Trong tháng
4 vừa qua, chúng tôi có một chuyến đi Huế, ngày sau cùng có đi tham quan cầu
ngói Thanh Toàn, nơi đây tôi có mua một bình trà độc ẩm, mấy người cùng đi
trong đoàn thấy đẹp muốn mua, chủ cửa hàng nhớ còn 1 bộ nữa, nhưng tìm mãi không
ra, họ đành mua một bộ khác cũng độc ẩm, nhưng hình dạng không được đẹp bằng.
Bộ bình trà
gồm có một bình, một cái bàn và 5 cái chén hạt mít, được sản xuất tại Hải
Dương, tráng men màu xanh dương đậm, với những hình vẽ hoa lá cành và một bài
thơ ngũ ngôn tứ cú.
Thoạt tiên
tôi chỉ đọc được vài chữ trong bài thơ như chữ dạ, chữ bất, chữ tam tôi nghĩ đó
là bài thơ cổ, để khi nào rảnh sẽ tìm xem bài thơ ấy tả cảnh, tả tình như thế
nào. Tôi nghĩ mình thật tệ, không phải vì lên lão mà quên hết những chữ Nho đã
học, tôi đã học chữ Hán với Trần Mộng Nam tại chùa Ấn Quang do nhà văn Hồ Hữu
Tường tổ chức, trong lớp học nầy có cô con gái ông ta cũng học, rồi tôi học ở Đại
học Vạn Hạnh từ năm 1964 với các giáo sư Phan Hồng Lạc, Huỳnh Minh Đức, Trần Trọng
San, nhà báo Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Trần Đức Rật, bà Khưu Thị Huệ nào là Cổ văn
nào là Bạch Thoại, lại còn học cả chữ Nôm với giáo sư Bửu Cầm. Vậy mà bài thơ
20 chữ, tôi chỉ đọc được có vài ba chữ.
Nhớ năm ngoái
đi tham quan Sapa, cậu tài xế tên Cường đưa chúng tôi tới đĩnh đèo Ô Quy Hồ, cậu
ta đưa chúng tôi tới một cái quán quen, chị chủ quán người Kinh, có chồng người
H’mông. Khi chúng tôi đến chỉ có chị chủ quán tiếp khách, còn anh chồng đi phụ
với người khác để cất mấy cái quán lá gần đó. Cường giới thiệu cho chúng tôi ăn
cơm Nam và mua 1 gói lá chè ngọt.
Khi về lại
Khách sạn, Cường hướng dẫn tôi sang bên kia đường, giới thiệu cho tôi mua nụ
hoa Tam Thất, trị tiểu đường, mát gan. Thấy Cường đã đưa tôi đi chơi ngoài chương
trình Tour, nên tôi cũng mua 2 lạng cho Cường vui lòng.
Nhân có bình
trà độc ẩm Hải Dương, lại có nụ Tam Thất tôi muốn pha uống thử, khi lấy bộ bình
trà, tôi mới tò mò đọc chữ Hán trên cái bàn, câu chót tôi đọc được “Lương y bất
đáo gia”. Từ đó tôi nhớ ra bài thơ nầy quen quen, hình như có đọc ở đâu đó, vài
phút sau tôi mò mẫm đọc được cả bài thơ:
Bình minh sổ trản trà,
Bán dạ tam bôi tửu,
Mỗi nhật cứ như thử,
Lương y bất đáo gia.
Bán dạ tam bôi tửu,
Mỗi nhật cứ như thử,
Lương y bất đáo gia.
Tôi lên mạng
kiểm tra lại, để xem có chữ nào sai không và có ai diễn dịch bài thơ ấy ra sao,
tôi tìm thấy có người dẫn bài thơ ấy từ truyện ngắn Chén Trà Trong Sương Sớm
trong Vang Bóng Một Thời của
nhà văn Nguyễn Tuân.
“Sớm nào vậy, cụ cũng
ngâm một vài bài thơ. Giọng thật ấm, thật trong. Cụ hay ngâm mấy câu này:
Bán
dạ tam bôi tửu.
Bình minh sổ chản trà.
Mỗi nhật cứ như thử.
Lương y bất đảo gia.
Bình minh sổ chản trà.
Mỗi nhật cứ như thử.
Lương y bất đảo gia.
Một buổi sớm, thấy rõ
lòng thầy là vui vẻ, tôi đã mạn phép đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:
Mai
sớm một tuần trà.
Canh khuya dăm chén rượu.
Mỗi ngày mỗi được thế,
Thầy thuốc xa nhà ta.
Canh khuya dăm chén rượu.
Mỗi ngày mỗi được thế,
Thầy thuốc xa nhà ta.
Cụ Ðốc tạm cho là được.”
Bản diễn Nôm đó phù hợp
với bài thơ trên bộ trà hơn, có thể đó mới là bài thơ chính thức, được lưu
truyền, nhưng đã bị đão lộn câu 1 và 2. Nó không phải là cổ thi, chỉ là bài thơ
dân gian vì không biết tác giả. Có người cho đó là thơ của giới Lương y, khuyên
người ta sống có điều độ như sau:
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh nhất trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia
Bình minh nhất trản trà
Nhất nguyệt dâm nhất độ
Lương y bất đáo gia
Hoặc:
Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh nhất trản trà,
Thất nhật dâm nhất độ,
Lương y bất đáo gia.
Bình minh nhất trản trà,
Thất nhật dâm nhất độ,
Lương y bất đáo gia.
Theo ông Đỗ Tất Lợi (1919-2008) cho biết trong Minh Tâm Bửu Giám của Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898) in năm 1891
chỉ có 2 câu:
Lục nguyệt dâm nhất độ,
Lương y bất đáo gia.
Lương y bất đáo gia.
Theo ông Đỗ Tiến Bảng ngụ tại 76 Quang Trung, Thị xã Sơn Tây, Hà
Nội cho biết do bài thơ được giới thiệu tác giả là Hải Thượng Lãn Ông, Lê Hữu
Trác trong trang thơ giới thiệu những câu thơ hay đã được tuyển chọn trưng bày
tại cuộc triễn lãm “Trà và Thi ca” Festival Trà Thái Nguyên - Việt Nam năm
2015. Ông Bảng đã tra nhiều sách của Hải Thượng Lãn Ông, đều không thấy có bài
thơ trên. Cho nên chúng ta tạm kết luận đó là bài thơ cổ được lưu truyên và
do đó nó có những dị bản.
Biết rằng
bài viết của tôi chẳng hay, chẳng giá trị nhiều, nhưng tôi muốn viết để cho bộ óc
làm việc thường xuyên, tránh bị bệnh lãng quên.
866414072019
No comments:
Post a Comment