Vào đầu thập
niên 1950, thuở niên thiếu, cha mẹ tôi còn sanh tiền, tôi còn nhỏ tuổi, nhà ở gần
ngôi trường làng, đây là ngôi trường duy nhất trong làng, tôi không biết nó được
xây cất từ năm nào, cùng giống như nhiều ngôi trường làng khác ở trong Nam, trường
xây tường, lợp ngói móc, nền xây cao hơn sân chừng 3 tấc, lát gạch Tàu.
Trường cách
xa nhà tôi chưa đầy 100 thước, nhưng thuở nhỏ đi học vở lòng, tôi không học trường
nầy mà theo người chú là Trưởng giáo sang bên kia sông học với thầy Lê Văn Thọ, thầy gốc người
Tân An, cả 2 ngôi trường đều xây cất giống nhau, có 3 lớp học và một gian nhỏ bên
cạnh, để Trưởng giáo cư ngụ và trông nom trường.
Trường tôi
theo học có tên là École de Bình Mỹ, chỉ có 2 thầy giáo dạy học trò. Thầy tôi dạy
lớp Élémentaire, chú tôi dạy 2 lớp nhập chung là Cour Moyen và Superieure, trai
gái học chung, lớp tôi ngày nay tôi chỉ còn nhớ có cô The, lớp chú tôi có nhiều
con gái hơn, nào là con của chú tôi nào là chị Phấn …
Còn trường làng
tôi, cả 3 lớp đều có học trò. Bây giờ tôi mới hiểu làng tôi đông dân cư hơn, nó
có một cù lao, đó là cù lao Năng gù có chừng 16 cây số vuông, cộng thêm một ấp
Bình An là xóm Đạo nằm bên kia sông giáp với làng Bình Mỹ thuộc quận Châu
Phủ tỉnh Châu Đốc, với làng Bình Hòa và Cần Đăng cùng với làng tôi Bình Thủy
thuộc huyện Châu thành, tỉnh Long Xuyên.
Cho đến khi
Nhật đão chánh Tây năm 1945, các thầy giáo dạy trường gần nhà tôi bỏ lớp, bỏ
trường đi theo Thanh niên Tiền phong chống Pháp, giành độc lập, còn trường bên
kia sông chú tôi, thầy tôi bỏ trường về tỉnh Châu Đốc dạy học. Tôi mới học “đánh
vần ngược” thì bị thất học từ đó.
Trường làng
gần nhà, các thầy đi theo kháng chiến hay họ trở về quê nhà tôi không rõ, chìa
khóa trường giao cho cha tôi cất giữ, có lúc anh tôi và một người bạn lấy trường
mở lớp dạy tư, được một thời gian vài tháng, anh tôi trốn nhà lên Sàigòn lập thân,
người bạn anh tôi đi bán thuốc “Sơn Đông mãi võ” lấy hiệu là Hoài Sanh, chuyên
bán ở vùng “sông nước miền Tây”.
Thuở đó
trong làng, thuộc vùng Cù lao, gần như tôi biết hết mọi nhà, vì cha tôi là cháu
chắt dòng họ Dương, có ông Dương Văn Hóa lập làng nầy, mộ ông chôn cất trong phần
đất của bà Cố tôi, gần đây con cháu họ Dương lập phủ thờ, họ cải táng ông Dương
Văn Hóa về Phủ thờ cất bên cạnh Đình làng.
Cha tôi từng
giữ chức Hương Quản rồi Hương Sư, nên cha tôi biết hết dân cư trong làng, cha tôi
có hôm nói với người quen: “Trong làng nầy, tôi không thể làm suôi với ai hết,
vì không bà con bên nội cũng bà con bên ngoại.
Thời cha tôi
làm làng không hiểu do đâu mà 12 ông Hội tề, mỗi ông commande một chiếc xe đạp
từ bên Pháp gửi sang hiệu Saint-Etienne, do cha tôi cao, nên chiếc xe cao hơn hết,
chỉ có chú Chín tôi là chiếc “xe máy đầm”. Tôi tập chạy xe khi còn nhỏ, phải
lòn người qua “cái đòn dong”, nửa bên nây và nửa bên kia để chạy, xe không có
thắng, muốn ngừng phải dùng bàn chân tựa vào sườn xe để đè ép võ xe lại.
Vì biết chạy
xe đạp, nên cha tôi thường sai đi chỗ nọ, chỗ kia từ đầu làng cho đến cuối
làng, hơn nữa nhà cha tôi có nuôi một bầy dê để lấy sửa uống, cho nên vào mùa nước
nổi dê không thể ra đồng, tôi phải lùa dê ngoài đường lộ, cho chúng ăn những
hàng me nước, người ta cũng gọi là me keo, thân và nhánh nó có gai, nên chìm dòng
dọc thường làm ổ trên nhánh cây nầy, ổ của nó làm bằng những cọng cỏ kết lại, vì nó nặng
nên nhánh cây bị rũ xuống, ổ có cái miệng thòng xuống như một chiếc vớ, trẻ con
lấy ổ chim nầy xỏ vào chân làm chiếc vớ đùa nghịch. Cây me nước trồng lâu năm có
trái, có loại ăn chát, có loại ăn ngọt, thân nó chỉ là gỗ tạp dùng làm củi, người
ta thường trồng loại cây nầy làm hàng rào trước sân nhị
Khoảng cuối
thập niên 1940, có người bà con lấy trường mở lớp dạy tư, học trò đi học có người
ở đầu làng cũng không thiếu người ở cuối làng, tôi cũng đi học lớp nầy, nên có nhiều bạn học. Nhờ đi công việc cho cha tôi, nhờ
chăn dê, nhờ có bạn học, tôi biết được nhiều người, nhiều nhà trong làng.
Tôi có người
cô, nhà cô ở phía dưới chợ, cách nhau chừng 300 thước, ngay sát cạnh nhà cô tôi
có cái mương, thông từ Rạch Chanh ra Xép Năng Gù, ngày nay có tên là Mương Năm Đô,
hắn là con thứ năm của cô tôi. Bên kia mương có một người, thuở nhỏ tôi biết ông
ta đi xin ăn. Khi tôi lớn hơn một chút, khoảng 11, 12 tuổi ông ta không còn đi
xin ăn nữa, không rõ vì trong gia đình có con lớn lên làm ăn đủ sống hay vì ông
ta già yếu. Tôi không rõ lắm vì một năm có đôi ba lần tôi đến nhà cô tôi ăn giỗ
hay ngày tư ngày Tết, chuyện chòm xóm của cô tôi, tôi không hỏi, trừ có A Dậu,
con chú Tư chệt Soạn, nhà bên cạnh phía dưới thỉnh thoảng tôi có hỏi, khi không
thấy cô ấy sang chơi hoặc phụ giúp khi nhà có giỗ quãi.
Một hôm đi
chơi về, thấy có người ăn xin mặc bộ bà ba đen, đầu đội nớn lá, tay xách bị giỏ
bàng, tay cầm gậy đứng ngay cầu thang lên nhà, tôi đi vượt qua người ăn xin rồi
vào gặp mẹ tôi trong nhà bếp, tôi báo cho mẹ biết:
- Má ơi ! Có
người đàn ông đứng ở cầu thang nhà mình xin ăn.
Mẹ tôi nói
không cần suy nghĩ:
- Thì vào xúc
gạo cho người ta như mọi lần đi con.
Tôi nghe lời
mẹ, lấy cái chén đi đến lu gạo đặt gần bồ lúa, xúc một chén đầy, đem ra cho người
ăn xin. Khi người ăn xin dùng hai tay cầm hai quai cái giỏ bàng mở miệng giỏ ra
để tôi đỗ gạo vào, tôi mới nhìn được mặt người ăn xin và nhận ra anh ta là con
người ăn xin, hàng xóm của cô tôi.
Khi người ăn
xin đi rồi, tôi thắc mắc cầm cái chén không kịp úp vào sóng chén, đến bên bếp hỏi
mẹ tôi.
- Má ơi !
- Gì nữa con
?
- Con thấy
anh ăn xin là con người ăn xin, hàng xóm của cô Năm. Con thắc mắc.
- Thắc mắc
chi con ?
- Ba anh ấy
trước kia ăn xin, nhưng lâu rồi con không thấy ông ta ăn xin nữa. Còn anh nầy ăn
mặc lành lặn, không có gì chứng tỏ nghèo khó, sao anh ta lại đi ăn xin ?
- À ! Hình
như ông ăn xin xóm giềng của cô Năm mất lầu rồi. Con của người ăn xin, đi ăn
xin lúc nãy không phải anh ta nghèo đói, theo má biết anh ta đi xin ăn để cúng
giỗ cha mình, anh ấy đi xin ăn để trả hiếu đó con.
Mẹ tôi nói làm
cho tôi thắc mắc nên hỏi thêm:
- Đi xin của
thiên hạ về cúng kiến cha mẹ mình, thì có gì mà trả hiếu má ?
Mẹ tôi suy
nghĩ trả lời:
- Con còn nhỏ
chưa hiểu được, đó là một phong tục của người ăn xin. Nhớ lời má nói hôm nay,
khi lớn lên con mới hiểu phong tục trả hiếu nầy.
Vài năm sau,
năm 1956 nhà báo Anh Phương Trần Văn Ngà làm huấn luyện viên thể dục thể thao, hướng dẫn chúng
tôi là học sinh Trường Thủ Khoa Nghĩa, Trường Nam, Trường Nữ tỉnh lỵ Châu Đốc đi
trại Hè Vũng Tàu, vì có ít trại sinh nên ghép thêm học sinh trường Chu Văn An ở
Sàigòn vào thành một Đội, nên có thêm một ông huấn luyên viên nữa trông nom.
Một hôm trại
Hè tổ chức Trò Chơi Lớn đi từ trại Hè ở gần Bót Cảnh Sát đi ra Bãi Sau, hồi đó
nó là con đường một bên là chân núi Lớn, một bên là đầm lầy có những đám bàng, đám
lác gần ra tới bãi Sau thì có những đụn cát, Khi trò chơi chấm dứt lúc đi về,
thấy phía trong xa ở những đám lác và bờ đê, có một người cụt một chân, đang đứng
với cái nạn câu cá. Ông thầy huấn luyện viên chỉ người câu cá ấy nói:
- Đó là một
người quân tử !
Đám học sinh
chúng tôi nhao nhao hỏi:
- Ông cụt chân!
Người tàn tật mà quân tử sao thầy !?
- Ừ ! Các
con không biết ! Đâu phải như Quan Công mới là quân tử, người tàn tật mà không đi
ăn xin. Ông ta tự đi làm để nuôi mình, có tiết tháo. Đó cũng là quân tử.
Từ đó tôi hiểu
được một ý nghĩa của người quân tử. Còn về người đi ăn xin để cúng giỗ cha mẹ, nhiều năm sau nầy, tôi mới hiểu được ý nghĩa phong tục con cái của người ăn xin
phải đi xin ăn để cúng giỗ, trả hiếu cho cha mẹ mình.
Hạt châu, chúa cấp trao ngang mặt,
Bệ ngọc, tôi từng đứng chấp tay.
Nam bắc đông tây đều tới cửa,
Trẻ già lớn bé cũng xưng thầy.
Bệ ngọc, tôi từng đứng chấp tay.
Nam bắc đông tây đều tới cửa,
Trẻ già lớn bé cũng xưng thầy.
Chúng ta sẽ cảm thấy thấm thía cảnh xin ăn. Và mới thấu hiểu con người
ăn xin phải đi ăn xin mới thấu hiểu mọi nổi của kiếp người xin ăn. Hiểu được như
vậy mới biết công đức cha mẹ nuôi con cái như thế nào.
8664270719
No comments:
Post a Comment