ngủ.
Một ngày
vào tháng năm ta, Ngô Mạnh Thu tìm gặp tôi, truyền lại lời nhắn của bà cụ thân
sinh anh ta:
- Cụ nhắn
cậu, ngày mai dậy sớm rữa mặt nhưng đừng đánh răng, chạy sang nhà ta ăn cơm rượu
theo tục lệ người Bắc ngày xưa.
- Chi vậy
?
- À! Nghe
nói để tránh sâu răng.
Năm tôi
ra trường, sắp sửa đi dạy trên cao nguyên, cụ hỏi ngày giờ tôi lên đường rồi bảo:
- Chiều
hôm trước ngày cậu lên đường, tôi mời cậu bữa cơm. Nhớ nhé !
- Dạ !
Con không dám quên.
Thế rồi bữa
cơm gia đình ấy, là một bữa tiệc với nhiều món ăn đầy bàn, chỉ có cụ với Thu,
cô em gái và tôi, cụ đã cho tôi ăn một món, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng
đó là món thịt đông.
Ngô Mạnh
Thu xuất thân từ trường Quốc Gia Âm Nhạc, anh là trưởng ban nhạc Hoa Niên, hát
trên đài Phát thanh quân đội, là nhạc trưởng điều khiển một dàn nhạc và ban hợp
ca ở nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn, nên nhà anh thường có một số thành viên
ban nhạc đến tập hát, nhiều lần tôi đến có khi các anh còn nói chuyện, hoặc vừa
bắt tay chào nhau ra về, gặp nhiều lần rồi quen nhau, bạn của anh cũng là bạn của
tôi, nào là anh Dũng, anh Liên, anh Ân, chị Xuân Mai…
Riêng anh
Ân và tôi được Thu chọn làm phù rể trong ngày thành hôn của anh với cô dâu, chị
Xuân Mai cũng là thành viên ban hợp ca của anh. Ân người Hố Nai Biên Hòa, cùng ở
trong ban nhạc Không quân, về sau Ân tu tập theo pháp môn “nhập thất nhịn ăn”,
anh ta đã thành công đạt qua thất thứ 6, đến thất thứ bảy, trước khi vào thất,
Ân tuyên bố:
- Lần nhập
thất nầy, tôi sẽ được gặp Chúa.
Thật chẳng
may, anh không thành công, phải bỏ mạng. Phải chăng anh đã gặp Chúa rồi. Sau
đó, Ngô Mạnh Thu cho tôi biết:
Ân bị “tẩu
ha nhập ma”, vì khi người ta phát hiện Ân chết, thấy ở dưới giường của Ân trong
Conex, có cái bếp điện, chắc trước đó hắn bị lạnh nên dùng bếp điện để sưởi ấm,
nhưng cái lạnh “tẩu ha nhập ma” là lạnh từ trong cơ thể phát ra mà. Người ta
cho biết, cứ mỗi lần nhập thất cao hơn, phải thọ giới với thầy, phải thề không
được truyền cho ai. Không biết lần cuối cùng, Ân có thọ giới với thầy nào không
? Hắn chết, mang theo hết mọi bí mật về công phu tu luyện đó.
Một người
nữa phải được nói tới, đó là Phí Ích Nghiễm, anh Nghiễm và Thu cùng sanh năm
1938 và cả hai đều cùng sinh quán ở Hà Đông, nếu tôi nhớ không lầm có lần Thu
cho tôi biết hai anh cùng học chung lớp, chung trường tiểu học.
Năm 1954,
anh Thu theo mẹ vào Sàigòn, còn Phí Ích Nghiễm vào Huế, anh đã theo học tại
Trung học Nguyễn Tri Phương, trước khi vào Sàigòn và trở thành nhà văn tên tuổi
của miền Nam vào thập niên 1960. Đó là nhà văn Dương Nghiễm Mậu, cũng ở trong
khu ấp Đông Ba.
Khi tôi
quen biết với các anh Ngô Mạnh Thu và Dương Nghiễm Mậu, các anh đã có nghề nghiệp,
tôi vẫn còn “bạch diện thư sinh”, uống cà phê thường thì Thu trả tiền, còn khi
có Dương Nghiễm Mậu, anh Mậu tự nhiên móc tiền ra trả ly cà phê của anh, đứng dậy
ra về trước, phần còn lại chúng tôi tự thanh toán.
Nhà văn
Sơn Nam, chuyên cuốc bộ khắp Sàigòn-Chợ Lớn kè kè bên mình cái túi vải, trên
môi điếu thuốc lá cháy dở dang, còn Dương Nghiễm Mậu chuyên dùng xe bus đi làm
việc, vào mùa mưa tay xách thêm một cây dù đen, thường hút píp.
Năm 1962,
chúng tôi phụ trách một lớp luyện thi Đệ Nhất Cấp miễn phí, Dương Nghiễm Mậu phụ
trách giảng dạy môn Việt Văn, còn có nhà báo Trần Việt Sơn dạy Toán, ông Nguyễn
Xuân Phong dạy Anh Văn, ông Vũ Văn Mão dạy Sử Địa …
Hàng
ngồi: Nguyễn Kim Chi, Xuân Mai, Dương Nghiễm Mậu, cô dâu (Quy)
Hàng đứng: Tông, Ân,Thu, nhà văn Nguyễn Trung Dũng, Liên (chú rể, gs QGNT)
Hàng đứng: Tông, Ân,Thu, nhà văn Nguyễn Trung Dũng, Liên (chú rể, gs QGNT)
Khu ấp
Đông Ba đó, sau đổi thành Phường 14, quận Phú Nhuận có một lò sát sanh, quán cà
phê vĩa hè chúng tôi thường uống là ở ngã ba trên con đường Huỳnh Văn Bánh, gần
cổng xe lửa số 6 với con đường trước nhà thờ ba chuông đường Đặng Văn Ngữ.
Tôi nhớ
Dương Nghiễm Mậu có một truyện ngắn, ở cái lò sát sanh, người ta giết mỗ ban
đêm, cạo sạch lông, lấy hết bộ đồ lòng ra, đem con vật móc vào cái móc sắt treo
lên thành dãi thịt. Một hôm, sáng ra người ta nhìn thấy trên cái dãi thịt các
con vật, có thân một người bị móc treo lên đó.
Tôi nghĩ
ít nhiều gì, cái lò heo ở ấp Đông Ba kia, trong lần ngồi nhâm nhi bên ly cà phê
đen, đã gợi hứng cho nhà văn sáng tác, truyện làm cho tôi liên tưởng đến phim của
vua hề Charlie Chaplin, anh đóng vai một công nhân trên
dây chuyền, chuyên cầm kềm siết con bù-lông, khi đi ra ngoài phố, anh ta thấy mấy
cô mặc áo quần với những chiếc nút, nghĩ là bù lông nên sẵn tay cầm kềm anh ta
đi theo và vặn bù-lông …, cũng như huyền thoại về nhà bác học Albert Einstein,
có lần ra đường chợt nảy ra một vấn đề cần giải toán, ông ta giải phương trình
trên thân một chiếc xe đậu bên đường, khi chủ nhân chạy xe, ông ta chạy theo xe
…
Năm 1991,
tôi đi chào từ giả những người thân quen, hôm cùng Ngô Mạnh Thu đi gần giáp
vòng, khi về tới cổng vào ấp Đông Ba, Thu nhắc tôi:
- Ghé vào
cậu chào Dương Nghiềm Mậu đi.
Thế là
tôi lái xe hướng vào nhà Dương Nghiễm Mậu, vào đến đầu ngõ, đã thấy anh mặc quần
đùi, áo thun ba lỗ, đang ngồi ngay trên đường hẽm trước nhà đánh bóng sơn mài một
tranh Phật, thấy chúng tôi anh ta nở nụ cười trên môi, nói ngay:
- Ta đang
lỡ tay, các cậu vào nhà chơi.
Thu đáp:
- Tông hắn
sắp đi Mỹ, ghé qua chào cậu.
- Vậy là
đời lên hương rồi. Sang đó, nhớ im lặng cho ta nhờ! Chừng nào lên đường?
- Ngày mốt
anh Mậu. Ghé thăm anh một chút, tôi phải về, còn nhiều việc cần thu xếp. Ở lại
mạnh giỏi nghe anh Mậu.
- Ừ ! Cậu
đi mạnh giỏi ! Khi nào về nhớ ghé thăm ta nghe.
Tôi không
rõ nghĩa anh Mậu nói “Sang đó, nhớ im lặng cho ta nhờ”, vì anh có người em là
Phí Ích Bành, trước kia học ở Đại học Vạn Hạnh, thời tôi sinh hoạt trong Tổng Hội
Sinh Viên Vạn Hạnh ở nhiệm kỳ đầu tiên và kế tiếp. Bành đã nói gì với anh
chăng?
Cách nay
hơn năm, tôi về có đi thăm anh Dương Nghiễm Mậu, lần đầu tiên tôi gặp vợ anh ấy,
chị cho tôi biết:
- Tiếc
quá, anh ở xa về tới thăm mà không gặp, hôm nay Thứ Bảy anh Mậu có hẹn với ai
đó từ mấy hôm trước, nên phải đi, anh ấy ít đi ra ngoài lắm, mời anh hôm nào trở
lại chắc là gặp anh Mậu.
Hỏi chị về
bốn quyển sách của anh Mậu do nhà công ty Phương Nam ấn hành, bị tịch thu, chị
cho biết:
- Họ
không ra văn bản cấm, nhưng âm thầm tịch thu.
Không
thăm được Dương Nghiễm Mậu, tôi đành chào chị ra về. Tuần sau tôi trở lại, vừa
mới dựng xe trước nhà thì anh Mậu đã mở cửa, mời tôi vào nhà, anh chỉ ghế cho
tôi ngồi rồi đi pha trà.
Trong khi
chờ đợi, tôi nhìn chung quanh từ tủ, bàn, ghế cái gạt tàn thuốc đều là những sản
phẩm sơn mài, màu sắc đa số là nâu hay đỏ.
Sau khi
anh pha trà, chúng tôi đã thăm hỏi nhau về sức khỏe, về gia đình. Tôi xin chụp
một tấm ảnh, anh bảo tôi:
- Cậu cho
ta yên thân, chớ chụp ảnh cho nó thêm chuyện.
Tôi hỏi
anh về mấy quyển sách bị tịch thu, anh vẫn giữ giọng cười hô hố như xưa:
- Ta
không bị gì cả, đó là chuyện của nhà xuất bản.
Chuyện đã
lâu, tôi chào anh ra về. Trên đường về, tôi nhớ đã có đọc hồi ký của nhà văn
Duyên Anh viết về Dương Nghiễm Mậu, trong những ngày tháng bị nhốt ở Phan Đăng
Lưu, Duyên Anh nhận xét Mậu khôn ngoan, trầm tĩnh, im lặng. Ra tù anh chọn nghề
sơn mài, để kiếm sống, thay vì cầm bút nay cầm cọ sơn phết, rồi mài ngày qua
ngày để nghiền ngẫm nhân sinh, nay đã đạt tới nghệ nhân sơn mài, tôi hiểu những
dặn dò ngày trước và từ chối ghi ảnh ngày nay. Tác phẩm văn chương của anh đã
là hệ lụy một đời, cho nên anh muốn tránh, né an phận trong những ngày còn lại
của tuổi già.
Nhớ trước
kia có hôm, Dương Nghiễm Mậu nhìn trời u ám, bỗng nhiên thốt: “Trời nầy có phải
là trời của Kiều nhớ Kim Trọng ?!”
22-II-2015
No comments:
Post a Comment