- Hữu
Phước (1932-1997)
- Thanh Hải (1933-2014)
- Thành Được (1934-20.. )
- Văn Hường (1934-20.. )
- Út Bạch Lan (1935-2016)
- Thanh Hương (1936-1974)
- Hùng Cường (1936-1996)
- Minh Cảnh (1937-20.. )
- Nam Hùng (1937-20 .. )
- Hùng Minh (1938-20 .. )
- Bích Sơn (1939-20..)
- Thanh Tú (1939-20 .. )
- Út Hiền (1940-1986)
- Út Hậu (1940-2001)
- Tấn Tài (1940-2011)
- Diệp Lang (1941-20.. )
- Thanh Nga (1942-1978)
- Ngọc Hương (1942-2017)
- Dũng Thanh Lâm (1942-2004)
- Phương Quang (1942-20 .. )
- Hoài Trúc Phương (1943-2014)
- Kim Ngọc (1943-2011)
- Thanh Sang (1943-2017)
- Thanh Thanh Hoa (1943-2009)
- Minh Phụng (1944-2005)
- Ngọc Giàu (1945-20 .. )
- Bạch Tuyết (1945-20 .. )
- Hồng Nga (1945-20 .. )
- Diệu Hiền (1945-20 .. )
- Trương Ánh Loan (194..-1979)
- Mộng Tuyền (1947-20 .. )
- Phượng Liên (1947-20 .. )
- Thanh Nguyệt (1947-20 .. )
- Lệ Thủy (1948-20 .. )
- Thanh Tuấn (1948-20 .. )
- Minh Vương (1949-20 .. )
- Ngọc Đáng (1949-20 .. )
- Thanh Hải (1933-2014)
- Thành Được (1934-20.. )
- Văn Hường (1934-20.. )
- Út Bạch Lan (1935-2016)
- Thanh Hương (1936-1974)
- Hùng Cường (1936-1996)
- Minh Cảnh (1937-20.. )
- Nam Hùng (1937-20 .. )
- Hùng Minh (1938-20 .. )
- Bích Sơn (1939-20..)
- Thanh Tú (1939-20 .. )
- Út Hiền (1940-1986)
- Út Hậu (1940-2001)
- Tấn Tài (1940-2011)
- Diệp Lang (1941-20.. )
- Thanh Nga (1942-1978)
- Ngọc Hương (1942-2017)
- Dũng Thanh Lâm (1942-2004)
- Phương Quang (1942-20 .. )
- Hoài Trúc Phương (1943-2014)
- Kim Ngọc (1943-2011)
- Thanh Sang (1943-2017)
- Thanh Thanh Hoa (1943-2009)
- Minh Phụng (1944-2005)
- Ngọc Giàu (1945-20 .. )
- Bạch Tuyết (1945-20 .. )
- Hồng Nga (1945-20 .. )
- Diệu Hiền (1945-20 .. )
- Trương Ánh Loan (194..-1979)
- Mộng Tuyền (1947-20 .. )
- Phượng Liên (1947-20 .. )
- Thanh Nguyệt (1947-20 .. )
- Lệ Thủy (1948-20 .. )
- Thanh Tuấn (1948-20 .. )
- Minh Vương (1949-20 .. )
- Ngọc Đáng (1949-20 .. )
(Tiếp theo)
Hữu Phước
Hữu Phước – Henry Trần
Quang (1932-1997)
Nghệ sĩ Hữu Phước tên thật là Henry Trần Quang, sanh năm 1932
tại quận Châu Thành tỉnh Sóc Trăng. Thân phụ là Trưởng tòa Trần Quang Cảnh,
nhạc sĩ cổ nhạc đờn vĩ cầm, thân mẫu là bà Tám Kiều, một nữ nghệ sĩ trong gánh
hát Thầy Thuốc Minh ở Sóc Trăng.
Hữu Phước khởi nghiệp cầm ca từ năm 1954, được ông Trần Hữu
Lương, tức nhạc sĩ Mười Lương, chồng của nữ danh ca Năm Cần Thơ, dạy ca và đặt
cho nghệ danh Hữu Phước.
Nhạc sĩ Mười Lương dẫn Hữu Phước đến quán ca nhạc Họa Mi của cô
Năm Cần Thơ để ca vọng cổ và cổ nhạc. Hữu Phước đã ru hồn biết bao khách mộ
điệu và được chủ của các hãng dĩa Hoành Sơn, Hồng Hoa, Tứ Hải tranh nhau mời
thu dĩa hát.
Tháng 2 năm 1955 Hữu Phước thành lập gia đình, cuộc đời nghệ sĩ
rẽ sang con đường mới. Nhạc sĩ Hai Ngưu dẫn ông lên Đà Lạt tìm cách tiến thân.
Trên miền Tây Nguyên Đà Lạt, qua sự giới thiệu của nhạc sĩ Hai Ngưu, Hữu Phước
diện kiến ông Phan Văn Bản tức Ba Bản, bầu gánh Thủ Đô, chủ hãng dĩa Hoành Sơn.
Ông Ba Bản thu nhận Hữu Phước với chức vụ thư ký riêng và phụ trách kỹ thuật
thu âm. Một tháng sau, ông chủ hãng dĩa Hoành Sơn ra lệnh Hữu Phước ca thử
giọng. Ông chủ ngồi lắng nghe. Nghe xong, ông chủ phán một câu ngắn ngủi:
- Thằng này có tài.
Lời ông chủ hãng dĩa phán, tương tự như lời một ông vua khen thưởng quần thần. Con đường công danh từ đây có dịp thăng tiến, thăng tiến đến mức tột đỉnh sự nghiệp. Ban giám đốc hãng dĩa Hoành Sơn cho ông hát 20 câu Vọng Cổ thu vào dĩa nhựa, loại dĩa quay 78 vòng. Bài Vọng Cổ tựa đề Mặt trận ái tình của Thu An và bà bầu Ba Bản viết chung.
Hữu Phước nổi danh qua các dĩa hát tiếp theo như dĩa Tình Huynh Đệ và bộ dĩa Tỉnh Mộng, dĩa Đội Gạo Đường Xa, Gánh Nước Đêm Trăng, Tàu Đêm Năm Cũ, Đời Vũ Nữ, Tình
Là Giây Oan của các tác giả Viễn Châu, Kiên Giang, Quy Sắc làm tăng thêm
danh tiếng của danh ca Hữu Phước.
Danh vị trong làng dĩa nhựa của Hữu Phước lên cao, vượt qua các
danh ca cùng thời ... Hữu Phước có giọng ca thật rõ ràng, âm sắc đẹp, đậm chất
bi ai, nghe sâu lắng mượt mà. Giọng ngâm thơ ngọt như mật, êm như nhung như tơ.
Hữu Phước có biệt
tài sắp chữ ca, làm nổi bật từng ý từng lời, anh ca vuốt nhẹ khi đến chữ Hò
vô vọng cổ, tiếng ca như quyện chặt vào tiếng đàn, nghe thật êm tai, thật
mùi.
|
Trong lòng câu ca, với một làn hơi dài, Hữu Phước chạy lả lướt
với tốc độ ca dồn chữ, từng đợt từng đợt như những lượn sóng triền miên xô đưổi
nhau, một kỹ thuật ca khiến cho người nghe có cảm giác là Hữu Phước bất chấp cả
nhịp nhàng, bất chấp trường canh. Khán giả luôn e sợ Hữu Phước sẽ hụt hơi hoặc
ca rớt, nhưng không, trăm lần như một, khi đến dứt câu ca thì Hữu Phước dứt câu
rất đúng nhịp và còn có một làn hơi ngân dài, nhỏ dần, nhỏ dần rồi như tan biến
vào không gian vô tận.
Lối ca của Hữu Phước
không chỉ là một kỹ thuật ca điêu luyện, nhịp nhàng vững chắc mà còn có khả
năng chuyển tải nội dung bài ca một cách xúc động nhất đến cho khán giả
thưởng thức.
|
Cuối năm 1955, Hữu Phước trở lại Sài Gòn, gia nhập gánh hát Kim
Thoa do nữ nghệ sĩ Kim Thoa làm bầu. Phải kể đây là lần đầu tiên Hữu Phước lên
sân khấu. Đoàn Kim Thoa tập trung các nghệ sĩ Tám Thưa, Năm Nghĩa, Bạch Huệ,
Văn Lục. Nấc thang tiến thân ở giai đoạn này để lên sân khấu trước sau gì cũng
nhờ ông Ba Bản hướng dẫn. Ông Ba Bản gởi gắm Hữu Phước cho bà Kim Thoa dìu dắt.
Ngày khai trương đoàn hát, ngày rất long trọng đối với ông bà bầu lẫn anh em
nghệ sĩ, thành hay bại cũng do ngày khai trương. Đoàn Kim Thoa trình diễn vở
tuồng Lấp sông Gianh của soạn giả
Kinh Luân. Nghệ sĩ đang hứng khởi diễn màn đầu, khán giả đang nín thở theo dõi
những tình tiết éo le của vở kịch, thì bỗng đâu một trái lựu đạn chẳng biết do
ai chủ trương, do ai đích thân ném lên sân khấu gây ra tiếng nổ "kinh
thiên động địa". Nghệ sĩ nằm la liệt, đèn tắt tối thui, máu chảy linh láng
từ sàn sân khấu xuống giàn đờn. Tiếng la hét, tiếng cầu cứu vang dội, khán giả
đạp lên nhau chạy thoát ra ngoài, hú hồn hú vía. Nghệ sĩ Phước Cương, người
"khai quang điểm nhãn", cầm cây son đầu tiên vẽ mặt, dạy Hữu Phước hóa
trang, chết lúc 4 giờ sáng. Ông Phước Cương là thân phụ nữ kịch sĩ Kim Cương.
Soạn giả Nguyễn Huỳnh, tên thật Nguyễn Huỳnh Phước, chồng nữ nghệ sĩ Hoài Dung
bị thương nặng. Nhiếp ảnh gia Nguyễn Mai tắt thở tại chỗ. Kịch sĩ Duy Lân cụt
một giò, ông Bảy Xê, cô Kim Thoa bị thương nhẹ.
Đoàn ăn nguyên một trái lựu đạn "ngọt sớt". Nhưng nghiệp vẫn là nghiệp. Bà Kim Thoa không chịu thua định mệnh, cắm đầu cắm cổ chạy vay nợ, tái lập gánh Kim Thoa. Lần ra quân kỳ này, đoàn gom góp một số nghệ sĩ trung thành còn lại gồm các nghệ sĩ: Hữu Phước, Văn Sa Văn Sa về sau tàn tạ tên tuổi, đi làm cận vệ cho ông bầu Xuân, chủ nhân đoàn Dạ Lý Hương. Từ Anh, Văn Lang, trước kia thuộc loại kép đẹp đoàn Việt Kịch Năm Châu, Hai Tiền, cô Ngọc Lợi là vợ lớn soạn giả Nguyễn Huỳnh, Hề Minh. Đoàn Kim Thoa trôi giạt xuống các tỉnh ở miền Tây, càng hát càng lỗ vốn. Nhằm tháng 7, tháng 8, trời mưa dầm dề suốt tuần lễ, đoàn ế khách, bầu và nghệ sĩ đói lã ruột. Sau hết, định mệnh vẫn là định mệnh, đoàn Kim Thoa ngã gục trước tình hình ế ẩm, nợ chồng chất, làm một buổi tiệc đơn giản chia tay và cũng để vĩnh biệt nhau. Đoàn rã gánh tại tỉnh lỵ Gò Công.
Hữu Phước ôm rương son phấn lên Sàigon tiếp tục hát cho Đài Pháp
Á. Ngày 9-5-1956, vợ ông hạ sinh đứa con đầu lòng tại Hòa Hưng, Sàigòn, được
đặt tên con gái cưng, Trần Thị Ngọc Ánh. Sau nầy là nghệ sĩ Hương Lan.
Út Bạch Lan chính là người tiến cử, giới thiệu anh Hữu Phước trở lại sân khấu lần thứ nhì gia nhập đoàn Thanh Minh, sau khi đoàn Kim Thoa rã gánh. Hữu Phước được dịp may, đang lúc đoàn Thanh Minh tập vở Đứa con hai giòng máu của soạn giả Lê Khanh, đúng hai tuần nữa sẽ khai trương. Kép chánh của đoàn là Út Nhị tự nhiên dở chứng, bỏ tuồng ngang.
Năm Nghĩa chọn Hữu Phước thế kép Út Nhị. Hữu Phước đóng vai Văn Khiết, còn vai đứa cháu là bé Juliette Nga tức Thanh Nga. Đoàn Thanh Minh trình diễn tuồng Đứa con hai giòng máu tại rạp Thành Xương, sau đổi thành rạp Diên Hồng, nằm trên đường Calmette và Phạm Ngũ Lão. Hát đúng 2 tháng, tên tuổi Hữu Phước được khán giả khắp nơi ái mộ.
Mỗi nghệ sĩ tài danh đều lưu lại hậu thế một vai "để đời", trong nghề gọi là vai vàng. Hữu Phước tạo được ba vai "vàng": Vai Lý Anh Huy trong tuồng Tỉnh mộng của Thu An - Phong Anh do đoàn Kim Chưởng trình diễn. Vai Duy Bạt, trong tuồng Gió ngược chiều, do Năm Châu viết phỏng theo một tác phẩm của văn hào Victor Hugo, diễn trên đoàn Thanh Minh, hát chung với Thanh Nga, Bảy Nhiêu, Út Trà Ôn. Vai Cậu Tư Kiên, trong tuồng Con gái chị Hằng của Hà Triều - Hoa Phượng, đoàn Thanh Minh trình diễn. Hữu Phước diễn vai một người cậu của một đứa cháu bất hiếu với mẹ, dạy dỗ cháu nên người, thờ cha kính mẹ. Cậu Tư Kiên sống nghề lái heo, vấn khăn rằn, mặc bộ đồ bà ba đen, có râu mép, quê mùa, bình dị... Vai trò nói lên nỗi đau khổ, hình ảnh đáng kính trọng của một bà mẹ Việt Nam suốt đời tận tụy, hy sinh cho con.
Để diễn sống thực vai cậu Tư Kiên, mỗi buổi sáng khoảng 5 giờ, Hữu Phước chạy xe qua Cầu Chữ Y, đứng trước cửa lò heo Chánh Hưng quan sát những người lái heo, dân thôn quê chở ghe heo lên Sàigòn bán. Quan sát cách mặc, quần áo, hút thuốc rê, tư thế đứng, ngồi, ăn, uống, nói chuyện, cách phát âm giọng miền Tây "rặt". Anh mất 3 tháng thực tập lấy ở nhà, nhìn vô kiếng diễn đúng các động tác thói quen của một người dân quê miền Nam. Đã trên 30 năm, chưa người nghệ sĩ nào có đủ khả năng thay thế Hữu Phước trong vai Cậu Tư Kiên.
Nghề nghiệp Hữu Phước "chín mùi" trên sân khấu Việt Nam, ngoài tài năng, phần lớn nhờ ông Ba Vân, Năm Châu, bà Kim Cúc, bà Phùng Há cố vấn, đạo diễn từng cử chỉ, từng điệu bộ diễn xuất.
Hữu Phước đã được Giải thưởng Thanh Tâm tặng huy chương vàng
Diễn Viên xuất sắc nhất năm 1966 qua vai bác sĩ Vũ trong tuồng Đôi mắt người xưa của Nguyễn Phương và
Hoàng Thị Nguyệt tức vợ của Tám Vân. Hữu Phước cũng được báo chí kịch trường
tặng cho mỹ hiệu Giọng Ca Vàng và là một trong các nghệ sĩ danh ca được các bầu
gánh hát, các chũ hãng dĩa ký contrat với số tiền cao nhất.
Sau năm 1975, Hữu Phước có quốc tịch Pháp nên cả gia đình được
trở về quê hương Pháp Quốc.
Năm 1986, Hữu Phước quy tụ những nghệ sĩ cải lương đã được định
cư ở nước Pháp để mong làm sống lại nghệ thuật cải lương ở hải ngoại, đó là một
ý rất hay nhưng không thành công.
Tâm trạng của Hữu Phước có thể đại diện cho tâm trạng của những
nghệ sĩ định cư ở hải ngoại : Không có đông đảo khán giả như ở Việt Nam, không
có bạn diễn đồng sức đồng tài, không có soạn giả, không tác phẩm mới. Nhịp điệu
âm nhạc tân tiến và lối sống văn minh công nghiệp của nước ngoài cũng không
phải là môi trường thuận lợi cho nghệ thuật sân khấu cải lương. Tài năng như
Hữu Phước và nhiều nghệ sĩ vang bóng một thời ở Việt Nam, đến xứ lạ quê người
cũng phải khô cạn dần như con cá mắc cạn chờ chết khô, có vùng vẫy đôi chút
trong mòn mõi nhớ thương biển rộng sông dài.
Hữu Phước mất ngày 21 tháng 2 năm 1997 tại Paris. Thọ 65 tuổi.
Khi nhắc đến giọng ca vàng Hữu Phước, các bạn
nghệ sĩ cải lương Việt Nam còn nhớ lời đánh giá của học giả Vương Hồng Sển: “Mấy mươi năm trước chưa ai ca vọng cổ hay
hơn Hữu Phước, e rằng mấy mươi năm sau cũng chẳng có ai”.
Thanh Hải
Thanh Hải - Hồ Văn Xia (1933-2014)
Nghệ sĩ Thanh Hải tên thật là Hồ Văn Xia, sinh năm 1933 tại Dĩ
An, Sông Bé, nay là Bình Dương, là con của Sáu Kỳ, chuyên dạy võ cho thanh niên
trong thời kháng chiến chống Pháp. Thời đó, cha ông bị Việt gian chỉ điểm, lính
Pháp bắt tra tấn dã man rồi giết, thả xác trôi sông.
Ký ức đau thương này hằn sâu trong đầu nghệ sĩ Thanh Hải. Mỗi
khi nhắc về cha, ông thường khóc: “Không vớt được xác cha, cũng không biết ngày
chết nên mẹ tôi lấy ngày cha bị bắt làm ngày giỗ”.
Với tấm bằng trung học đệ nhất cấp và giỏi tiếng Pháp, nghệ sĩ
Thanh Hải xin vào làm ở Trại cao su Bến Cát lấy tiền nuôi mẹ. Thời điểm này,
bạn của ông là cái radio nhỏ. Nhờ nghe radio nhiều mà ông mê giọng ca của Út
Trà Ôn qua các bài: Sầu vương biên ải, Tình anh bán chiếu... rồi tìm mua
bài ca vọng cổ về tập theo radio.
Sau 7 năm làm việc tại đồn điền cao su, năm 24 tuổi, Thanh Hải quyết chí đi
theo gánh hát. Năm 1959, Thanh Hải được soạn giả Điền Long giới thiệu về đoàn
Hữu Chí, đặt nghệ danh Thanh Hải.
Cuối năm 1959, bầu Ba Bản thành lập đoàn Thủ Đô. Đây là đoàn đại
ban hưng thịnh với dàn nghệ sĩ danh tiếng: Út Trà Ôn, Ba Vân, Hoàng Giang, Ngọc Hương, Thanh Thanh Hoa...
Lúc này, đoàn có soạn giả thường trực Thu An là chồng của nghệ
sĩ Ngọc Hương và nhà báo
Trần Tấn Quốc, bút hiệu Thanh Tâm-người sáng lập Giải Thanh Tâm, nhiều uy
tín trong giới kịch trường làm cố vấn nghệ thuật.
Dù đoàn đang hưng thịnh nhưng bầu Ban Bản vẫn muốn tìm
kiếm nghệ sĩ trẻ để đào tạo và làm lực lượng kế thừa. Thanh Hải là
người đầu tiên Hội đồng cố vấn nghệ thuật của đoàn nhắc tới, sau khi các ông
xem Thanh Hải hát trên sân khấu đoàn Ánh Sáng của ông bầu Năm Tập. Thanh Hải
được bầu Ba Bản mời về với hợp đồng tạm thời 150.000 đồng.
Về đoàn này, ban đầu Thanh Hải chỉ đóng các vai kép nhì, hoặc
đóng đúp một số vai chính với “Vua Vọng cổ” Út Trà Ôn. Sau khi Út Trà Ôn, Hoàng
Giang rời đoàn để lập đoàn hát mới – Đoàn cải lương Thống Nhất, các vai chính
lúc này trên sân khấu Thủ Đô đều do Thanh Hải đảm nhận, nhờ
có “quái kiệt” Ba Vân đã huấn luyện Thanh Hải để chuẩn bị đóng thay các vai của
Út Trà Ôn thời trẻ, nên Thanh Hải tôn Ba Vân là cha nuôi. Về
sau, có thêm “Hoàng đế dĩa nhựa” Tấn Tài về hát chia vai với “Vua ngâm Tao Đàn”
Thanh Hải.
Khi Thanh Hải ở trong đoàn Thủ Đô, nhờ các tuồng của soạn giả
Thu An, ông được khán giả yêu thích và báo giới Sàigòn thời đó gọi ông là “Vua
ngâm Tao Đàn”.
Soạn giả Viễn Châu phân tích: “Ngâm thơ có nhiều lối: Sa Mạc,
Vân Tiên, Tao Đàn… nhưng theo lối Tao Đàn, âm điệu nghe mượt mà, trữ tình và
bay bổng hơn. Cách ngâm Tao Đàn tuy không có tiết tấu, nó có phần như cách ngâm
tự do, nhưng độ ngân của làn hơi được trải dài và Thanh Hải là người đầu tiên
sáng tạo đưa vào bài ca cải lương thành công. Anh kết hợp ca ngâm vọng cổ thuần
khiết với ngâm Tao Đàn, không chỉ ở những câu nói lối mà trong lòng câu vọng
cổ, vừa mượt mà, trữ tình, nam tính. Có lẽ chất giọng “đồng” của Thanh Hải có
âm vực rộng, ca có thanh điệu, âm sắc du dương nên đi vào lòng người nghe, tạo
nét mới cho bài vọng cổ”.
Còn nghệ sĩ Ngọc Hương – vợ của cố
soạn giả Thu An, cũng là bạn diễn của nghệ sĩ Thanh Hải kể: “Ông nhà tôi viết
một kịch bản có đoạn ngâm thơ theo lối Tao Đàn cực khó, vậy mà anh Thanh Hải
ngâm ngọt lịm, giọng lên xuống trầm bổng nhấn nhá khó ai ngâm hay hơn. Ông nhà
tôi biết đó là thế mạnh của anh Thanh Hải nên tuồng nào cũng viết thêm để anh
ngâm. Cát-sê của anh Hải tăng vọt. Đến lúc về đoàn Kim Chưởng và Kim Chung thì
hợp đồng thù lao của anh Hải là 1,2 triệu đồng, giá kỷ lục của năm 1963, cao
hơn cả nhiều ngôi sao đương thời.
Cuối
năm 1961, hai nghệ sĩ Thanh Hải và Ngọc Hương rời đoàn hát Thủ Đô, gia nhập
đoàn hát Kim Chưởng, hình thành một cặp đào kép ăn khách nhất của đoàn Kim
Chưởng, một đoàn được báo chí kịch trường tặng cho danh hiệu là Đệ Nhất Anh
Hùng Lưu diễn. Đoàn Kim Chưởng lúc đó có một lực lượng diễn viên mạnh, gồm có
Thanh Hải, Ngọc Hương, Hùng Cường, Mộng Thu, Kim Nên, Diệp Lang, Trường Xuân,
Hề Minh…
Thanh
Hải - Ngọc Hương
Nghệ
sĩ Thanh Hải có các vai tuồng gọi là để đời như vai Ai Bình Cơ tuồng Hai Chiều Ly Biệt, vai Hải Bằng tuồng Cô Gái Sông Đà, vai Trần Tử Lang tuồng Nắng Chiều Trên Sông Dịch, vai Điền Sơn
tuồng Thuyền Ra Cửa Biển, vai Lý Kim
Tùng tuồng Nửa Bản Tình Ca…
Tết
Nguyên Đán năm 1964, nghệ sĩ Thanh Hải hát cho sân khấu Kim Chung 3. Thanh Hải
cộng tác với công ty Kim Chung trên 4 năm, anh hát với nhiều nghệ sĩ tài danh
Lệ Thủy, Út Bạch Lan, Kim Chung, Bích Hợp, Diệu Hiền, Tô Kim Hồng, Út Hậu,
Phước Hậu, Út Hiền, Văn Hường, hề Ốc…
Ở
sân khấu Kim Chung. nghệ sĩ Thanh Hải có những vai diễn được khán giả ưa thích
như vai Quách Tỉnh vở Lưới Tình, vai
Hàn Vũ Lang vở Manh Áo Quê Nghèo, vai
Hoàng Phủ Thiếu Hoa vở Mạnh Lệ Quân,
vai Lý Quảng vở Hoa Mộc Lan, vai
Hoàng Kiếm Phi vở Bão Biển, vai Cổ
Tây Phong tuồng Đào Hoa Khách - Tuyệt
Tình Nương.
Năm
1967, anh Hải đoạt Huy chương vàng giải Thanh Tâm qua vai Quách Tĩnh trong vở
tuồng Lưới tình.
Cuối
năm 1968, nghệ sĩ Thanh Hải hết hợp đồng với công ty Kim Chung, anh đi hát chầu
cho các đoàn hát tỉnh ở Hậu Giang.
Năm
1970, Thanh Hải và hề Văn Hường hùn vốn, lập gánh hát Thanh Hải - Văn Hường.
Đoàn hát quy tụ nhiều diễn viên tên tuổi như Út Trà Ôn, Ngọc Bích, Thanh Hải,
Tô Kim Hồng, Đức Lợi, Đức Minh, Hề Văn Hường. Khai trương vở tuồng mới Đường Gươm Nguyên Bá của soạn giả Hà
Triều - Hoa Phượng. Lúc đầu đoàn hát Thanh Hải - Văn Hường có thu nhập khá
nhưng sau đó vì chiến cuộc ngày càng tăng, ở một số thành phố bị giới nghiêm
ban đêm, các gánh hát cải lương bị thất thu, đoàn hát Thanh Hải - Văn Hường
cũng bị thua lổ nên phải giải tán.
Năm
1972, nghệ sĩ Thanh Hải được bà bầu Tiêu Thị Mai mời về cộng tác với đoàn hát
Thái Dương, hát chung với các nghệ sĩ Thành Được, Phượng Liên, Mỹ Châu, Diệp
Lang, Hoàng Long, Kim Ngọc, hề Tư Rọm, Văn Chung
Đến
năm 1975, đoàn Thái Dương cũng như các đoàn hát tư nhân đều bị giải tán. Thanh
Hải nằm nhà vài tháng trông ngóng tình hình, sau đó anh chạy xuống tỉnh, đi hát
cho các đoàn hát chui, những đoàn hát tạm thời được các tỉnh cho phép lập để
hát trong tỉnh như đoàn Thanh Tú - Trang Bích Liễu, đoàn hát Quê Hương của tỉnh
Bến Tre, đoàn hát Thống Nhất của tỉnh Tây Ninh.
Năm
1979, Thanh Hải về thành phố, cộng tác với đoàn hát Phước Chung và một đoàn hát
lớn của thành phố, cùng hát chung với các nghệ sĩ Lệ Thủy, Minh Vương, Mỹ Châu,
Trang Bích Liễu, Thanh Tú, Hoàng Giang, Kim Giác, Diệp Lang, Khả Năng, Phi
Thoàn…
Cuối
năm 1988, nghệ sĩ Thanh Hải giải nghệ, ở nhà trông coi nhà cửa, chăm sóc cho
con cái trong việc ăn học. Vợ của anh là trụ cột trong kinh tế gia đình nên
Thanh Hải không còn bận tâm bươn chải kiếm sống như trong thời trai trẻ đã qua.
Vợ chồng Thanh Hải có 6
người con, trong số đó có 3 người đã lập nghiệp ở nước ngoài.
Vợ của Thanh Hải là bà Mỹ
Linh, nhiều năm làm ở Sở Ngoại vụ, sau khi về hưu đã lập công ty riêng lo về thủ
tục xuất cảnh. Hai ông bà sống thoải mái trong căn hộ hóa giá của đoàn văn công
trước kia. Ngày rảnh, Thanh Hải vác cần câu vô Đầm Sen câu cá. Khỏe thì đi ăn
sáng với nhóm Minh Vương, tụ tập bạn bè thời đại bang Kim Chung, nói chuyện phiếm
đỡ buồn. Thanh Hải mập ra nhưng không bệnh gì cả. Tuổi già lý tưởng!
Năm 2006, Thanh Hải được mời sang Mỹ biểu diễn cùng với Thanh
Sang, Diệu Hiền, Phượng Liên, Bảo Quốc... Năm 2007, khi Sân khấu Vàng của ngh ệ
sĩ Lệ Thủy và Minh Vương
tổ chức nhằm gây quỹ xây dựng nhà tình thương, Thanh Hải đã xuất hiện trở lại
trên sân khấu cùng với nữ đồng nghiệp ăn ý nhất nghệ
sĩ Ngọc Hương. Cả hai đã
ca diễn trích đoạn Nắng chiều trên sông Dịch, được khán giả cổ vũ nồng
nhiệt. Và đó cũng là những suất diễn cuối cùng của “Vua ngâm Tao Đàn” Thanh
Hải.
Nghệ sĩ Thanh Hải có biệt danh là
"Vua ngâm Tao Đàn", đã trút hơi thở cuối cùng lúc 12 giờ 30 ngày 16
tháng 9 năm 2014, tại nhà riêng, do bệnh già. Thọ 81 tuổi.
Thành Được
Thành Được – Châu Văn Được (1934-20…)
Nghệ sĩ Thành Được tên thật là Châu Văn Được sanh năm 1934 tại xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, cha mẹ là phú nông, có ruộng vườn. Thành Được học xong Tiểu học tại huyện Kế Sách, anh theo cậu ruột là bầu gánh hát cải lương Thanh Cần, để học hát.
Gánh Thanh Cần là một gánh hát trung ban, chuyên diễn ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cần Thơ; Thành Được nhờ có giọng ca tốt, sắc diện đẹp trai, lại được diễn trên sân khấu nhà nên nhanh chóng trở thành kép chánh, được khán giả Hậu Giang ái mộ.
Năm 1957, khi bộ tứ Bầu gánh Kim Thanh: Út Trà Ôn, Kim Chưởng, Thúy Nga, Thanh
Tao rã phần hùng, giải tán đoàn cải lương Kim Thanh - Út Trà Ôn, nữ nghệ sĩ
Thúy Nga quy tụ một số nghệ sĩ cũ của Kim Thanh, thành lập đoàn Thúy Nga -
Phước Trọng, mời nghệ sĩ Thành Được làm kép chánh với contrat 150.000 đồng
trong hai năm.
Vở tuồng khai trương của đoàn cải lương Thúy Nga Phước Trọng là vở Ngưu Lang - Chức Nữ của soạn giả Kiên Giang, Thành Được thủ vai Ngưu Lang, nữ nghệ sĩ Bích Sơn vai Chức Nữ, vở tuồng chỉ đạt được sự thành công tương đối. Sau đó, đoàn Thúy Nga - Phước Trọng trình diễn vở cải lương hương xa ( Nhựt Bổn) " Khi Hoa Anh Đào Nở" của Hà Triều Hoa Phượng, với kép chánh Thành Được trong vai kiếm sĩ Tô Điền Sơn. Vở tuồng Khi Hoa Anh Đào Nở đã thành công lớn về mặt nghệ thuật lẩn tài chánh.
Vở tuồng khai trương của đoàn cải lương Thúy Nga Phước Trọng là vở Ngưu Lang - Chức Nữ của soạn giả Kiên Giang, Thành Được thủ vai Ngưu Lang, nữ nghệ sĩ Bích Sơn vai Chức Nữ, vở tuồng chỉ đạt được sự thành công tương đối. Sau đó, đoàn Thúy Nga - Phước Trọng trình diễn vở cải lương hương xa ( Nhựt Bổn) " Khi Hoa Anh Đào Nở" của Hà Triều Hoa Phượng, với kép chánh Thành Được trong vai kiếm sĩ Tô Điền Sơn. Vở tuồng Khi Hoa Anh Đào Nở đã thành công lớn về mặt nghệ thuật lẩn tài chánh.
Lúc đó, các phim hát bóng Địa Ngục Môn, Người Phu Xe của Nhựt, đang rất được khán giả ưa thích nên sân khấu cải lương diễn tuồng Nhựt Khi Hoa Anh Đào Nở, Đợi Anh Mùa Lá Rụng, Cầu Sương Thiếp Phụ Chàng, cũng rất ăn khách vì đáp ứng được sở thích của khán giả.
Hồi đó, trong sinh hoạt cải lương, giới báo chí kịch trường mệnh danh sự thành công của đoàn cải lương Thúy Nga - Phước Trọng là một " hiện tượng " đặc biệt đáng ghi nhớ.
Trước nhứt là hai soạn giả trẻ Hà Triều - Hoa Phượng, mới có đôi ba tác phẩm đầu tay, đã thành công rực rở với vở " Khi Hoa Anh Đào Nở". Hiện tượng thứ hai là sự xuất hiện của kép trẻ Thành Được, một giọng ca thiên phú, một lối diễn xuất chửng chạc, một nghệ sĩ kế thừa phong cách diễn xuất " Đẹp và Thật" của nghệ sĩ tiền phong Năm Châu.
Thêm nữa, những năm từ 1955 đến 1968, có nhiều soạn giả tài danh như Hà Triều Hoa Phương, Thiếu Linh, Kiên Giang, Nguyễn Phương, Qui Sắc, Hoàng Khâm, Thu An…Những soạn giả mới nầy khai thác khả năng ca của các nghệ sĩ trẻ mới nổi lên, tạo ra một lớp diễn viên mới với phong cách diễn xuất tươi mướt hơn, với lối ca vọng cổ quyến rũ hơn lớp nghệ sĩ đàn anh trước kia.
Những nghệ sĩ trẻ thành danh từ năm 1956 đến 1968 có Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Tấn Tài, Út Hiền, Thanh Hải, Út Nhị, Minh Tấn, Thanh Tú, Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng, Dũng Thanh Lâm..
Phía nữ nghệ sĩ tài danh trong giai đoạn nầy ta thấy có Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Hồng Nga, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Bích Sơn, Ngọc Bích, Bích Hạnh, Thanh Kim Huệ, Hà Mỹ Xuân, Trương Anh Loan, Kiều Phượng Loan... vân...
Ba diễn viên ăn khách nhất lúc bấy giờ là các nghệ sĩ Hữu Phước, Thành Được và Hùng Cường. Trong bộ ba Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường thì Thành Được có giọng ca truyền cảm tuy kém hơn Hữu Phước một chút nhưng hơn hẳn Hùng Cường; về sắc vóc thì Thành Được đẹp trai hơn Hữu Phước.
Hai diễn viên có giọng ca vàng nầy đều có khả năng hơn Hùng Cường về ca , diễn và có nhiều thuận lợi hơn vì được nhiều soạn giả tài danh đương thời cung ứng tuồng tích, giúp cho Hữu Phước và Thành Được nhiều cơ hội biểu dương tài ca diễn của mình. Ký giả Nguyễn Ang Ca, tức soạn giả Ngọc Huyền Lan tặng biệt danh "Giọng ca vàng" cho Hữu Phước và tặng biệt danh "kép hát thượng thặng" cho Thành Được.
Sau khi rã phần hùng với gánh Kim Thanh - Út Trà Ôn, năm 1957, bà Kim Chưởng tách riêng ra lập gánh hát Hoa Anh Đào - Kim Chưởng, Bà bầu Kim Chưởng ký hợp đồng với nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan và kép chánh Thành Được.
Bà Bầu Kim Chưởng xuất thân từ gánh hát Bầu Bòn, học nghệ có căn bản, lại là nữ diễn viên tài danh qua nhiều đoàn hát lớn nên khi bà lập gánh hát thì bà đích thân tập luyện, chỉ dạy cho nghệ sĩ trong đoàn của bà theo phong cách ca, diễn mà bản thân của bà đã được học hỏi trước đó.
Thành Được, Út Bạch Lan được cái may mắn khi mới bước chân vào nghề hát, đã được danh sư Kim Chưởng chỉ dạy. Đoàn Kim Chưởng nổi danh là " Anh Hùng Lưu Diễn" với các diễn viên giỏi tay nghề như Thành Được, Út Bạch Lan, Kim Nên, Mộng Thu, Trường Xuân, Nam Hùng, Thanh Sơn, Hề Minh.
Khán giả khó quên cặp diễn viên " thinh sắc lưởng toàn" Thành Được - Út Bạch Lan qua các vở tuồng: Chưa Tắt Lửa Lòng, Bên Đồi Trăng Cũ, Thuyền Ra Cửa Biển, Áo Trắng Nàng Mộng Trinh, Nữa Bản Tình Ca, Người Đẹp Thành Bát Đa. .
Trên sân khấu Kim Chưởng, đôi diễn viên tài sắc Thành Được - Út Bạch Lan yêu nhau, đưa đến cuộc hôn nhơn có hôn thơ giá thú, cô Phùng Há, chủ hôn bên đàn trai, cô Kim Chưởng, chủ hôn đàn gái. Đám cưới được tổ chức long trọng, hầu hết các ký giả kịch trường đều được mời tham dự. Báo chí đăng bài phóng sự lễ cưới và các giai thoại về cuộc tình Út Bạch Lan - Thành Được vì đây là lần đầu tiên trong giới nghệ sĩ cải lương có một cuộc hôn nhơn có hôn thơ giá thú đàng hoàng.
Đoàn hát Kim Chưởng nỗi danh Anh Hùng Lưu Diễn, thường đi hát ở các tỉnh Hậu Giang, ở miền Đông, miền Trung trong nhiều tháng liền, ít khi hát ở Saigon. Và đoàn Kim Chưởng lại chuyên hát những tuồng loại hương xa, kiếm hiệp, trong khi đó thì khuynh hướng của khán giả Saigon lại đang thích coi hát những vở tuồng xã hội.
Đoàn hát Thanh Minh chuyên hát những vở tuồng xã hội, lại là một đoàn hát thường hát quanh quẫn các rạp ở Saigon nên phù hợp với ý muốn tiến thân của Út Bạch Lan và Thành Được. Hai nghệ sĩ nầy cũng nói rõ nguyện vọng của mình nên bà Kim Chưởng bằng lòng cho cả hai trả lại tiền contrat đã ký với bà, để Thành Được và Út Bạch Lan về cộng tác với đoàn Thanh Minh của bà Bầu Thơ.
Thành Được, Út Bạch Lan sáng chói hơn hết trong hai nhân vật trung tâm của vở tuồng. Nữa Đời Hương Phấn là nữa đời ngang trái cho thân phận đàn bà, cho tình yêu, cho sự đi tìm bạn tri âm và cho cả sự hy sinh cam chịu sự tan nát của nổi lòng khi Hương biết người con gái mà Tùng kết duyên lại chính là Diệu, em ruột của Hương.
Đầu năm 1962, Út Bạch Lan và Thành Được rời gánh hát Kim Chưởng để gia nhập gánh Thanh Minh Thanh Nga với contrat một triệu đồng năm trăm ngàn đồng, lương hát một suất 1200 đồng. Đoàn nầy lưu diễn miền Trung để tập vở tuồng "Nữa Đời Hương Phấn" của Hà Triều Hoa Phượng.
Thành Được trong vai Tùng, Út Bạch Lan, vai Hương, tên The khi ở dưới quê, Hữu Phước vai Hai Cang, người anh, vì quan niệm lổi thời môn đăng hộ đối mà phá hủy hạnh phúc của em mình. Ngọc Nuôi, vai Diệu, em của Hương, về sau là vợ chính thức của Tùng.
Thành Được, Út Bạch Lan sáng chói hơn hết trong hai nhân vật trung tâm của vở tuồng. Nữa Đời Hương Phấn là nữa đời ngang trái cho thân phận đàn bà, cho tình yêu, cho sự đi tìm bạn tri âm và cho cả sự hy sinh cam chịu sự tan nát của nổi lòng khi Hương biết người con gái mà Tùng kết duyên lại chính là Diệu, em ruột của Hương. Hương - Út Bạch Lan ca bản Phụng Hoàng, lấy nước mắt khán giả mà đến nay hơn 40 năm sau, nghe lại lớp ca Phụng Hoàng đó của Út Bạch Lan, tôi vẩn còn bồi hồi xúc cảm như xưa...:
Năm 1961, vở tuồng Nữa Đời Hương Phấn đã lập kỷ lục " ăn khách " nhờ tuồng hay, nhờ Thành Được, Út Bạch Lan, Hữu Phước, Việt Hùng Ngọc Nuôi diễn giỏi, ca hay. Ấn tượng ban đầu về những nam diễn viên có giọng ca vàng như Thành Được, Hữu Phước là ấn tượng sâu đậm, khó quên.
Thành Được nhờ thành công buổi ban đầu đó, nên anh thành công dể dàng thêm qua các tuồng Con Gái Chị Hằng, Tấm Lòng Của Biển, Bọt Biển, Chuyện Tình 17, Tình Xuân Muôn Tuổi, Rồi Ba Mươi Năm Sau, Giấc Mộng Giữa Hoàng Lăng, Tiếng Hạc Trong Trăng...
Đến năm 1964, hôn nhân của họ tan vỡ.
Năm 1966, Thành Được đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm với vai
diễn tướng cướp Thi Đằng (tuồng Tiếng hạc trong trăng.
Năm 1984, Thành Được đi lưu diễn tại Đức và xin tị nạn chính trị
tại đây. Ông sinh sống bằng nghề nhà hàng tại Đức và năm 1995 đến Mỹ mở nhà
hàng Thành Được tại Milpitas, một phố nhỏ sát San Jose, California.
Năm 2003, trên sân khấu của trung tâm Asia tại Texas, nghệ sĩ
Thành Được đã quyết định chọn mặt gởi vàng, để đi đến một quyết định hết sức
khó khắn là chấm dứt sự nghiệp lừng lẫy của mình khi mà " còn ca được,
diễn được". Ông không nói nhiều nhưng ông mượn bài ca " Giã Từ Sân
khấu " của soạn giã viễn Châu viết cho mình đề thay lời muốn nói.
Rồi từ đó đến nay, người ta không thấy không nghe nhiều về nghệ
sĩ Thành Được nữa ngoài cái tin ông thắng kiện đòi lại ngôi nhà mặt tiền trên
đường Nguyển Văn Trổi trị giá 100 tỷ từ một công ty dầu khí trong vài năm gần đây.
Thời gian trôi nhanh, nhiều năm trôi qua, nhưng trong lòng khán giả vẫn nhớ về
nghệ sĩ Thành Được sang cả về ca lẫn thoại, đẹp hình dáng lẫn trong chất giọng
ngân như tiếng chuông thanh tao..
Văn Hường
Văn Hường - Nguyễn Văn Hường (1934-20… )
Nghệ sĩ Văn Hường tên thật là Nguyễn Văn Hường, sinh năm 1934
tại xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Đức, tỉnh Gia Định nay là Tp. HCM. Ông thứ Sáu trong
gia đình nông dân đông con, nên thường được bạn bè gọi là anh Sáu Văn Hường. Ban
đầu, ông chỉ nghe đài phát thanh, thuộc nằm lòng rất nhiều bài bản, câu hò điệu
lý.
Khoảng 15 tuổi, nghệ sĩ Văn Hường từ
giã quê hương lên Sàigòn... bán hột dưa ở rạp cải lương nổi tiếng bấy giờ là
Nguyễn Văn Hảo, nay là rạp Công Nhân thuộc Nhà hát Kịch Tp. HCM - 30 Trần Hưng
Đạo, Quận 1, Tp. HCM..
Cuộc đời ca hát của nghệ sĩ Văn Hường bước sang một ngã rẽ thuận
lợi quan trọng khi ông đang hợp tác với giải trí trường Lệ Liễu ở Thị Nghè,
Saigòn, thì sọan giả Viễn Châu phát hiện giọng ca hài đặc biệt ấy và mời ông
hợp tác với hãng dĩa Asia. Nghệ Sĩ Văn Hường kể lại bước đường nghệ thuật xuôi
buồm thuận gió của ông:
Văn Hường biết sáng tạo, khai thác thêm ở giọng ca và cách ca
cho khác lạ và phù hợp với vọng cổ hài. Đó là cách luyến lái, nhấn nhá và kéo
dài phụ âm “R”, hoặc lên giọng thật cao ở những chữ mang dấu sắc, dấu hỏi, đặc
biệt vô vọng cổ với chữ ự…ự…ự lên xuống trước khi xuống Hò, hoặc chữ ư…ư khi
dứt câu 2, nghe rất độc đáo, mang nhản hiệu riêng biệt của Văn Hường mà nghệ sĩ
khác khó bắt chước theo.
Văn Hường cho biết: “Lúc đó anh Viễn Châu thấy Văn Hường ca được quá mới bèn
mời về hợp tác với hãng dĩa, với cái bài đầu tiên của tôi ca, đó là cái bài
“Đêm Tân Hôn” của sọan giả Viễn Châu. Rồi lần hồi ảnh viết qua các bài “Tư Ếch
đi Sàigòn”, “Vợ tôi nói tiếng Tây”, “Pháp Sư giải nghệ”…nhiều bài lắm, bây giờ
kể không hết được.
Lần hồi anh Bảy Cao đoàn Hoa Sen cũng về đó
hát và mời tôi hợp tác với đoàn này. Hát được mấy năm, đoàn Kim Chung mời tôi
ký giao kèo hơi lớn, hát cho đoàn này trong mười mấy năm…”
Văn Hường không dành độc quyền cho hãng dĩa nào cả. Nên ông tự
do thu thanh ở nhiều hàng dĩa khác nhau với thù lao cao – từ hãng Asia,
Continental, Quê Hương tới Capitol, và được các sọan giả nổi tiếng như Viễn
Châu, Quy Sắc, Nguyễn Phương viết nhiều bài ca hài hước nhằm khai thác lối ca
diễn độc đáo của Văn Hường..
Giọng ca thiên phú cộng thêm sự may mắn như vậy đã giúp đưa nghệ
sĩ Văn Hường lên ngôi vị một thời vang bóng.
Trong các thập niên 60, 70 – giai đọan vàng son của ngành ca
kịch cải lương nói chung và sự nghiệp của Văn Hường nói riêng, qua những bài
vọng cổ hài hước như Pháp Sư Giải Nghệ,
Vợ Tôi Đi Coi Bói, Văn Hường Năm Con Vợ, Văn Hường Mê Số Đề…, giọng ca độc
đáo của Văn Hường đã nhẹ nhàng chăm biếm mặt trái cuộc đời, từ mê tín dị đoan,
hủ tục đa thê…cho tới nạn hút sách, mê cờ bạc.
Năm 1972, nghệ sĩ Văn Hường hợp tác với ''vua'' ngâm thơ Tao Đàn
– cố nghệ sĩ Thanh Hải lập đoàn hát riêng mang tên “Thanh Hải - Văn Hường”. Sau
ngày đất nước thống nhất, ông về cộng tác với Đoàn cải lương tập thể Thống Nhất
ở Tây Ninh, sau đó về Đoàn cải lương Sống Chung (Phước Chung). Năm 1987 do lớn
tuổi, ông từ giã sân khấu, lui về mở quán nghệ sĩ Văn Hường tại phường Long
Thạnh Mỹ, quận 9, Tp. HCM. Quán vẫn hoạt động cho đến ngày nay.
Ở tuổi ngoài 80, nghệ sĩ Văn Hường bộc bạch: “Đã qua tuổi thất thập cổ lai hi, còn có
khán giả yêu mến, đêm đêm còn được ca theo yêu cầu của người yêu bài ca cổ hài
đó là niềm vui, niềm hạnh phúc lớn lao nhất của một nghệ sĩ về chiều như tôi.
Như đã nói, hễ còn “ự” được tui cứ “ự”, cho đến khi nào hết thở thì thôi!”
Hiện tại ông sống với người vợ thứ năm, người gắn bó lâu nhất,
hơn 30 năm nay hết lòng chăm lo cho ông và các con, lại luôn hiểu và thông cảm
cho đời nghệ sĩ.
Út Bạch Lan
Út Bạch Lan - Đặng
Thị Hai (1935-2016)
Nữ nghệ sĩ Út Bạch Lan
tên thật là Đặng Thị Hai, sinh năm 1935, tại ấp Lộc Hóa, xã Lộc Giang, Đức Hóa,
Long An. Thân phụ của cô là ông Nguyễn Văn Chưa, làm nghề nài ngựa đua, qua đời
năm 1966. Mẹ của cô là bà Đặng Thị Tư, thường gọi cô là bé Út.
Năm 1945, Mẹ cô cùng
cảnh ngộ với mẹ của Văn Vĩ nên hai bà kết nghĩa chị em với nhau, sống chung và
đi làm mướn độ nhựt ở Chợ Lớn Mới nay là chợ Bình Tây.
Lúc đó Văn Vĩ tên là Đinh Văn Dậm, vì đau ban trái không chữa được nên bị mù từ nhỏ, ông thầy thuốc đặt tên Văn Vĩ thay cho tên Dậm. Văn Vĩ học đàn guitare cổ nhạc và đàn rất giỏi.
Bé Út 11 tuổi, Văn Vĩ: 15 tuổi, khi có dịp rãnh, Văn Vĩ dạy cho Bé Út ca. Bé Út nghe máy hát dĩa của hàng xóm, học thuộc nhiều bản vọng cổ khác. Bé Út thấy có người mù đi hát dạo trong chợ, được người ta cho tiền, bèn rủ Văn Vĩ lén mẹ đi hát dạo, hy vọng có tiền giúp đỡ cho hai bà mẹ.
Hai anh em Văn Vĩ, Bé Út hát dạo từ Chợ Lớn Mới qua các phố phường Chợ Lớn Cũ, ra tới Chợ Bến Thành Saigon. Lúc đó đang có chiến tranh Việt - Pháp, Văn Vĩ và Bé Út đàn ca, tụ tập người nghe rất đông tại Bùng Binh Sàigòn, cảnh sát Tây sợ có biểu tình, giải tán số người tụ tập nghe ca và bắt Văn Vĩ và Bé Út, đánh cho mấy cây "ma trắc", rồi đem về nhốt ở bốt quận Nhì.
Ông Xếp Tây lai, bạn của nhạc sĩ Jean Tịnh và ca sĩ Thành Công, đài Pháp Á thấy hai đứa trẻ biết đờn ca cổ nhạc nên tha cho về. Đây là một cơ duyên khiến cho ca sĩ Thành Công trở thành người đầu tiên dìu dắt Út Bạch Lan trên con đường sự nghiệp cầm ca.
Ở chợ Bàu Sen, gần bến xe miền Tây cũ, có một ông người Bắc tốt bụng cho hai bà mẹ với Văn Vĩ, Bé Út che mái lều cạnh bức tường nhà của ông để ở. Ông bày cho Văn Vĩ mở lớp dạy ca cổ nhạc, tự tay ông vẽ giùm bảng dạy ca cổ nhạc dựng trước nhà. Từ đó hai gia đình Văn Vĩ, Bé Út có nơi cư trú, hai bà mẹ đi mua gánh bán bưng ở chợ Bàu Sen. Văn Vĩ đàn, dạy ca cổ nhạc.
Thỉnh thoảng Bé Út và Văn Vĩ đi đàn ca ở các đám tiệc, đám cưới. Cô Năm Cần Thơ nghe tiếng đồn, tới nghe Bé Út ca, cô Năm Cần Thơ dẫn Bé Út đi ca nơi quán cổ nhạc Họa Mi của cô trong khu Đại Thế Giới Chợ Lớn. Văn Vĩ cũng được mướn đàn cho quán nhậu có ca cổ nhạc của cô Năm Cần Thơ. Ngoài ra, cô Năm Cần Thơ còn dẫn Bé Út đi ca ở Đài Phát Thanh Pháp Á.
Ca sĩ Thành Công, nhạc sĩ Jean Tịnh gặp lại Bé Út và rất mến mộ ngón đờn guitare sắc sảo của Văn Vĩ nên mời hai anh em gia nhập Ban Thành Công, nhóm cổ nhạc của Đài Phát Thanh Pháp Á với nhạc sĩ Hai Long, ca sĩ Sáu Thồng, Ba Tình, Văn Chung, Việt Hùng. Thành Công đặt tên cho Bé Út là Út Bạch Lan.
Năm 1952, Út Bạch Lan theo đoàn Kim Khánh của ông Bầu Cang lúc đó đang hát tuồng kiếm hiệp của Mộng Vân như : Trộm mắt Phật, Cây Đèn thần, Cánh bườm đen. Các nữ diễn viên Kim Nên, Thu Ba, bé Hồng Vân, Ngọc An đều có vai trong tuồng; phải đợi có cô nào bịnh không hát được thì Út Bạch Lan mới có dịp hát thế tuồng.
Út Bạch Lan thấy không có tương lai nên đi đầu quân cho đoàn đồn hát Tơ Huệ, cô vẫn bị bắt làm thế nữ, quân hầu. Cô bỏ về Sài Gòn, theo Thành Công, Sáu Thồng, Chín Sớm ca cổ nhạc ở Đài Phát Thanh Quốc Gia và Đài Pháp Á.
Năm 1955, cô gia nhập đoàn Kim Thanh của Út Trà Ôn, Thanh Tao, Kim Chưởng và Thúy Nga. Ở sân khấu Kim Thanh, Út Bạch Lan chỉ học múa và thỉnh thoảng đóng một vai đào phụ. Soạn giả Viễn Châu, viết thêm Út Bạch Lan ca hai câu vọng cổ trong tuồng Tình vương hoa thắm. Khán giả rất khen ngợi.
Năm 1961, Út Bạch Lan lập đoàn hát lấy tên bảng hiệu: Út Bạch Lan - Thành Được. Đoàn có những tuồng như: Trảm mã trà, Đêm huyền diệu, Chân trời hạnh phúc, Khi rừng mới sang thu, Bốn mùa hoa nở, Bao giờ vườn sứ mưa hoa, Tìm suối tiên, Cuối đường hoa mộng, Thuyền về bến Ngự, Em đi trên phím nhạc, Khi hoa anh đào nở, Trăng sương cầu trúc, Sầu qua mấy nhịp cầu duyên.
Sau đó Viễn Châu viết thêm hai câu vọng cổ trong tuồng Đời cô Nga để cho Út Bạch Lan ca. Thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người: khán giả vỗ tay nhiệt liệt không thua gì khi anh Út Trà Ơn ca. Vãn hát, khán giả đứng nghẹt cửa hậu trường để xem mặt Út Bạch Lan.
Trang trang kịch trường đăng hình của Út Bạch Lan với câu đề rất kêu của ký giả Nguyễn Ang Ca: "Một ngôi sao lạ vụt ngời sáng trên vòm trời nghệ thuật sân khấu cải lương". Ông Trần Tấn Quốc viết: "Út Bạch Lan, một giọng ca vọng cổ thảm sầu, bứt ruột bứt gan người nghe". Ký giả Kiên Giang Hà Huy Hà viết: "Sầu nữ Út Bạch Lan, chất giọng đồng pha thổ nghe thương cảm chơi vơi, đêm đêm khơi nguồn lệ của hàng ngàn khán giả mộ điệu cải lương"..
Nhiều đại diện của hãng dĩa Hồng Sơn, Hồng Hoa, Tứ Hải đến mời Út Bạch Lan ca thu dĩa vọng cổ.
Năm 1955, Út Bạch Lan rời đoàn Kim Thanh, cùng với anh Hồng Giang về đầu quân cho đoàn Thanh Minh, hát thường trực tại rạp Thành Xương. Út Bạch Lan đã thành công lớn qua các tuồng: Biên Thùy nổi sóng, Cánh Bườm lửa, Tình tráng sĩ, Đồ Bàn di hận, Nhớ rừng, Tình người nữ cứu thương, Cung đàn trên sông lạnh, Núi Liễu sông Bằng, Hồi trống Vân Lâu, Áo gấm khôi nguyên, Cầu gỗ Hồng Mai Thôn, Người đẹp Bạch Hoa Thôn, Sơn nữ Phà Ca, Người thợ rừng, Thiên Thần trên thiết mã, Hoa Mộc Lan, Chén cơm đô thành, Đất Việt của người Việt của các soạn giả Thiếu Linh, Nguyễn Phương, Mộc Linh, Lê Khanh.
Diễn viên cùng diễn chung với Út Bạch Lan trên sân khấu Thanh Minh thời gian 1955 đến 1958 có: Út Trà Ôn, Năm Nghĩa, Hồng Giang, Minh Tấn, Quang Phục, Sáu Nhỏ, Vinh Sang, hề Kim Quang, hề Châu Hí, Hề Núi, Văn Ngà, Chí Hiếu, các cô Thu Ba, Hồng Vân, Ba Kim Anh, Thanh Nga, Mai Búp, Ngọc Chúng.
Năm 1958, Út Bạch Lan
ký hợp đồng về hát cho đoàn Kim Chưởng với nghệ sĩ Thành Được. Khán giả khó
quên cô qua những vở tuồng: Chưa tắt lửa
lòng, Bên đồi trăng cũ, Thuyền ra cửa biển, Áo trắng nàng Mộng Trinh, Nửa bản
tình ca, Người đẹp thành Bát Đa.
Trên sân khấu Kim Chưởng, Út Bạch Lan và Thành Được thành hôn có hôn thơ giá thú đàng hoàng, cô Phùng Há làm chủ hôn.
Năm 1961, Út Bạch Lan lập đoàn hát lấy tên bảng hiệu: Út Bạch Lan - Thành Được. Đoàn có những tuồng như: Trảm mã trà, Đêm huyền diệu, Chân trời hạnh phúc, Khi rừng mới sang thu, Bốn mùa hoa nở, Bao giờ vườn sứ mưa hoa, Tìm suối tiên, Cuối đường hoa mộng, Thuyền về bến Ngự, Em đi trên phím nhạc, Khi hoa anh đào nở, Trăng sương cầu trúc, Sầu qua mấy nhịp cầu duyên.
Cuối năm 1961, đoàn Út Bạch Lan – Thành Được rã, Út Bạch Lan và Thành Được trở về hát cho đoàn Thanh Minh-Thanh Nga. Út Bạch Lan với giọng đồng pha thổ, như rót mật ngọt vào lòng người nghe. Soạn giả Viễn Châu sáng tác bài vọng cổ Hoa Lan Trắng, kể chuyện đời của Út Bạch Lan.
Khoảng cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, Út Bạch Lan mở quán c à-phê tại đình Tân An, nơi ngã tư Tự Đức, Nguyễn Bỉnh Khiêm, các nghệ sĩ Đài phát thanh Sàigòn thường giải khát nơi đây.
Sau 1975, Út Bạch Lan hát cho đoàn cải lương Sài Gòn 1, rồi về quê nhà hát cho đoàn cải lương Long An.
Sau 1990, cô về hát cho Câu Lạc Bộ sân khấu cải lương và hát giúp gây quỹ cứu trợ nạn nhân bão lụt, giúp người nghèo cô đơn ở thành phố và giúp bệnh nhân nghèo được điều trị miễn phí ở bệnh viện An Bình. Hơn bảy mươi tuổi đời, hơn 50 năm sân khấu, Út Bạch Lan, một giọng ca để đời, hiếm có trong nền nghệ thuật cải lương suốt nửa thế kỹ qua. Người đời đã gọi cô là Sầu nữ:
Út Bạch Lan mất khoảng 23 giờ ngày 4 tháng 11 n ăm 2016. Thọ 81 tuổi. Vì mang trong người nhiều chứng bệnh và vừa
mổ khối u gan trong khi tuổi già sức yếu. Khi tin tức bà mất được lan truyền,
rất nhiều nghệ sĩ trong và ngoài nước như Hồng Vân, Linh Tâm, Hữu Châu, Hữu
Quốc, Trịnh Kim Chi, Gia Bảo… và rất nhiều khán giả bày tỏ sự kính trọng, nhớ
tiếc, thương yêu…
Thanh Hương
Thanh Hương - Nguyễn Thị Thanh Hương (1936-1974)
Nghệ sĩ Thanh Hương tên thật là Nguyễn Thị Thanh Hương, sinh năm 1936 (Bính Tý) tại Phú Nhuận –
tỉnh Gia Định. nay là Tp. HCM. Bà là con nhà nòi, cha là Năm Nghĩa – đệ nhất
nghệ sĩ, mẹ là nữ danh ca Tư Sạng – nghệ sĩ lừng danh thời trước.
Thuở vào đời, Thanh Hương là một tư chức, nhưng nhờ giọng ca
thiên phú, nên cô được mời hát tại Đài Phát thanh Pháp Á Sài Gòn từ đầu thập
niên 1950. Ban cổ nhạc "Cửu Long" ở đài này nổi tiếng một thời với sự
góp mặt của Tám Thưa, Bảy Quới, cô Ba Bến Tre, cô Ba Trà Vinh, Thanh Hương, Văn
Chung,...và Thanh Hương gặp Văn Chung ở đây.
Năm 1952, Thanh Hương thành hôn với nghệ sĩ Văn Chung.
Các hãng dĩa Pathé, Asia, Hoành Sơn mời thu thanh nhiều bộ dĩa
tuồng và vọng cổ. Nữ nghệ sĩ Thanh Hương nổi tiếng với dĩa vọng cổ Cô bán
đèn hoa giấy (Sáng tác: Quy Sắc) của hãng đĩa Asia thu thanh. Văn Chung nổi
danh qua bộ đĩa Võ Đông Sơ,...
Thanh Hương gia nhập đoàn "Việt kịch Năm Châu" vào năm
1954, cùng với Văn Chung và cô đã tạo được cảm tình với khán giả ngay trong
tuồng "Người điên trong khói lửa". Sau, Việt kịch Năm Châu
biến cải lương thành đoàn ca kịch Phước Chung, Thanh Hương cộng tác một thời
gian rồi lại có mặt ở đoàn Kim Thanh và sau đó là đoàn Thanh Minh của bầu Năm
Nghĩa.
Năm 1956, Thanh Hương với cô Kim Chưởng dựng nên bảng hiệu
"Kim Chưởng - Thanh Hương", một đại bang rất ăn khách.
Cuối thập niên 1950, cuộc bình bầu trên một tờ báo Tiếng Dội của ông Trần Tấn Quốc chủ
biên, do khán giả chọn, Thanh Hương sở hữu danh hiệu Đệ nhất nữ danh ca;
Út Bạch Lan hạng nhì. Đệ nhất nam danh ca thuộc về Út Trà Ôn. Dịp này,
sầu nữ thổ lộ rằng chị đinh ninh mình ở ngôi số một; dè đâu... nghĩ cũng đúng
thôi. Hai ngôi sao nữ này đều kiệt xuất về ca; kỹ thuật đều cao ngang ngửa;
giọng ca ai cũng có cái hay riêng, khó phân định... Có lẽ, Thanh Hương thắng
phiếu Út Bạch Lan là nhờ... âm vực rộng, rộn ràng. Năm 1958, Thanh Hương sanh
đứa con gái đầu lòng đặt tên là Hương Dạ Thủy.
Năm 1960, khi sự nghiệp sân khấu khá vững vàng, Văn Chung và
Thanh Hương nghỉ hát đoàn Kim Chưởng – Thanh Hương và Thanh Hương cùng chồng
dựng nên bảng hiệu "Thanh Hương - Văn Chung".
Năm 1961, khi hát ở Hậu Giang, tuồng Nó là con tôi, của
Hà Triều – Hoa Phượng, nghệ sĩ Hùng Minh đóng cặp với nữ nghệ sĩ Thanh Hương,
đưa đến việc Văn Chung và Thanh Hương gảy gánh gia đình. Thanh Hương đem con
gái Hương Dạ Thủy về gởi cho cô Ba, chị của ông Năm Châu ở trại Phước Chung.
Năm 1962, đoàn hát Thanh Hương – Văn Chung được ông Bầu Hai Lợi
mua lại, đổi bảng hiệu thành đoàn Thi ca vũ nhạc kịch Trâm Vàng.
Đến giữa năm 1963, cặp nghệ sĩ Thanh Hương và Hùng Minh tách ra,
thành lập đoàn hát Thanh Hương – Hùng Minh, quy tụ nhiều soạn giả hữu danh,
nhiều diễn viên tên tuổi nên đoàn hát Thanh Hương – Hùng Minh thu hút được đông
đảo khán giả trong 10 năm liên tục.
Ngày 18 tháng 4 năm 1974, nữ nghệ sĩ Thanh Hương qua đời vì một
cơn sinh khó và được an táng tại Nghĩa trang chùa Nghệ sĩ, hưởng thọ 38 tuổi.
Hùng Cường
Hùng Cường
- Trần Kim Cường (1936-1996)
Nghệ sĩ Hùng Cường tên thật là Trần Kim Cường, sinh ngày
21 tháng 12 năm 1936 tại Bến Tre, sau theo gia đình lên Sàigòn. Ngay từ khi còn
là học sinh Trường Trung học Trần Hưng Đạo, ông đã có thể tự sáng tác và biểu
diễn những bài hát học sinh trong các lần hội diễn của trường. Sau khi học xong
“tú tài”, ông chính thức theo nghiệp ca hát tại các vũ trường Kim Sơn,
Baccara,…
Ngay từ năm 1954–1955, Hùng Cường đã nổi tiếng với các nhạc phẩm
“tiền chiến” như: Ông lái đò, Vọng ngày xanh, Sơn nữ ca, Đường xưa lối
cũ,... Tất cả đều được thu đĩa và đạt số bán kỷ lục ở Sàigòn bấy giờ.
Đầu thập niên 1960, Hùng Cường và Mai Lệ Huyền chuyển sang thể loại nhạc vàng,
tạo nên một không khí mới mẻ trong nền âm nhạc thời đó. Ông cũng được xem là
người đào hoa vì có nhiều người tình ở đất Sàigòn thời bấy giờ.
Ông vốn là ca sĩ hát tân nhạc, nhưng năm 1959, ông bất ngờ xuất
hiện trên sân khấu cải lương trong vai chính và thành công vang dội. Đó là điều
khá phi thường vì vào thời điểm đó, một người theo đoàn cải lương phải mất ít
nhất 2–3 năm làm “giàn bao” mới lên được vai phụ, rồi cũng mất chừng ấy thời
gian mới lên được vai chính nếu thực sự có tài và khổ luyện. Với nền móng
nhạc lý vững vàng, cộng với chất giọng đã được trui rèn và sự kiên trì, cố gắng
khổ luyện, ông đã mạnh dạn bước lên sân khấu cải lương và khẳng định ngay tên
tuổi của mình. Kể từ đó, trên bầu trời cải lương miền Nam xuất hiện ngôi sao
rực sáng, ông đã giúp cho tiếng tăm và doanh thu của đoàn Ngọc Kiều cải thiện
đáng kể. Với vóc dáng “sáng” sân khấu, chất giọng tenor khỏe, lối diễn xuất vừa
tự nhiên vừa tự tin và rất hợp lý, cùng những bài bản cải lương đã được luyện
tập kỹ càng, Hùng Cường đã thành công vang dội ngay từ vai diễn đầu.
Ngay khi đó, chủ đoàn Ngọc Kiều ký tiếp hợp đồng với Hùng Cường
để hát vai chính trong kịch bản mới Tuyết phủ chiều đông khai trương tại
rạp Viễn Trường tại Mỹ Tho, nay là Tiền Giang sau một tháng tập dượt. Hùng
Cường đã mướn riêng một nhạc sĩ cổ nhạc đến nhà ông luyện tập ngày đêm. Ngoài
ra, ông rất nhạy bén, biết được sở đoản, sở trường của mình, nên đã phối hợp
với soạn giả cải lương lồng vào kịch bản khá nhiều đoạn tân nhạc, khai thác
đúng tài năng của ông.
Vở tuồng Tuyết phủ
chiều đông của soạn giả Bạch Yến Lan và giọng hát mới Hùng Cường đã tạo nên
một sự kiện chấn động "thánh địa cải lương" Mỹ Tho. Đêm ấy, rạp Viễn
Trường đầy kín từ chỗ ngồi đến chỗ đứng, bên ngoài còn dư khán giả gần nửa rạp.
Tiếp theo, đoàn Ngọc Kiều dựng tiếp vở cải lương Màu tím đèn
hoa giấy, khai trương tưng bừng tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo năm 1960, rồi
tiếp tục lưu diễn nhiều tỉnh, thị xã lớn ở miền Tây. Hùng Cường đóng vai Kha
Phong – kiếm sĩ Phù Tang điêu luyện, bên cạnh tài danh Ngọc Đáng. "Ngôi
sao" cải lương Hùng Cường rực sáng từ đó.
Ông và nghệ sĩ Bạch Tuyết kết hợp lại thành cặp "sóng
thần" rất nổi tiếng ở Sàigòn vào thập niên 1960. Nổi tiếng tới mức làm lu
mờ những cặp đôi khác và chuyện tình giữa Bạch Tuyết với danh thủ Phạm Huỳnh
Tam Lang được thêu dệt nhờ đó mà ra.
Sau khi bước sang lĩnh vực cải lương và thành công vang dội,
Hùng Cường vẫn tiếp tục gắn bó với sân khấu ca nhạc và lại làm người hâm mộ
quay cuồng theo ông với một thể loại nhạc mới lạ lần đầu tiên xuất hiện ở Sài
Gòn – nhạc kích động, như cách gọi của nhiều người lúc đó là nhạc giật,
một dạng pop-rock đã được Việt Nam hóa. Nhạc kích động với giọng ca Hùng
Cường chỉ thực sự đạt đỉnh cao khi phối hợp cùng Mai Lệ Huyền – một ca sĩ nữ
cũng "quậy" không kém. Những ca khúc tươi vui và “kích động” như: Hai
trái tim vàng, Vì chưa ngỏ ý, Túp lều lý tưởng,... đã làm sôi động giới trẻ
miền Nam cuối thập niên 1960 – đầu thập niên 1970.
Sau ca nhạc, cải lương, Hùng Cường tiếp tục “lấn sân” sang điện
ảnh. Hàng loạt các phim do Hùng Cường thủ vai chính được người xem chú ý thời
bấy giờ như: Chân trời tím, Mãnh lực đồng tiền, Còn gì cho nhau, Nắng chiều,
Ly rượu mừng, Vết thù trên lưng ngựa hoang,... Lúc mới bước sang điện ảnh,
Hùng Cường bị châm chích rất ác ý, chê bai là “cải lương”. Thế nhưng, sau khi
thành công với phim đầu tiên “Chân trời tím”, nhiều hãng phim đã mời Hùng Cường
cộng tác và phim nào có tên ông cũng ăn khách. Hãng phim Kim Thân đã trả thù
lao khá cao để mời Hùng Cường và Mai Lệ Huyền đóng cặp trong phim Mãnh lực đồng tiền.
Theo chân Hùng Cường, nhiều đào kép cải lương khác ở Sàigòn cũng
tham gia đóng phim, mà nổi hơn cả là Thanh Nga và Mộng Tuyền. Lúc đầu, các nữ
tài tử điện ảnh rất ngại đóng cặp với kép hát cải lương, trong đó có Hùng
Cường. Theo báo chí thời ấy, công ty phim truyện Liên Ảnh trước khi mời Kim Vui
đã có ngỏ ý mời Thẩm Thúy Hằng đóng cặp với Hùng Cường, nhưng Thẩm Thúy Hằng từ
chối, có lẽ do "định kiến" ấy.
Vào thập niên 1960, khi cải lương đang chiếm lĩnh Sàigòn, một
nhóm kịch sĩ đứng đầu là Vân Hùng, La Thoại Tân, Hùng Cường hợp cùng nghệ sĩ
Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng và ca sĩ Túy Hồng tạo nên "đặc chủng" nghệ
thuật mới mang tên Kịch nghệ Sàigòn. Kịch Sàigòn ra đời muộn, không ồn
ào, không thu hút ngay được nhiều khán giả tới rạp, nhưng dần dần cũng tạo được
chỗ đứng. Ngoài kỳ nữ Kim Cương vốn là con nhà nòi về kịch nói, số còn lại đều
từ điện ảnh, ca nhạc sang. Có thể nói, chính những cái tên như Thẩm Thúy Hằng,
Hùng Cường đã lôi kéo một lượng khán giả không nhỏ, giúp sân khấu kịch Sàigòn
có chỗ đứng và phát triển dần.
Năm 1971, sau khi rời khỏi Đoàn Dạ Lý Hương của
ông Bầu Xuân một thời gian, Hùng cường và Bạch Tuyết thành lập Đoàn cải lương Hùng Cường - Bạch Tuyết. Loạt
vở để đời như Yêu người điên, Yêu người say, Tiền rừng bạc biển, Tuyệt tình
ca, rồi Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Cho trọn cuộc tình… của cặp
đôi này khiến khán giả ầm ầm đến rạp như sóng thần. Từ đó, Hùng Cường – Bạch
Tuyết được xưng tụng là cặp đôi “Sóng thần”. Tên và hình ảnh của hai người xuất
hiện đầy rẫy trên mặt báo, pano quảng cáo hay khắp các nẻo đường Sàigòn.
Cặp đôi Hùng Cường – Bạch Tuyết toàn vẹn đến mức ca, diễn đều
hay; hát tân nhạc, cổ nhạc đều tốt. Đến khi gặp nhau, họ mới hiểu vì sao đối
phương toàn gây nên những sự kiện chấn động như vậy. Đoàn
cải lương Hùng Cường Bạch Tuyết được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên, do không
biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông nhiều lần vượt biên nhưng
bị bắt và sau đó bị tù, Hùng Cường có tư tưởng chống cộng sản rất quyết liệt,
ông từng vào trại cải tạo sau năm 1975, sau khi được trả tự do, ông được sự
giúp đỡ của các phật tử Hòa Hảo cướp thuyền vượt biên. Ông sang được Hoa Kỳ vào
ngày 28 tháng 2 năm 1980. Ông cư ngụ tại Garden Grove, California, tiếp tục
hoạt động âm nhạc.
Ông qua đời ngày 1 tháng 5 năm 1996 tại bệnh viện Fountain
Valley, Quận Cam, California, hưởng thọ 60 tuổi. Ông được nhiều người đánh giá
là một nghệ sĩ đa tài, bởi ông thành công ở các lĩnh vực điện ảnh, ca nhạc, cải
lương và kịch.
Minh Cảnh
Minh Cảnh - Nguyễn
Minh Cảnh (1937-20.. )
Minh Cảnh tên thật là Nguyễn Minh Cảnh, sinh ngày 8 tháng 1 năm
1937 tại Chợ Lớn.
Cha của Minh Cảnh làm
phu đạp xe xích lô, sau khá hơn ông làm tài xế taxi. Mẹ của nghệ sĩ Minh Cảnh
buôn gánh bán bưng. Mẹ của Minh Cảnh sinh cả thảy 20 người
con, nhưng do nghèo
khó, bệnh hoạn nên
có nhiều người đã mất, chỉ có 8 người con còn sống sót, trong đó Minh Cảnh là
người con lớn nhất.
Năm 11 tuổi, Minh Cảnh
về sống với bà Ngoại và Dì Ba ở góc đường Nguyễn Thiện Thuật và Phan Thanh
Giản. Vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông phải làm rất nhiều việc để phụ giúp
gia đình. Ông theo các bạn nghèo, đi bươi rác, lượm chai không, nylon và giấy
vụn để bán lại cho các bà đi mua ve chai, buổi trưa và tối thì đi bán bánh cam,
chuối chiên để kiếm tiền về phụ với gia đình.
Đến năm 15 tuổi, Minh Cảnh theo cha mẹ về ở đường Phạm Thế Hiển, quận 8. Ông thợ hớt tóc tên Sĩ, ở gần nhà, ông ta biết đờn cổ nhạc nên dạy cho Minh Cảnh ca vọng cổ và các bài bản cải lương.
Nhân ngày giổ Tổ 12 tháng 8 âm lịch năm 1960, Minh Cảnh đi bán bánh ú nhưn tôm thịt ở bến xe buýt gần rạp hát Aristo đường Lê Lai, gần ga xe lửa Saigon. Minh Cảnh quen với anh Được, nhạc sĩ đàn violon trong ban cổ nhạc đoàn hát Kim Chung, nên được anh Được dẫn vào gánh hát chơi. Minh Cảnh cũng thắp nhang lạy Tổ như các diễn viên trong đoàn hát và được cho ở lại ăn uống sau lễ giổ Tổ. Mặc dầu Minh Cảnh lúc đó đã được 21 tuổi nhưng anh ốm đói thường trực nên vóc người nhỏ xíu như một đứa trẻ 11 hay 12 tuổi thôi. Trong tiệc rượu sau lễ cúng Tổ, anh Được giới thiệu Minh Cảnh ca sáu câu vọng cổ tựa Lá thư người chiến sĩ. Anh Được đờn violon, Ngọc Sáu đờn cò, Bảy Trạch đờn kìm.
Mọi người có mặt trong cuộc tiệc đều vổ tay khen hay. Nhạc sĩ đờn cò Sáu Xíu giới thiệu giọng ca của Minh Cảnh với ông bầu Long. Nghe Minh Cảnh ca sáu câu vọng cổ, ông Bầu Long chấp nhận cho Minh Cảnh vào đoàn hát, lương đêm bốn chục đồng và ký contrat 20.000 đồng trong hai năm. Chỉ có giọng ca lạ, luyến lái êm dịu, một em bán bánh cam ở đầu đường xó chợ được nâng lên trên sân khấu, với một số lương ngày một cao mà thời đó bất cứ người công chức nào đang làm việc cho chánh phủ cũng không thể mơ ước được số tiền lương và contrat cao như Minh Cảnh.
Nghệ danh Minh Cảnh là do vợ của nhạc Sĩ Năm Được đặt cho, mỹ danh thần đồng Minh Cảnh là do ký giả Nguyễn Ang Ca đặt, vì thấy Minh Cảnh nhỏ con như một trẻ nít, nên tặng mỹ danh thần đồng cho Minh Cảnh, mặc dù lúc đó anh đã được 21 tuổi.
Nghệ sĩ Minh Cảnh chưa hề được đào tạo nơi một trường nghệ thuật chánh quy nào, chưa phải đã theo học hát theo một trình tự làm quân hầu, kép con, kép cạnh rồi mới đến kép mùi, kép độc như phần đông các nghệ sĩ tiền phong đã trải qua. Minh Cảnh vào đoàn hát, đầu hôm sớm mai, chỉ biết ca rành sáu câu vọng cổ là một bước trở thành kép chánh, kép ca. Tình trạng nầy phổ biến trong thập niên 60 mà báo chí gọi là Kép ca đá kép diễn. Thời gian này các danh ca vọng cổ như Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Dũng Thanh Lâm, Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Thanh Nga, Lệ Thủy, Thanh Thanh Hoa, Mỹ Châu, dù về phương diện diễn xuất còn kém nhưng nhờ hơi ca vọng cổ, đã trở thành kép chánh, đào chánh của đoàn hát, trong khi đó thì các diễn viên với tài diễn xuất bậc thầy lại phải lui về hàng thứ hai hay thứ ba trong dàn đào kép của đoàn hát.. Thậm chí có người đổi nghề như mở quán cà phê, tiệm uốn tóc hay làm giáo sư kịch nghệ hoặc làm việc lồng tiếng Việt cho các phim ngoại quốc. Đó là những tài danh sân khấu như Năm Châu, Kim Cúc, Bảy Nhiêu, Ba Thâu, Văn Lâu, Tám Lắm, Văn Lang …
Ở sân khấu Kim Chung ông đóng cặp với Diệu Hiền , Mỹ Châu, Kim Hoàng, Mỵ Lan qua những vở: Đôi mắt mẹ hiền, Tưóng cứop Bạch Hải Đưòng, Công Chúa cá Phò Mả cùi, Quán gấm đầu làng, Hoa rụng trắng thiền môn, Lục Vân Tiên Kiều Nguyệt Nga, Phật Thích Ca đắc đạo.
Giữa năm 1961, nghệ sĩ Minh Cảnh nổi danh lớn với bài vọng cổ đầu tiên Tu là cội phúc của soạn giả Viễn Châu. Từ đó về sau ông đã thu đĩa những bài vọng cổ nổi tiếng khác cũng của Viễn Châu ở hãng Asia, Tứ Hải như: Võ Đông Sơ, Sầu vương ý nhạc, Chuyến xe lam chiều, Lưu Bình Dưong Lễ,Lưong Sơn Bá, Mưa trên phố Huế, Lòng dạ đàn bà, Em bé đánh giày, Trái sầu riêng, ca với Mỹ Châu, Đời mưa gió, Ni cô và Kiếm sĩ ca với Diệu Hiền, Ngưòi điên yêu trăng, Khóc cưòi, Hai bản đàn xuân của soạn giả Quy Sắc …
Năm 1963, đoàn Kim Chung 2 được thành lập, Minh Cảnh chuyển sang đoàn 2 và nổi danh qua các vở: Manh áo quê nghèo, Bên cầu vọng thê, Lưỡi kiếm thần, Lời thơ trên tuyết, Bức hoạ da người, Bẻ kiếm bên trời, Hận đầu xanh, Bích Vân Cung kỳ án, Trinh nữ lầu xanh…
Năm 1967, Minh Cảnh đứng ra lập đoàn hát riêng mang tên “ Minh Cảnh kịch đoàn”. Tuy nhiên, đoàn hát này không trụ được bao lâu thì tan rã, lại lập đoàn Thiên Cảnh, sau đó cũng rã gánh.
Minh Cảnh cho biết trước năm 1975, các băng nhóm thế giới ngầm hoạt động rộng, công khai ở Sàigòn, chia nhau lãnh địa để bảo kê nhà hàng, sòng bạc, đâm thuê, chém mướn… Nhiều “đại ca” khét tiếng thời đó như Đại Cathay, Huỳnh Tỳ, Long “trăng”, Tạ Tình, Vũ Thế Hùng, Tín Mã Nàm, Điền Khắc Kim… tuy bản chất tàn ác nhưng cũng có nhiều tay mê cải lương. Trong đó, tướng cướp Điền Khắc Kim là một khán giả trung thành của Minh Cảnh.
Minh Cảnh nhớ lại: “Mỗi lần đi xem hát, tay này đều mua tặng tôi lẵng hoa với dòng chữ “Một khán giả vô cùng ái mộ Minh Cảnh”. Ban đầu, tôi đâu biết Điền Khắc Kim là ai, cứ ngỡ đó là một khán giả bình thường và cũng chỉ mấy lần sơ giao. Một hôm, tôi bỗng thấy hình ảnh gã trên báo đăng kèm tin tức một vụ cướp tiệm vàng táo tợn. Tôi giật nảy mình nhưng rồi sau đó vẫn thấy gã đi xem hát và tiếp tục tặng hoa”.
Một lần, khi vãn hát, tôi mời gã đi ăn khuya và hỏi thẳng chuyện báo đăng. Điền Khắc Kim cười cười, giải thích: “Vụ này em làm để kiếm tiền cứu đám đàn em bị bắt quân dịch. Đại ca yên tâm, lo lót xong vụ này, em giải nghệ xin theo đoàn hát làm quân sĩ”. “Không rõ lời Điền Khắc Kim có chính xác hay không, tôi chỉ biết ký tặng gã bài ca cổ Tu là cội phúc của soạn giả Viễn Châu như một lời gửi gắm”.
Sau năm 1975, khi miền Nam mất rồi, cuộc đời của nghệ sĩ cũng như cuộc đời của cả chục triệu dân ở miền Nam, phải làm việc theo một lối khác, cuộc sống khó khăn túng thiếu, cái thuở vàng son dành cho những giọng ca vàng không còn nữa.
Nghệ sĩ Minh Cảnh đã đến tuổi 70. Anh ở trong nước thì không thể nào thi triển giọng ca vàng để kiếm sống, nên từ hai ba năm nay, anh sang Hoa Kỳ, ở vùng Nam Cali hoặc đến San José, Virginia, những nơi có nhiều đồng bào Việt Nam định cư. Anh ca vọng cổ trong các quán có ca nhạc, trong các cuộc biểu diễn tổ chức ở rạp hát và anh cũng nhận được tiền thu nhập khá cao. Chắc chắn là cao hơn lúc còn ở Việt Nam sau năm 1975.
Nghệ sĩ Minh Cảnh sang Mỹ định cư từ đầu thập niên 2000. Thời gian đầu, ông có nhiều sô diễn liên tục, dù ở tuổi gần 70. Nhưng vài năm trở lại đây, ông ra vào bệnh viện liên tục, sức khỏe yếu dần.
Minh Cảnh bị bệnh tim mạch và phổi, thời gian qua nhờ các bác sĩ ở tiểu bang Texas - Mỹ điều trị, ông đã khỏe mạnh và đến quận Cam, tiểu bang California – Mỹ để chuẩn bị biểu diễn trong chương trình Cổ Nhạc Phương Nam, tối 26-7-2015.
Ông là người mở màn cho trào lưu ca vọng cổ dài hơi mà sau nầy các nghệ sĩ Giang Châu, Bình Trang, Châu Thanh và Phượng Hằng nối gót theo Minh Cảnh tạo ra một trường phái ca vọng cổ dài hơi.
Nghệ sĩ Nam Hùng tên thật là Nguyễn Xúy, sinh ở miền Bắc, thân phụ ông bán cà-phê. Khoảng đầu thập niên 1950, Ban Việt kịch Năm Châu ra Bắc, thân phụ của Nam Hùng theo Ban nầy bán cà-phê cho các nghệ sĩ, khi Ban nầy lưu diễn ở Bắc thân phụ ông trở thành công nhân của Ban Việt kịch Năm Châu, đã dẫn ông theo vào Nam. Vài năm sau thân phụ mất, Nam Hùng được Phùng Há nhận làm con nuôi. Năm 1954, chia đôi đất nước, mẹ ông và gia đình ở miền Bắc. Sau 1975, ông tìm được mẹ, đưa mẹ vào Nam phụng dưỡng.
Được Phùng Há nhận làm con nuôi và cho ăn học tử tế nhưng Xuý không thích học, chỉ mê được đi hát như mẹ nuôi. Nam Hùng nhắc lại ký ức: “Ngồi trong lớp học mà đầu óc tôi chỉ mơ về sân khấu, bên tai chỉ nghe văng vẳng tiếng đàn, lời ca”.
Năm 1953, lên 16 tuổi, cậu bé Xuý năn nỉ mẹ nuôi cho nghỉ học để đi theo đoàn cải lương Hương Hoa. Là con nuôi của nghệ sĩ Phụng Há, người nổi tiếng trong giới cải lương lúc bấy giờ, cộng thêm những bài học về ca diễn, vũ đạo được mẹ nuôi huấn luyện từ nhỏ và cả sự trưởng thành từ lúc đóng quân sĩ đến kép con, Nguyễn Xuý không gặp khó khăn khi theo đoàn hát không phải là gánh hát nhà. Nhưng hơn ai hết, Xuý ý thức rất rõ khả năng, thực lực của mình.
Lợi thế về sắc vóc, giọng ca tốt, nhưng ở Xuý lại không có chất mùi mẫn đủ sức làm xiêu lòng khán giả. Nam Hùng có nhận định: “Chất giọng mùi mẫn là do trời phú, không thể luyện tập mà có được. Không có giọng ca, mình phải tìm cái khác bù vô để chinh phục khán giả. Ca không luyện được thì phải luyện diễn”. Nam Hùng bắt đầu chọn cho mình con đường trở thành kép độc từ đó.
Ở đoàn Hương Hoa, anh kép trẻ Văn Xuý được đặt nghệ danh Nam Hùng và bắt đầu thử sức với những vai kép độc đầu tiên. Thời gian làm ông quên lãng nhiều thứ, kể cả tên tuổi của những vai diễn thời son trẻ, nhưng cái cảm giác thấy mình cứ lóng ngóng khi diễn kép độc thì vẫn còn vẹn nguyên trong tâm trí ông.
Nam Hùng luôn ghi nhớ lời Phùng Há dạy: “Trong một tuồng hát, các nhân vật đều quan trọng như nhau, có sự tương tác qua lại để tạo thành một tuồng hát hay. Hỷ, nộ, ái, ố trên sân khấu phải rạch ròi. Một kép độc thành công sẽ góp phần giúp vai kép chính được khán giả yêu thương hơn”, tôi lại tự nhắc mình phải làm sao để khán giả càng ghét nhiều, càng tốt”.
Với suy nghĩ đó, mỗi lần nhận vai, Nam Hùng lại tìm hiểu thật kỹ nhân vật để chọn cho mình một cách thể hiện sự nham hiểm, độc ác xuất phát từ “tâm địa”, tính cách của nhân vật. Vì lẽ đó, ông nghiễm nhiên trở thành một kép hát nổi tiếng của các đoàn: Minh Chí, Kim Chưởng, Út Bạch Lan, Dạ Lý Hương, Thanh Minh-Thanh Nga, Sàigòn 1, đoàn 284., Nam Hùng nổi tiếng với hàng chục vai kép độc khác nhau: Mễ Kha Đan trong vở tuồng Đêm huyền diệu, Hoàng Hạc Tử Lang trong vở tuồng Thuyền ra cửa biển, Bình Thiếu Quân trong vở tuồng Tiếng hạc trong trăng, Chu Phác Viên trong vở tuồng Lôi vũ, Đổng Trác trong vở tuồng Phụng Nghi Đình, thầy Đề trong vở tuồng Ngao Sò Ốc Hến…
Năm 1961, Thanh Thanh Hoa đoạt giải Thanh Tâm, sau đó thành hôn với Nam Hùng, họ có chung với nhau nữ nghệ sĩ Thanh Thanh Tâm, sinh năm 1963. Sau đó, Nam Hùng và Thanh Thanh Hoa chia tay.
Năm 1977, Nam Hùng chính thức kết hôn với nghệ sĩ Tô Kim Hồng, họ đã chung sống đến ngày nay.
Nghệ sĩ Nam Hùng nói rằng cuộc đời nghệ sĩ long đong như đám lục bình. Cả đời chỉ biết ca hát mua vui cho mọi người, đến khi về già thì như con tằm đã rút hết ruột nhả tơ. Đôi khi, họ giật mình nghĩ tới vợ con, gia đình nhưng quá muộn để chăm lo vì tuổi già, sức yếu. Nhiều nghệ sĩ khi về chiều mới nuối tiếc đã không “học” lấy một nghề hoặc tìm việc phù hợp có thể nuôi thân khi già. Vì thế, không nhiều nghệ sĩ cuối đời thoát khỏi cuộc sống lo lắng, chật vật vì cơm áo gạo tiền!
Nam Hùng có chân trong ban chấp hành của Ban Ái hữu nghệ sĩ trực thuộc Hội Sân khấu Tp. HCM. Ông đi chỗ này chỗ kia vận động tiền bạc lo cho nghệ sĩ nghèo. Chính ông khai sinh ra quỹ giúp nghệ sĩ nghèo, neo đơn cách đây khoảng vài chục năm.
Chẳng ai biết Nam Hùng nghèo, vì cứ thấy ông ăn mặc chỉn chu đi vận động giúp cho người khác chứ không một lời than vãn chuyện riêng mình. Cả nhà ông sống nhờ quán phở, hễ dời nhà đi đâu thì quán dời theo đó. Mà dời nhà tới 6 lần. Ông và vợ thức khuya dậy sớm nấu phở, xong ông chạy đi lo việc cứu giúp nghệ sĩ nghèo khó. Vợ ông nghệ sĩ Tô Kim Hồng hiền lành, lui cui ở nhà bán phở và chăm sóc cha mẹ đôi bên. Hai vợ chồng giống nhau ở chỗ cực kỳ hiếu thảo. Sau giải phóng, Nam Hùng đã tìm được người mẹ thất lạc, đưa vào Sàigòn nuôi luôn đến khi bà cụ qua đời.
Dù ở nhà thuê, gia đình đã mở cửa hàng bán phở. Ở đâu cũng là tiệm phở Nam Hùng, gần đây ở số: 292 Nguyễn Thái Sơn - P.4 - Quận Gò Vấp.
Vận rủi phải ra vào viện nhiều lần, Bệnh viện Chợ Rẫy và Phạm Ngọc Thạch, cả hai nơi nầy đã giúp đỡ tận tình khi ông nằm viện. Ông có một cô con gái nuôi và một bà chị họ rất tận tụy với gia đình, để ông và Tô Kim Hồng yên tâm làm công tác xã hội. Căn nhà của ông tuy ở thuê, tuy thanh bạch nhưng đầm ấm yêu thương. Nam Hùng tâm sự: “Mình là kiếp con tằm nhả tơ mà được khán giả yêu thương như vậy thì xin kiếp sau cũng làm nghệ sĩ nữa!”.
Nghệ sĩ Nam Hùng không dừng các dự án từ thiện đang làm dang dở, tâm nguyện hoàn thành hồi ký về sự nghiệp của mình cùng mẹ nuôi là cố nghệ sĩ Phùng Há.
Hùng Minh
Nghệ sĩ Hùng Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Minh, sanh năm 1938 tại huyện Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho, học sinh trường dòng Saint Joseph Mỹ Tho. Khi cha mất, Minh theo mẹ về Saigon, cư ngụ ở quận 4.
Năm 1954, đoàn hát Thái Bình của ông Bầu Thới hát tại đình Lý Nhơn, quận tư, Minh xin theo học hát, được bầu Thới thu nhận. Minh theo đoàn Thái Bình tại rạp hát Phan Rang được 10 hôm, chỉ được làm quân sĩ ra sân khấu vài lần thì đoàn Thái Bình trở về Saigon vì nội bộ lủng củng. Đoàn hát Thái Bình ngưng hoạt động, xác gánh để ở đình Tân An Dakao, Minh và một số nghệ sĩ không nhà phải ở tạm trú trong đình.
Đây là giai đoạn bần khổ nhất của Minh khi bỏ nhà trốn theo gánh hát. Gánh hát rã, không dám trở về gia đình, không có nghề nghiệp gì khác, Minh đành sống lang thang bửa đói bửa no với các bạn vệ sĩ trong Đoàn. Sau đó, Minh đã cùng các bạn đến gánh hát Ánh Sáng của Bầu Tập để xin theo học hát. Các bạn của Minh thì được vào Đoàn hát, riêng Minh không được nhận, đành trở về đình Tân An tạm trú.
Lần khác Minh xin gia nhập gánh hát Phát Thanh của bầu Ba Tẹt hát ở Lái Thiêu, người giới thiệu với ông Bầu Ba Tẹt, nói Minh là kép chánh của một đoàn hát tỉnh. Minh được nhận ngay nhưng khi ông bầu Ba Tẹt giao cho một vai tuồng hát chánh, Minh không biết ca không biết hát nên đang đêm phải bỏ gánh hát trốn, lội bộ từ Lái Thiêu trở về đình Tân An, Dakao.
Nghệ sĩ Nam Sơn biết hoàn cảnh khốn khổ của Minh, nhận Minh làm con nuôi, dẫn theo gánh hát Bầu Tập, dạy cho Minh hát và đặt cho nghệ danh là Hoàng Bé..
Năm 1957, Hoàng Bé gia nhập gánh hát Đuốc Việt của Bầu Hơn, được sự giúp đở của các nghệ sĩ Thanh Cao, Trường Xuân, Tuấn Sĩ, Lệ Thẩm và Ngọc An nên dần dần Hoàng Bé hát được những vai nhỏ trên sân khấu. Khi nghệ sĩ chuyên đóng vai kép lão mùi Hoàng Sâm rời đoàn hát Đuốc Việt, soạn giả Thanh Cao giao cho Hoàng Bé thế vai của Hoàng Sâm. Hoàng Bé hát thành công, được soạn giả Thanh Cao đổi nghệ danh Hoàng Bé thành nghệ sĩ Hùng Minh được sử dụng đến ngày nay.
Dưới sự truyền nghề tậm tâm của nghệ sĩ Thanh Cao và sự giúp đỡ của các nghệ sĩ Trường Xuân, Tuấn Sĩ và Ngọc An, Hùng Minh hát thành công trong nhiều tuồng: Cô Gái Áo Vàng, Hận Cường Quyền, Trộm Mắt Phật, Cây Đèn Thần, Phùng Lộc giả gái….
Đoàn Đuốc Việt - Bầu Hơn, chồng của nữ nghệ sĩ Ngọc An là hậu thân của đoàn hát Tiếng Chuông Bầu Cang, đã hai lần đổi bảng hiệu thành đoàn Hương Giang và đoàn Bích Sơn - Ngọc An nhưng đến năm 1959 thì rã gánh. Nghệ sĩ Ba Khuê sau khi tách rời đoàn Hoa Sen của ông bầu Bảy Cao, cùng với vợ là nữ nghệ sĩ Ái Hữu thành lập gánh hát Hữu Tâm.
Ông Bầu Khuê, chủ nhân gát hát Hữu Tâm mời Hùng Minh về làm kép với một mức lương tương đối khá kèm theo một số tiền giao kèo. Hùng Minh được giao hát đủ loại vai tuồng: kép mùi, kép độc, lão. Nhờ cố gắng diễn các loại vai đó, Hùng Minh có dịp diễn qua các tuồng Ngã Ba Đường Hạnh Phúc, Tiếng Thét Giữa Điện Vàng, Nắm Cơm Chan Máu, Lòng Người Mặt Thú, Gió Hú Đồi Ma, Phương Dung Ca Kỹ, Nó là Con Tôi…
Sau 5 năm học nghệ, Hùng Minh được tặng huy chương vàng Giải Thanh Tâm năm 1959 qua vai Hoa Lộc Trung trong tuồng Nó là Con Tôi .
Trong buổi nhận giải thưởng, Hùng Minh hát chung với Thanh Nga huy chương vàng năm 1958 vở tuồng Bên Bờ Suối Mộng. Lễ phát giải được tổ chức tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Saigon.
Năm 1960, nghệ sĩ Hùng Minh được đoàn hát Song Kiều Thúy Nga mời về hát với một số tiền lương và giao kèo tăng lên.
Năm 1961, Hùng Minh cộng tác với đoàn hát Thanh Hương - Văn Chung. Năm 1962, Hùng Minh lấy Thanh Hương, đoàn hát Thanh Hương - Văn Chung được ông
Bầu Hai Lợi mua lại, đổi bảng hiệu thành đoàn Thi ca vũ nhạc kịch Trâm Vàng.
Đến giữa năm 1963, cặp nghệ sĩ tài danh Thanh Hương và Hùng Minh tách ra, thành lập đoàn hát Thanh Hương – Hùng Minh, quy tụ nhiều soạn giả hữu danh, nhiều diễn viên tên tuổi nên đoàn hát Thanh Hương – Hùng Minh thu hút được đông đảo khán giả trong 10 năm liên tục.
Ngày 18 tháng 4 năm 1974, nữ nghệ sĩ Thanh Hương qua đời vì một ca sinh nở khó khăn nên sau đó đoàn hát Thanh Hương – Hùng Minh rã gánh.
Năm 1975, Hùng Minh nguôi ngoai nỗi buồn, vừa gia nhập đoàn hát Tiếng Hát Dân Tộc thì đến ngày 30 tháng 4, mọi gánh hát đều phải ngưng hoạt động, chờ lịnh chánh quyền mới. Hùng Minh được bố trí về đoàn hát tập thể Thanh Minh.
Nghệ sĩ Hùng Minh cao ráo, đẹp trai, diễn xuất tinh tế, anh biết nghiên cứu tâm lý nhân vật từng vai, có kinh nghiệm diễn nhiều loại vai từ kép mùi, kép độc và vai hề nên trên sân khấu Thanh Minh, Hùng Minh hát thành công qua nhiều vai trong các tuồng Tấm Lòng của Biển, Tiếng Trống Mê Linh, Bên Cầu Dệt Lụa, Thái Hậu Dương Vân Nga….
Ba năm trên sân khấu Thanh Minh, nghệ sĩ Hùng Minh đã khẳng định được vị trí một kép quan trọng trong đoàn hát, anh đinh ninh sẽ chấm dứt những ngày phải long đong thay đổi liên tục nhiều đoàn hát như trước kia nhưng rồi ngày 26 tháng 11 năm 1978, nữ nghệ sĩ Thanh Nga và chồng cô bị sát hại, gánh hát Thanh Minh như một con thuyền giữa phong ba bão tố, Hùng Minh vẫn cố gắng cùng với những nghệ sĩ còn lại lo bảo đảm cho đoàn hát Thanh Minh tiếp tục hoạt động có hiệu quả. Nghệ sĩ Hùng Minh hát thêm hai tuồng: Bóng Tối và ánh Sáng, Sau Ngày cưới…
Năm 1980, đoàn Thanh Minh được tập thể hóa, đổi bảng hiệu là đoàn hát Thanh Nga, nghệ sĩ Hùng Minh cũng được cấp trên điều động về đoàn hát Văn Công. Tại sân khấu nầy anh hát các tuồng Tiếng sóng Rạch Gầm, Tâm Sự Ngọc Hân, Muôn dặm vì chồng, Nàng Hai Bến Nghé, Dòng sông đầm lầy. Mùa Thu trên non cao, Khúc hát đoạn tình…
Năm 1989, anh đi hát cho đoàn Sông Bé 2. Năm 1991 anh về cộng tác với đoàn cải lương Saigon 1 cho đến năm 1995, Hùng Minh về nhà nghĩ, anh chỉ tham gia hát thu hình băng vidéo cải lương.
Nghệ sĩ Hùng Minh là một trong nhiều nghệ sĩ là những đứa con nhà nghèo ra đi lập thân, chịu khổ chịu đói kém trong đầu thập niên 50 để đeo đuổi theo các gánh hát để học hát. Với một tinh thần kiên trì, gian lao đói nghèo không hề làm cho anh chùng bước. Nghệ sĩ Hùng Minh với năm mươi năm trên sân khấu, đã hát không dưới một trăm tuồng hát, nghệ sĩ Hùng Minh được kể là một nghệ sĩ có tay nghề vững vàng trong hàng các nghệ sĩ cải lương tài danh của các thập niên 50, 60, 70.
Cuộc đời Hùng Minh phải đi thuê nhà ở, xưa kia từ chợ Bàn Cờ tại quận 3, Tp. HCM. cho đến nay đã chuyển qua không biết bao nhiêu căn nhà thuê, phòng trọ vẫn chưa có ngôi nhà che mái ấm gia đình.
Kim Giác
Nghệ sĩ Kim Giác sinh tại Bến Tre, năm 1939. Lúc nhỏ tên là Nguyễn Thị Toa, con gái thứ 3 trong gia đình, là đứa trẻ khó nuôi, từng được đắp mặt bằng lá môn để chuẩn bị đưa vô hòm, vì thế sau khi “phục sinh” thì cha mẹ đưa vào chùa cúng và đổi tên thành Nguyễn Thị Giác. Vào nghiệp diễn, vì đóng vai hiền không vượt qua được ai nên bà đi tìm ngã rẽ mới với các vai dữ; nào ngờ thành công ngoài mong đợi mà đỉnh cao là nhân vật Hai Lung trong vở Nửa đời hương phấn và bà Cả trong Nợ tình. Trong khi đó khác hẳn với chị Ba, hai cô em gái Ngọc Hương, Ngọc Lan lại nổi danh với các vai đào thương.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình theo nghề hát Bội tại Bến tre. Ông bà nội của Kim Giác là thành viên của gánh hát bội Kiến Lương Ban. Còn thân sinh là ông Nguyễn Văn Hay, tức nghệ sĩ Hai Nhỏ Gia đình có 4 anh chị em gồm có: Kim Giác, Hoàng On, Ngọc Hương, Ngọc Lan đã được theo học ca vọng cổ, bài bản và vũ đạo ngay trong đoàn hát do ông bà nội truyền dạy. Nghệ sĩ Kim Giác đã từng làm đào chánh đoàn Nam Phong.
Năm 1962 nữ nghệ sĩ Kim Giác kết hôn với nghệ sĩ Hoàng Giang. sau khi kết hôn Kim Giác và Hoàng Giang về cộng tác với gánh hát Hương Mùa Thu. Hoàng Giang và Kim Giác là đôi vợ chồng gắn bó với nhau hạnh phúc cho đến ngày Hoàng Giang mất năm 2002.
Sau đó Kim Giác cùng
Hoàng Giang rời gánh Hương Mùa Thu, về đầu quân cho đoàn Thanh Minh-Thanh
Nga.
Sau năm 1975, cùng Hoàng Giang hát cho đoàn Thanh Minh, rồi Văn
Công, Trần Hữu Trang
Giới nghệ sĩ vẫn coi
Kim Giác và Hoàng Giàng là hình bóng của nhau vì trong lúc ông đóng kép độc thì
bà lại vào vai đào ác. Nghệ sĩ Kim Giác đã từng để lại trên Sân khấu Thanh Minh
Thanh Nga, Dạ Lý Hương, Sài Gòn 1… những “hình mẫu” mẹ chồng độc đoán trong vở
tuồng Ngã rẽ tâm tình, Nợ
tình, bà mối lươn lẹo
trong vở tuồng Tiếng
hạc trong trăng, chủ nợ cay nghiệt
trong vở tuồng Nửa
đời hương phấn...
Những lần đi diễn tấu hài ở phòng trà Tiếng
Xưa, nhiều khán giả đã cho bà tiền vì được gặp lại thần tượng một cách quá bất
ngờ, cứ tưởng bà đã đi ra nước ngoài từ lâu. Nắm tay nhau trong xúc động, cả
diễn viên và khán giả đều mừng mừng tủi tủi. Chỉ có lần xuống Củ Chi đi hát đã
để lại kỷ niệm buồn mà lại vui với nghệ sĩ vì “mụ Hai Lung độc ác” đã bị khán
giả chửi toáng là “con mẹ già mắc dịch” và sau đó lãnh đủ mấy cùi bắp liệng từ
dưới lên. Theo bà, dù ghét hay thương nhưng đó là tình cảm của công chúng đối
với người nghệ sĩ đều rất đáng quý mà không phải ai cũng có được. Đây chính là
động lực để họ giữ lửa cho nghề và làm trọn kiếp tằm nghệ sĩ nhả tơ nghệ thuật
cho đời.
Nghệ sĩ Bích Sơn tên thật là Trần Bích Sơn, còn có tên riêng Vĩnh San hay Dung, sanh năm 1939 tại Hà Nội.
Cuối năm 1952, nữ nghệ sĩ Bích Thuận đi hát trong Nam đã đem theo hai cháu gái là Bích Sơn và Bích Thủy. Lúc đó Bích Sơn còn là cô gái thơ ngây tóc xõa bờ vai.
Vào đến Hòn Ngọc Viễn Ðông, Bích Sơn được gửi gắm vào trường Saint Marie Tân Ðịnh. Sau ba năm học trường đạo, nhờ sẵn có khiếu về tân nhạc, Bích Sơn được nữ nghệ sĩ Bích Thuận tập ca hát.
Năm 1955, Bích Sơn gia nhập ban Xuân Thu của nhạc sĩ Lê Thương, và cuối năm này, nữ nghệ sĩ Bích Thuận thành lập đoàn Bích Thuận, thì Bích Sơn về hát cho gánh nhà, và đây là bước đầu dọ dẫm, nàng chỉ đóng vai nàng tiên nữ phụ Thùy Vân.
Trong thời gian này cô bé Bích Sơn chỉ được chú ý qua giọng ngâm thơ trong trẻo và cốt cách kiều mị còn bị che phủ trong dáng điệu e dè. Lúc bấy giờ thi sĩ Kiên Giang là soạn giả, cũng đồng thời là ký giả kịch trường. Kiên Giang về cộng tác đoàn Bích Thuận, chàng ta đã mê mệt nàng Bích Sơn.
Năm 1957 khán giả bắt đầu chú ý Bích Sơn qua hình ảnh công chúa Phù Tang trong vở Khi Hoa Anh Ðào Nở của Hà Triều Hoa Phượng trên sân khấu Thúy Nga.
Ðầu năm 1958, Bích Sơn được giới thiệu với ban giám đốc để thành lập kịch đoàn Bích Sơn-Ngọc An. Trên sân khấu Bích Sơn được khán giả Ðà Lạt tưởng thưởng qua vai sơn nữ Phà Ca trong vở “Bao Giờ Mùa Sim Chín” (người vợ không bao giờ cưới) của Kiên Giang-Phúc Quyên.
Cũng năm này Bích Sơn được đại nhạc hội Giao Duyên giới thiệu lần đầu bài thơ “Hoa Trắng Thôi Cái Trên Áo Tím” qua giọng ngâm u buồn như tiếng chuông giáo đường. Bích Sơn đã thu hút được nghệ cảm của sức học sinh trí thức. Trên sân khấu Thủ Ðô, cũng như dưới ánh đèn của các dạ hội qua các tỉnh miền Trung, Bích Sơn đã gieo sâu vào tâm khảm thính giả dư âm của một nghệ cảm thâm trầm.
Lúc đoàn diễn tại Cần Thơ, cũng là lúc Kiên Giang viết vở tuồng Ngưu Lang Chức Nữ, cho Bích Sơn thay thế cô Bích Thuận đóng vai nàng tiên xuống trần tắm suối bỏ quên cặp cánh không về Bồng Lai tiên cảnh được, rồi ở lại lấy chồng luôn. Qua vai nầy Bích Sơn đã bước một bước tiến dài từ vai phụ đến vai chánh.
Trở về Sàigòn, thi sĩ Kiên Giang viết bài đăng trên tờ Tiếng Chuông kịch trường, hết lời ca tụng nàng Bích Sơn. Thấy Bích Sơn duyên dáng, thanh tao đẹp như tiên… thật, thi sĩ Kiên Giang bèn tự viết báo ca tụng nàng là “kiều nữ.” Hình ảnh kiều nữ đã hiện lên hầu hết ý thơ của Kiên Giang, và đã trở nên một giai thoại trong làng sân khấu.
Trên giai phẩm giải Thanh Tâm 1960, Kiên Giang đã đưa Bích Sơn lên tuyệt đỉnh trong cuộc đời làm nghệ thuật. Xin trích vài đoạn như sau:
“…Năm 1959, khán giả thủ đô được dịp thưởng thức tài nghệ Bích Sơn qua vai Phương Thành trong soạn phẩm cổ tích ‘Áo Cưới Trước Cổng Chùa.’ Nghệ thuật diễn xuất của Bích Sơn được khơi dậy đến cao độ từ vai trò ấy.
“Tài nghệ được kết tạo qua nhiều sân khấu để rồi nở chín trên sân khấu Thanh Minh, Bích Sơn nghiễm nhiên trở thành một nữ diễn viên gần như một kịch sĩ gần đủ hai yếu tố cần thiết: diễn và ca ngâm.
“Với suối tóc dài cốt cách cân đối, gương mặt sáng, đôi mắt mơ huyền, giọng ngâm thơ thánh thót đi sâu vào tâm cảm người nghe, Bích Sơn có đủ điều kiều mang mỹ danh kiều nữ. Nhất là với chiếc áo cài hoa trắng và suối tóc huyền, Bích Sơn được xem là kiều nữ áo tím trên sân khấu cũng như ngoài đời.
“Với phong thái của một kiều nữ, Bích Sơn đủ điều kiện đóng các vai chánh trong loại tuồng đường rừng, hương xa cũng như xã hội. Ðặc biệt trong loại tuồng hương xa (Nhật) Bích Sơn thể hiện trung thực nhứt hình ảnh cô gái Phù Tang, Bích Sơn càng trở nên huyền ảo, trong các vai sơn nữ.
“Người ta có thể nhận thấy Bích Sơn yếu kém về phương diện ca vọng cổ, nhược điểm ấy có thể được đền bù khỏa lấp chăng?
“Bích Sơn là người sinh ở đất Bắc, tất nhiên giọng nói cũng ảnh hưởng ở âm điệu của thổ ngữ miền Bắc. Như thế, Bích Sơn làm sao ca vọng cổ bằng Út Bạch Lan, Thanh Nga, Thanh Hương… Nhưng với quyết tâm học nói giọng Nam, rèn luyện kỹ thuật ca vọng cổ, Bích Sơn đã tiến bộ đến cao độ trên phương diện ca. Trong vở “Bếp Lửa Chiều Ly Biệt” của Yến Lang và “Bốn Cánh Hoa Ðào” của Lê Khanh, Bích Sơn vẫn được báo chí và khán giả khích lệ và khen ngợi ở kỹ thuật ca vọng cổ. Như thế nhược điểm ấy có thể được đền bù bằng giọng ngâm thơ, khả năng ca nhạc mới, và nghệ thuật diễn xuất sống động và trung thực.
“Bích Sơn là một nữ nghệ sĩ Bắc duy nhứt sống gần gũi và tha thiết với các sân khấu ca kịch miền Nam. Trước kia sự dung hợp nghệ sĩ Bắc Nam trên một sân khấu là cả việc khó khăn. Lần đầu tiên Bích Sơn vào sân khấu Thúy Nga với tất cả sự ngỡ ngàng mặc dù chủ nhân, soạn giả và nghệ sĩ miền Nam mở rộng cửa để sẵn đón. Dần dần Bích Sơn từ bóng tối hậu trường xuất hiện giữa tiền trường, tiếp nhận được sự tán thưởng của khán giả miền Nam, ở Lục Tỉnh ở miền Ðông, tự nhiên mặc cảm ấy tiêu tan, Bích Sơn càng bước sâu vào sân khấu miền Nam càng tìm thấy hơi ấm và không khí kịch nghệ để trở thành đứa con ruột của sân khấu ca kịch miền Nam. Bích Sơn là gạch nối liền giữa nghệ sĩ Bắc Nam.
“Bích Sơn hãy cảm tạ nghệ thuật, trước khi nhận lãnh ‘huy chương vàng 60’ của giải Thanh Tâm…”
Như vậy, mỹ danh “kiều nữ” của Bích Sơn là do Kiên Giang đặt trong bài báo ấy, Bích Sơn được mang luôn mỹ danh ầy cho đến ngày nay..
Kiều nữ Bích Sơn lập gia đình với một quân nhân, là sĩ quan ngành Quân cụ. Thời ấy những người rõ biết sự thể đã nói rằng, nếu như kiều nữ chưa có chồng, chắc là còn cả “lố” bài thơ ca tụng người đẹp.
Là cô đào được kể là đẹp với mái tóc dài tới nhượng chân. Sau 1975, chồng của Bích Sơn đi học tập cải tạo và Bích Sơn thì đi Pháp. Về sau họ đoàn tụ với nhau và sang định cư Hoa Kỳ.
Năm 2001, Hội Cổ Nhạc Miền Nam Việt Nam Hải Ngoại, tổ chức giải Phụng Hoàng, có mời Bích Sơn tham gia ban giám khảo, nhưng kiều nữ từ chối. Lúc ấy nhạc sĩ Nguyễn Hiền, cố vấn của hội nói rằng: Giờ đây Bích Sơn đã ngoài 60 rồi, không còn là kiều nữ nữa mà đã là “già nữ” nên cô không muốn xuất hiện chăng? Cũng có thể lắm, kiều nữ muốn giữ hình ảnh đẹp của mình trong lòng khán giả mộ. điệu nghệ sĩ Cải lương.
Nghệ sĩ Thanh Tú tên thật là Mai Văn Tú, sanh năm 1939, đệ tử của nhạc sĩ Út Trong, được thầy giới thiệu gia nhập đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga.
Năm 1961, nghệ sĩ
Thành Được rời đoàn Thanh Minh Thanh Nga để thành lập đoàn hát Út Bạch Lan -
Thành Được nên các vai tuồng cũ của Thành Được và những vai mới dự trù phóng
vai cho Thành Được được giao cho Thanh Tú đóng.
Nghệ sĩ Thanh Tú có
giọng ca truyền cảm, thân thể cao ráo, vạm vở, đẹp trai. Anh đóng cặp với Thanh
Nga trong các vở tuồng Nữa Đời Hương
Phấn, Đôi Mắt Người Xưa, Ngã Rẻ Tâm Tình, Con Gái Chị Hằng, Đoạn Tuyệt, Phấn
Bụi Phù Hoa, Phu Tử Tùng Tử, Tấm Lòng Của Biển, Mưa Rừng, Người Chồng Triệu Phú…
Thanh Tú cũng thành công trong các vai kép võ trong các tuồng Tàu như Trăng Rụng Bến Từ Châu, Võ Tắc Thiên, Khói
Sóng Tiêu Tương.
Năm 1963, nghệ sĩ
Thanh Tú đoạt được huy chương vàng giải Thanh Tâm qua vai Lưu Kiến Xuân trong
tuồng Khói Sóng Tiêu Tương. Đây là
vai kép ba trong tuồng, sau hai vai Hoàng Hoa Lử và vai Chu Vĩnh Tuyên do Hữu
Phước và Việt Hùng thủ diễn. Hữu Phước và Việt Hùng không dự tranh giải Thanh
Tâm vì hai anh đã quá tuổi tranh giải. Thanh Tú vào vai kép ba nhưng anh ca và
diễn quá xuất sắc nên được chấm giải. Năm 1963. có đến 6 nghệ sĩ được tặng
thưởng huy chương vàng giải Thanh Tâm: ba nữ nghệ sĩ Bạch Tuyết, Kim Loan, tức
Mộng Tuyền, Trương Ánh Loan, và ba nam nghệ sĩ Tấn Tài, Diệp Lang, Thanh Tú.
Tên tuổi của Thanh Tú nổi bật trong hàng ngũ các kép trẻ, chẳng những trên sân khấu cải lương mà Thanh Tú còn được mời đóng vai chánh trong các phim của hãng Alpha phim và hãng Dạ Lý Hương phim. Đó là các phim: Trống Mái, Phận Má Hồng, Lan Và Điệp, Chiều Kỷ Niệm, Con Ma Nhà Họ Hứa.
Trong phim Trống Mái,
nghệ sĩ Thanh Tú thủ vai một người chài lưới, ở trần, vai u thịt bắp, diễn xuất
kéo lưới, phơi lưới, chèo ghe thành thạo như một người thanh niên chuyên sống
lao động miền biển, nên Thanh Tú rất được khán giả phim ảnh ưa thích.
Đây là một thành tích
rất đáng kể vì nghệ sĩ cải lương được mời đóng phim, trong lãnh vực nghệ thuật
phim ảnh, ít có nam nghệ sĩ cải lương được thành công qua nhiều phim như Thanh
Tú.
Năm 1969, nghệ sĩ
Thanh Tú gia nhập gánh hát Ánh Chiêu Dương của ông Bầu Nguyễn Thành Châu, đã
hát qua các tuồng Nước Biển Mưa Nguồn, Vợ
và Tình, Sân Khấu Về Khuya… Anh có dịp theo nhóm các nghệ sĩ Năm Châu,
Phùng Há, Thanh Thanh Hoa đi trình diễn ở các nước Anh, Pháp, Algérie và anh
cũng có dịp hát hội chợ Thát Luổng ở xứ Lào.
Nghệ sĩ Thanh Tú và nữ
nghệ sĩ Phương Liên đã giữ vững bảng hiệu Dạ Lý Hương và góp phần thực hiện
thành công phim ảnh của hãng Dạ Lý Hương trong giai đoạn mà đoàn hát này vừa
mất một cặp đào kép ăn khách nhất của đoàn.
Thanh Tú đã hát qua
các tuồng Bọt Biển 3, Người Dừng Chân Đêm
Mưa, Kẻ Sợ Tình, Đời là Một Chữ T, Gái Điếm Vợ Hiền, Người Chồng Triệu Phú, Ông
Huyện Đề,…
Trong thời gian nầy
Thanh Tú và nữ nghệ sĩ Trang Bích Liễu yêu nhau. Cuộc tình của đôi uyên ương
Thanh Tú - Trang Bích Liễu gặp không ít sóng gió trở ngại do gia đình của Trang
Bích Liễu cản ngăn không cho cô yêu anh chàng kép trẻ hào hoa Thanh Tú.
Trước khi Thanh Tú gặp
và yêu Trang Bích Liễu, anh đã có ba lần gảy đổ hạnh phúc gia đình. Một lần vợ
của anh ở đường Nguyễn Biểu bị lạc đạn mà chết. Hai người vợ kia thì từng người
đến rồi chia tay với anh khi họ gặp cuộc sống quá khó khăn, lúc đó Thanh Tú
chưa được nổi danh và chưa có một vị trí khả quan trên sân khấu cải lương.
Sau ba lần gảy đổ, có
ba dòng con, Thanh Tú làm khổ cho cha mẹ của anh phải chăm nuôi chúng, nghệ sĩ
Thanh Tú ngán ngẩm con đường vợ với con nên định tâm sẽ sống cu ky suốt đời.
Nhưng có lẽ do duyên trời định nên Thanh Tú và Trang Bích Liễu gặp nhau, yêu nhau và phải vượt biết bao khó khăn trở ngại, họ mới trở thành một đôi chồng vợ tâm đầu ý hợp suốt mấy mươi năm đồng cam cộng khổ, và sống trọn vẹn với nghề hát.
Lúc đó Thanh Tú là một
ngôi sao nổi tiếng trên sân khấu cải lương và cả trên lãnh vực phim ảnh. Còn
Trang Bích Liễu thì mới ra trường Quốc Gia Âm Nhạc, cô là một diễn viên mới tập
sự trong đoàn hát Thúy Nga, đoàn hát Thế Hệ Dũng Thanh Lâm.
Khi Thanh Tú rời đoàn
Thanh Minh Thanh Nga sang hát cho đoàn Tân Hoa Lan của Út Bạch Lan thì Trang
Bích Liễu mới gia nhập đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga.
Năm 1971, nghệ sĩ
Thanh Tú được ông Bầu Xuân mời ký hợp đồng để về đóng chánh cặp với nữ nghệ sĩ
Phượng Liên thay cho cặp Hùng Cường và Bạch Tuyết rời đoàn để thành lập gánh
hát Bạch Tuyết - Hùng Cường.
Trang Bích Liễu hát
chung đoàn hát Dạ Lý Hương, đóng tuồng cặp với nhau, có dịp chuyện trò tìm hiểu
nhau, Trang Bích Liễu mới thấy Thanh Tú là người đàn ông hiền lành, chân thật,
đáng yêu chớ không như dư luận đồn đãi vì những lần đổ vở hạnh phúc của anh trước
kia. Cô bèn dũng cảm cùng với Thanh Tú xây dựng hạnh phúc gia đình dù chính mẹ
của cô hết sức ngăn cản vì bà sợ anh chàng có ba đời vợ kia sẽ hại con gái của
bà.
Để bảo vệ hạnh phúc
của mình, Thanh Tú và Trang Bích Liễu rời đoàn hát Dạ Lý Hương, xuống tỉnh lập
đoàn hát Thanh Tú - Trang Bích Liễu, vừa gầy dựng sự nghiệp ca hát của mình vừa
xây tổ hạnh phúc, khỏi bị gia đình bên vợ kềm chế.
Đoàn hát Thanh Tú và
Trang bích Liễu gồm có những nghệ sĩ tài danh Thanh Hải, Hoàng Giang, Kim Giác,
Kim Ngọc, hề Tư Rọm, hề Kim Quang, hát những tuồng cũ nổi tiếng của Thanh Minh
Thanh Nga và Dạ Lý Hương nên rất ăn khách ở miền Tây vì các đoàn hát đại ban đó
ít đi lưu diễn, tuồng cũ của họ vẫn là tuồng mới đối với khán giả Hậu giang.
Gia đình của Trang
Bích Liễu chấp nhận cuộc hôn nhơn của cô và Thanh Tú sau nhiều năm Thanh Tú
chứng tỏ mối tình chung thủy và sự thành công trong sự nghiệp nghệ thuật của
Thanh Tú và Trang Bích Liễu.
Sau năm 1975, Thanh Tú
lập đoàn hát Kim Tinh, hát ở các tỉnh Hậu Giang. Đến năm 1976, đoàn hát tư nhân
Kim Tinh không được phép hoạt động, anh giải tán đoàn hát, về hát cho các đoàn
tập thể Thanh Minh, Phước Chung hoặc đoàn hát nhà nước Trần Hữu Trang, Văn
Công.
Khi hát cho đoàn Thanh Minh, Thanh Tú nổi danh trong vai Nhuận Điền tuồng Bên Cầu Dệt Lụa qua lối diễn mộc mạc với giọng ca khoẻ khoắn, quyến rũ.
Nhiều năm làm bầu gánh ở các miệt tỉnh, Thanh Tú đã bận rộn không ít trong công việc quản lý đoàn hát, điều đó ảnh hưởng nhiều đến nghề nghiệp ca diễn của anh.
Là một huy chương vàng giải Thanh Tâm đồng thời với hai huy chương vàng Diệp Lang và Tấn Tài nhưng nghệ sĩ Thanh Tú không tiến bộ về nghệ thuật ca hát bằng hai người bạn đó, chính vì nghề làm bầu gánh hát đã hạn chế sự phát triển của nghề ca hát của một diễn viên thuần túy.
Năm 1978, Thanh Tú và
Trang Bích Liễu có đứa con trai duy nhất tên là Mai Lê Thanh Tiến, không theo
nghề hát của cha mẹ.
Thanh Tú và Trang Bích
Liễu xa sân khấu, mở quán nhậu Bên Cầu Dệt Lụa gần bến xe miền Tây, sống ổn
định về kinh tế. Khi nhớ nghề, anh chị ca hát trong quán nhậu để tiếp đải khách
tri âm và khi có những dịp hát chầu, hát gây quỷ từ thiện, Thanh Tú tham gia để
góp phần làm việc từ thiện và để đở nhớ nghề.
Năm 2005, Thanh Tú cùng Trang Bích Liễu có trở lại sân khấu hát vở Giấc
Mộng Đêm Xuân, trình diễn cùng với c ác nghệ sĩ Minh Vương,
Lệ Thủy, Tuấn Thanh, Kim Ngọc, Thanh Thanh Tâm... của chương trình sân khấu
vàng.
Sau đó, Thanh Tú bị tai biến, đã chữa trị vật lý trị liệu, nay có thể đi lại một mình. Từ sau khi bệnh, rất
nhiều bạn bè cũng như hàng xóm láng giềng quan tâm và gọi điện hỏi thăm, đặc
biệt là nghệ sĩ Thanh Sang, đó là một sự động viên rất lớn
giúp cho Thanh Tú vượt qua tật bệnh.
Dù mang trong lòng nỗi mặc cảm với mọi người
vì bệnh tật, nhưng ngày ngày bên cạnh người thân, Thanh Tú luôn luôn
tìm cách để tạo ra tiếng cười, tạo ra niềm vui để tiếp sức cho mọi người không
phải thêm nhiều điều lo lắng. Còn với Trang Bích Liễu, cô luôn động viên Thanh Tú đi đây đi đó giao tiếp với mọi
người, để tinh thần thêm sảng khoái, nhờ đó khả
năng nói chuyện, suy tư
nhiều hơn, để mau chóng được hồi phục tinh thần và sức khỏe.
Út Hiền
Nghệ sĩ Út Hiền tên thật là Lê Minh Khánh, sanh năm 1940, tại Gò Vấp, cha mất sớm, mẹ buôn bán nhỏ. Bà có một ít ruộng vườn, huê lợi đủ sống. Trong gia đình không có ai theo nghề ca hát.
Lúc còn học văn hóa, Khánh học ca tân nhạc và vọng cổ theo đài phát thanh. Thấy Khánh có giọng ca tốt, một bà bạn của mẹ khuyên cho Khánh đi học ca cổ nhạc. Khánh theo học lớp dạy ca cổ của nhạc sĩ Út Trong, nhà ở gần chùa Phật Ấn, đường Hưng Đạo, Saigòn vào những năm 1956, 1957. Nhạc sĩ Út Trong đặt nghệ danh cho Khánh là Út Hiền vì bản tánh của Khánh rất hiền lành, ăn nói nhỏ nhẹ. Nhạc sĩ Út Trong giới thiệu Út Hiền cho đoàn hát Thanh Minh vì lúc ấy danh ca Út Trà Ôn tách ra lập đoàn hát Kim Thanh – Út Trà Ôn. Giọng ca của Út Hiền thật là trong, êm như nhung tơ, cùng một kỷ thuật ca và giọng ca của Hữu Phước.
Danh ca Hữu Phước đang hát cho đoàn Kim Thoa, lưu diễn các tỉnh Hậu Giang. Sau khi Út Trà Ôn rời đoàn hát Thanh Minh thì danh ca vọng cổ còn lại chỉ có Năm Nghĩa, Minh Tấn, Út Bạch Lan, Thu Ba nên bà bầu Thơ thu nhận những giọng ca trẻ như Út Hiền, Út Hậu, Quang Nhiều và nữ diễn viên Mỹ Hiền.
Các diễn viên trẻ Út Hiền, Út Hậu, Quang Nhiều được ký hợp đồng hai chục ngàn đồng mỗi người và được cho hát vai kép nhì nhưng có ca nhiều câu vọng cổ trong các tuồng Núi Liễu Sông Bằng, Lửa Hờn, Thiên Thần Trên Thiết Mã.
Sau suất diễn đầu tiên, báo chí kịch trường nhiệt liệt ngợi khen ba giọng ca trẻ với những lời quảng cáo dao to búa lớn như: Danh ca trẻ Út Hậu, truyền nhân đích thực của vua vọng cổ Út Trà Ôn; danh ca Út Hiền, giọng ca êm dịu như nhung như tơ; Quang Nhiều, lối ca với làn hơi sung mãn, nghệ thuật luyến láy tuyệt vời.
Bà bầu Thơ và ông bầu Nghĩa chưa kịp vui mừng, vì hai ông bà đã khám phá và giới thiệu với khán giả những giọng ca vàng, trong khi đoàn hát chưa kịp tập vở tuồng kế tiếp, cả ba nghệ sĩ trẻ Út Hiền, Út Hậu, Quang Nhiều thối lại hai chục ngàn tiền hợp đồng và bồi thường đúng theo giao kèo là trả thêm cho bà Bầu Thơ mỗi người hai chục ngàn đồng nữa. Chỉ mới một tháng mà bà Bầu Thơ lời được sáu chục ngàn; bà không ham nhưng muốn giữ lại các diễn viên đó thì bà phải trả cho Bầu Long, mỗi diễn viên một trăm hai chục ngàn đồng vì Bầu Long gánh hát Kim Chung đã ký cho họ, mỗi người sáu chục ngàn đồng.
Nghệ sĩ Út Hiền hát ở đoàn Kim Chung 1, hát thường trực tạp rạp Aristo ở đường Lê Lai. Nghệ sĩ Út Hậu và Quang Nhiều hát cho đoàn Kim Chung 2 ở rạp Olympic đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai.
Các ký giả kịch trường Saigòn giận Bầu Long mua đào bán kép trắng trợn, nên họ không viết bài phê bình tuồng tích và đào kép của hai gánh hát Kim Chung. Do đó các nghệ sĩ cộng tác với đoàn hát Kim Chung trong thời gian nầy chịu nhiều thiệt thòi, vì không được quảng bá nhiều trên các trang kịch trường. Chỉ biết qua sân khấu Kim Chung, nghệ sĩ Út Hiền vẫn hát vai kép nhì, sau kép Thanh Hải, nhưng Út Hiền và Thanh Hải, Út Hậu được hãng dĩa Hoành Sơn của ông Ba Bản mời thu thanh nhiều bài vọng cổ do soạn giả Thu An sáng tác. Nhờ vậy mà giọng ca của Út Hiền, Thanh Hải, Út Hậu được rèn luyện thêm và được thính giả ái mộ.
Năm 1963, nghệ sĩ Út Hiền rời đoàn Kim Chung, cộng tác với đoàn hát Thủ Đô của bầu Ba Bản. Nhưng ở đoàn Thủ Đô lúc đó có hai danh ca Út Trà Ôn và Thanh Hải nên Út Hiền cũng chỉ nổi danh được trong địa hạt đĩa nhựa chớ về sân khấu, vì còn nhỏ, chưa có kinh nghiệm diễn xuất, dù giọng ca của Út Hiền đã được rất nhiều khán giả và ký giả ái mộ.
Giọng ca
của Út Hiền nghe rất mùi, êm dịu, sâu lắng. Những chữ hò vô vọng cổ, Út Hiền ca
êm như tiếng ca vuốt nhuyễn cho thật nhỏ dần rồi mất hút trong không gian. Các
chữ ca cuối câu vọng cổ với hơi ngân dài mênh mang. Bài ca vọng cổ được Út Hiền
nghiên cứu kỹ, ca diễn đạt nội dung, gây cảm xúc cho người nghe. Soạn giả Thu
An biết rõ khả năng ăn khách của giọng ca Út Hiền nên khi anh rời đoàn hát Thủ
Đô, lập gánh hát Hương Mùa Thu với hai diễn viên chánh là Út Hiền và Ngọc
Hương.
Dưới bảng hiệu Hương Mùa Thu, hai nghệ sĩ Út Hiền và Ngọc Hương là một cặp diễn viên xứng đào xứng kép. Về sắc diện cả hai đều đẹp sắc xảo dưới ánh đèn sân khấu, về giọng ca thì đó là một sự hòa hợp kỳ diệu: giọng ca của Ngọc Hương cao vút, một thứ giọng kim sang trọng, giọng ca của Út Hiền, giọng thổ, vừa êm dịu vừa trầm buồn sâu lắng. Khi xem đoàn hát Hương Mùa Thu, khán giả có thể bị mê hoặc vì hai giọng ca của Út Hiền và Ngọc Hương trên sân khấu.
Út Hiền đã trình diễn qua các tuồng Tiếng Nhạc Rừng Xanh, Ảo Ảnh Châu Bích Lệ, Cô Gái Sông Đà, Người Anh Khác Mẹ, Con Cò Trắng, Gánh Cỏ Sông Hàn, Chuyến Đò Thương, Saigòn Thác Bạc, Tiếng Còi Sa Mạc…
Đoàn hát Hương Mùa Thu thành lập từ năm 1964 đến năm 1975 mới tạm ngưng hát. Trong thời gian này có rất nhiều nghệ sĩ cộng tác với đoàn Hương Mùa Thu như Thanh Hải, Út Hiền, Minh Chí, Hà Bửu Tân, Hà Bửu Bửu, Hiếu Liêm, Thanh Liêm, Giang Châu, Minh Dịch, Hữu Lợi, các nữ diễn viên Ngọc Hương, Ngọc Lan, Kim Thủy, Ngọc Thủy, Kiều Lệ Thanh, Yến Nhung. Lệ Châu, hề Bảy Xê, hề Tẩu Tẩu, hề Minh. Chỉ có cặp đào kép chánh Út Hiền và Ngọc Hương chống đở cho bảng hiệu Hương Mùa Thu lâu nhất.
Tiếc vì đoàn Hương Mùa Thu chuyên đi lưu diễn ở các tỉnh miền Trung, có năm có đến 8 tháng hát ở miền Trung và nhiều tháng hát ở các tỉnh Hậu Giang, nên nghệ sĩ Hương Mùa Thu ít được các ký giả kịch trường giới thiệu cho khán thính giả biết, về tài năng của các diễn viên Hương Mùa Thu.
Cuộc sống của nghệ sĩ Út Hiền đúng như cái tên Hiền đã được gán cho anh, anh không gây nên tai tiếng gì, không cờ bạc, không hút xách, không trai gái đĩ bợm, chỉ có mỗi cái tật là nhậu rượu không bao giờ biết ngừng. Lúc mới đầu vì đi hát ở miền Trung, xa nhà, thỉnh thoảng Út Hiền uống rượu giải khuây, nhưng đụng cuộc tiệc, bạn bè nâng ly, anh từ chối thì người ta nói khích, nào là “ Chơi như vậy, thì chơi với ai?” hay “Uống rượu chút đỉnh, sợ mất giọng ca sao?” Thêm nữa tánh của Út Hiền hay chiều bạn, nên khi đã uống rượu thì anh uống cho tới mút chỉ.
Chỉ có
ông bầu Thu An can thiệp thì tiệc nhậu mới dứt được. Mà ông bầu Thu An thì đâu
có thể luôn luôn ở gần các bạn nhậu để canh chừng hoài. Những khi đoàn hát di
chuyển đến địa điểm mới, chưa kịp treo màn hát thì đã có một chầu nhậu tưng bừng
hoa lá và nghệ sĩ Út Hiền sẵn sàng nằm đo ván ngay trên bàn nhậu.
Sau năm 1975, Út Hiền hát với Phượng Liên tuồng Lục Vân Tiên trên sân khấu nhà hát Trần Hữu Trang năm 1980. Lúc đó giọng ca của Út Hiền hết trong, hết êm dịu như thuở nào, tuy về kỹ thuật ca vẫn còn phong độ của một kép hát chánh tài danh.
Út Hiền bị bịnh ung thư gan, hậu quả của những trận nhậu, không biết dừng lại trong thời niên thiếu. Út Hiền nằm điều trị tại bệnh viện Nguyễn Trải, Chợ Lớn. Anh mất ngày 16 tháng 6 năm 1986, nhằm ngày 10 tháng 5 năm Bính Dần, hưởng dương 47 tuổi, an táng tại nghĩa trang nghệ sĩ Gò Vấp.
Út Hậu
Nghệ sĩ Út Hậu tên thật là Trần Quang Hậu, sanh năm 1940 tại Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long. Lúc 7 tuổi, Hậu được cha mẹ cho đi tu tại chùa Thiên Phước ở Trà Ôn. Khi đọc kinh kệ, Hậu có giọng trong trẻo khiến nhạc sĩ Mười Kiên ở Trà Ôn mỗi lần đi cúng kiếng ở chùa Thiên Phước để ý, dạy cho Hậu ca cổ.
Từ đó, chú tiểu Hậu thường được giới thiệu ca vọng cổ ở chùa trong những dịp có nghệ sĩ của các đoàn hát đến cúng kiếng và lên sân khấu trong các chương trình gây quỹ từ thiện. Ông Mười Kiên thấy tiểu Hậu ca hay, nếu theo gánh hát thì sẽ trở thành người có tài. Bởi vậy ông nói với nhà sư rồi dẫn Hậu lên Saigon, giới thiệu với nghệ sĩ Út Trà Ôn là chủ đoàn hát Kim Thanh và cũng là người cùng quê ở Trà Ôn. Út Trà Ôn bèn đặt nghệ danh cho tiểu Hậu là Út Hậu.
Năm 1957, được 17 tuổi, Út Hậu rời đoàn Kim Thanh, gia nhập đoàn Thanh Minh của ông bầu Nghĩa, nổi danh qua vai Phù Đổng Thiên Vương trong vở Thiên Thần Trên Thiết Mã của hai soạn giả Nguyễn Ang Ca và Viễn Châu. Tiếp theo, Út Hậu đóng chung với nữ nghệ sĩ Thanh Nga trong vở Phận Trẻ Lạc Loài của soạn giả Quy Sắc.
Năm sau, 18 tuổi, Út Hậu được ông bầu Bạch Vân mời về hợp tác, dựng bảng hiệu Mai Hoa – Út Hậu. Từ đó Út Hậu nổi danh qua các vở Nửa Mảnh Tim Côi và Mái Tóc Người Vợ Trẻ v.v… Các ký giả kịch trường hết lời khen ngợi giọng ca của Út Hậu và dự đoán anh sẽ là người nối ngôi “vua vọng cổ” của Út Trà Ôn.
Hai năm sau, đoàn Mai Hoa – Út Hậu rã gánh, Út Hậu trở về đoàn Thống Nhứt của Út Trà Ôn. Nơi đây, Út Hậu gặp cô đào chánh Diệu Hiền. Hai người chung sống với nhau thành một cặp vợ chồng hạnh phúc, tiền bạc làm ra như nước nhưng không có cưới hỏi. Họ sanh được 5 người con, 2 trai, 3 gái. Ít lâu sau, Út Hậu bỏ đoàn Thống Nhứt của ông thầy Út Trà Ôn, gia nhập đoàn Kim Chung “Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt” của ông bầu Long.
Út Hậu được ông bầu Long trọng dụng, cho nắm đoàn cải lương Kim Chung B, chuyên đi lưu diễn các tỉnh miền Trung, do đó anh và Diệu Hiền xa nhau. Theo lời kể của Diệu Hiền thì chú tiểu Hậu khi trở thành danh ca Út Hậu sống rất bay bướm, chạy theo nhiều bóng hồng và phụ rẩy vợ con.
Có lần, hai vợ chồng gây gổ nhau, mẹ của Út Hậu rầy la: “Vợ gì mà không biết nhường nhịn chồng”. Út Hậu nói: “Ai cưới hỏi hồi nào mà kêu là vợ”. Chính quan niệm “không có cưới hỏi” đó đã đưa đến sự tan vỡ giữa Diệu Hiền và Út Hậu.
Sau năm 1975, “Đại công ty” Kim Chung không còn nữa, gia đình ông bà bầu Long đã sang Pháp. Út Hậu lang thang ngoài Trung, lập đoàn Tân Đô – Út Hậu. Bị rã gánh, anh gia nhập các đoàn Sông Hàn, Hoa Biển là những đoàn hát miền Trung nhưng đoàn nào lúc ấy cũng rất khó sống.
Ngày 10 tháng 12 năm 1999, Út Hậu bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người bên trái, phải nằm điều trị tại Bệnh viện Phú Yên.
Nhờ có cô con gái là Diệu Thanh ra Phú Yên đưa về điều trị và sống tại Viện Dưỡng lão nghệ sĩ ở quận 8, Sàigòn. Út Hậu đã trút hơi thở cuối cùng ở Viện Dưỡng Lão Nghệ Sĩ vào ngày 21 tháng 3 năm 2001, hưởng thọ 61 tuổi.
Ngày Út Hậu sắp từ trần, nữ nghệ sĩ Diệu Hiền và các nghệ sĩ như Thanh Tuấn, Thanh Phú, Quốc Trầm, Hề Sa v.v… đều có đến thăm. Diệu Hiền uống một chung rượu rồi ca bài Tần Quỳnh Khóc Bạn để tiễn đưa người chồng vừa thương vừa hận của mình sang bên kia thế giới.
Tấn Tài
Nghệ sĩ Tấn Tài tên thật là Lê Tấn Tài, sanh năm 1940, quê ở xã Vĩnh Trạch, huyện Núi Sập, tỉnh Long Xuyên. Cha là ông Lê Thành Tâm, Mẹ là bà Nguyễn Thị Đang, hành nghề thương mãi. Trong gia đình không có người nào theo nghiệp cầm ca.
Tấn Tài thi đậu Trung Học đệ nhất cấp ở Long Xuyên, anh làm giáo chức dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu, tỉnh An Giang. Phong trào đờn ca tài tử ở miền Hậu Giang rất là rầm rộ, thấy giáo làng Tấn Tài bị cuốn hút theo phong trào, anh đi học ca vọng cổ và cổ nhạc với hai nhạc sĩ ở địa phương là Hai Tỉnh và Út Thôi.
Tấn Tài có một giọng ca truyền cảm, anh biết cách diễn đạt nội dung bài ca nên tạo được một lối ca riêng có khả năng thu hút khán, thính giả nên anh mau chóng nổi danh ở địa phương. Các đoàn hát nhỏ về hát ở xã Vĩnh Trạch thường có tiết mục ca vọng cổ ngoài màn trước khi chánh thức hát vở tuồng đêm đó.
Đầu năm 1959, đoàn cải lương Bướm Vàng của ông Bầu Văn Thà đến xã Vĩnh Trạch hát, theo lệ hát vọng cổ ngoài màn, đoàn hát đã mời Ban ca nhạc tài tử của xã tham dự. Tấn Tài lên ca, được khán giả nhiệt liệt vổ tay khen thưởng đồng thời được mời hát nhiều lần. Giọng ca và phong cách biểu diễn của Tấn Tài được khán giả đánh gíá là hay hơn anh kép chánh của đoàn hát.
Bầu Văn Thà thấy Tấn Tài có giọng tốt, ca hay, được khán giả ái mộ nên ông bảo con gái của ông là cô đào Thanh Lệ o bế quyến rũ Tấn Tài. Ông muốn đào luyện Tấn Tài trở thành kép chánh và sẽ làm rể của ông để Tấn Tài giúp ông nắm vững và phát triển đoàn hát.
Nhưng khi đoàn Bướm Vàng hát ở Chợ Bà - Cái Vồn, mẹ anh đến đoàn hát bắt anh trở về nhà, nhưng Tấn Tài thề quyết theo nghiệp cầm ca, nếu không thành danh thành tài, quyết không trở về quê hương xứ sở.
Cha mẹ của Tấn Tài đành chìu theo ý nguyện của con nhưng thời vận của Tấn Tài chưa thông nên chỉ sáu tháng sau, đoàn hát Bướm Vàng tan rã, cô đào Thanh Lệ bỏ đi đâu mất. Tấn Tài không dám trở về quê, anh tá túc nơi nhà của một người ái mộ anh tên Hiền ở Mươn Điều, Cao Lãnh, cuốc đất trồng khoai, sống tạm qua ngày.
Thời gian này Tấn Tài được anh Hiền giới thiệu đi đờn ca tài tử ở các xã lân cận, nhiều cô gái quê mê giọng ca của anh giáo làng thất cơ lỡ vận này, nhưng Tấn Tài chỉ đáp lại mối tình thắm thiết của cô Năm Đủ, giáo viên trường Tiểu học xã Mỹ Hiệp.
Không ngờ là ông Xã Trưởng Mỹ Hiệp muốn cưới cô Năm Đủ nhưng cô không ưng thuận mà chí quyết chỉ yêu Tấn Tài thôi. Ông Xã Trưởng chụp mũ Tấn Tài là Cộng Sản nằm vùng, ông đem lính tới bao vây rạp hát tìm bắt Tấn Tài, anh phải trốn trong ao nước sau đình, núp dưới dề lục bình. Bọn lính và ông Xã trưởng bắn vài loạt đạn xuống ao, may mà không trúng Tấn Tài. Đêm đó, sợ quá, anh trốn qua Sadec, anh Hiền cũng bỏ nhà trốn theo anh.
Đoàn cải lương Hữu Tâm của ông Bầu Ba Khuê hát tại rạp Sadec, Tấn Tài và anh Hiền đến xin gia nhập nhưng soạn giả Tứ Lang sau khi nghe thử giọng ca của Tấn Tài, bèn dẫn Tấn Tài đi gia nhập gánh nhát Tân Hương Hoa của Bầu Sinh vì anh nói theo đoàn Tân Hương Hoa có tương lai hơn là theo đoàn Hữu Tâm. Trước khi đi Bãi Sào gia nhập đoàn hát Tân Hương Hoa, Tấn Tài viết thư về cho cô Năm Đủ, hẹn khi ổn định công ăn việc làm, sẽ rước cô về chung sống.
Trong nghề hát, có giọng ca tốt cũng phải cần có dịp may thì mới mau phất lên được. Tấn Tài gia nhập đoàn Tân Hương Hoa, gặp dịp may là kép chánh Hoàng Sương nghĩ đoàn để qua hát cho đoàn Thúy Nga, Bầu Sinh liền giao Tấn Tài cho kép Nam Hùng huấn luyện cấp tốc để thế vai của Hoàng Sương.
Tấn Tài có giọng ca lạ, hấp dẫn, học tuồng mau thuộc nên lầu đầu tiên mới bước ra sân khấu hát, Tấn Tài được khán giả tán thưởng và được Bầu Sinh nâng lên thành kép chánh của đoàn, có lương cao và được ký contrat sáu chục ngàn đồng, hát hai năm cho đoàn Tân Hương Hoa. Cô Năm Đủ là người vợ đầu tiên của Tấn Tài. Hai người chung sống, có được một đứa con gái tên là Lê Thị Thanh Hà, hiện nay là chủ một garage sửa xe hơi ở vùng Phú Thọ.
Ở đoàn Tân Hương Hoa, Tấn Tài thủ vai chánh trong các tuồng Hắc Y Nữ Hiệp, Tiếng Ai Khóc Trên Đồi, Hoàng Tử Song Sanh, Hoa Tình trong Gió Lốc, Nam Du Huê Quang.
Năm 1961, ông Bầu Thành đoàn Song Kiều ký với Tấn Tài một conbtrat 100.000 đồng để anh về hát cho đoàn Song Kiều. Tấn Tài thối lại cho bầu Sinh Tân Hương Hoa 60.000 đồng vì hát chưa hết thời hạn contrat. Còn 40.000 đồng anh chia làm đôi, gởi hết số tiền đó về cho cha mẹ của anh và cha mẹ vợ anh.
Báo chí kịch trường đăng nhiều bài báo khen
Tấn Tài là con có hiếu vì thời đó nhiều nghệ sĩ ký tiền contrat cao thường lo
sắm xe hơi, mua hột xoàng thay vì giúp đở cho cha mê già.
Ở đoàn Song Kiều, Tấn Tài hát các tuồng Tâm Tình Mỵ Vương Phi, Nắng Chiều Quê Ngoại, Nắng lên Cổ Tháp.
Năm 1962, Tấn Tài cộng tác với đoàn hát Thủ Đô của ông bầu Ba Bản, được nghệ sĩ Ba Vân hướng dẩn, Tấn Tài thành công trong vai Điệp Nhứt Lang trong tuồng Cát Dung Phương Tử của soạn giả Thiếu Linh, anh đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm năm 1963 nhờ vai tuồng nầy.
Chỉ sau bốn năm theo nghề hát, Tấn Tài đoạt được giải nghệ thuật cao qúy mà các nam nữ diễn viên cải lương đồng thời đều mơ ước.
Đêm phát giải Thanh Tâm được tổ chức tại rạp Quốc Thanh, Tấn Tài thủ vai Hoàng Hoa Lử, diễn chung với Bạch Tuyết trong vai Chu Cẩm Luyện trong vở Khói Sóng Tiêu Tương của Hoa Phượng và Nhị KIều.
Cha Mẹ của Tấn Tài và cha mẹ vợ của anh được mời ngồi hàng ghế danh dự. Bà con ở xã Vĩnh Trạch và đặc biệt hai ông thầy dạy ca Hai Tỉnh và Út Thôi cũng đến Saigon xem đêm hát nhận huy chương vàng của ông thầy giáo làng kiêm nghệ sĩ Tấn Tài.
Sau đêm hát nhận huy chương vàng, Tấn Tài được ký contrat thêm 150.000 đồng và được nghĩ 5 ngày để cùng cha mẹ và bà con xã Vĩnh Trạch về quê. Tại xóm cũ, Tấn Tài vật bò, mổ heo, làm thịt gà tổ chức tiệc khoản đải chánh quyền xã và tất cả bà con láng giềng nào đến chia vui với gia đình anh.
Tấn Tài hát các vai chánh trên sân khấu Thủ Đô, tuồng : Tình Người Tử Tội, Bóng Người Bên Song Cửa, Nhạc Nữ Qúy Xuyên, Cây Quạt Lụa Hồng, Khi Mặt Trời Lên, Năm Xưa Nàng Lổi Hẹn, Cát Dung Phương Tử.
Tấn Tài thu dĩa vọng cổ cho hãng dĩa Hoành Sơn của ông Ba Bản các bài nổi tiếng như Ai lên xứ hoa đào, Dưới rặng Ô môi, Đà lạt mưa rơi, Kiều Phong A tỷ. Dương Quý Phi, Mùa Thu Lá Bay…
Năm 1964, Tấn Tài và Bạch Tuyết là đôi diễn viên chánh của đoàn hát Dạ Lý Hương của Bầu Xuân. Tấn Tài có những vai hát để đời trong các tuồng Cô Gái Đồ Long, Anh Hùng Xạ Điêu, Tiếng Vọng Ba Đèo, Võ Tòng Sát Tẩu, Sương Mù Trên Non Cao, Thần Anh Cô…
Khi hát cho đoàn Dạ Lý Hương, Tấn Tài hết bị
ràng buộc với ông bầu Ba Bản và hãng dĩa Hoành Sơn nên anh ca thu dĩa cho nhiều
hãng dĩa Việt Nam của cô Sáu Liên, hãng dĩa Hồng Hoa, tức Asia cũ, hãng
Continental của ông Đông, hãng dĩa Việt Hải của ông Tứ Hải… các bài vọng cổ
được khách mộ điệu ưa chuộng như: Hàn Mạc
Tử, Hạng Võ Biệt Ngu Cơ, Thương miền đất đỏ, Tâm sự anh gù, Qua đò Mỹ Thuận… và
Tấn Tài nổi danh Hoàng Đế dĩa nhựa.
Năm 1966 đến năm 1969, Tấn Tài là diễn viên chánh đoàn Kim Chung 5, hát chung với Mỹ Châu, rồi Lệ Thủy các vở tuồng : Bức họa da người, Băng Tuyền nữ chúa, Tâm Sự loài chim biển, Đường Minh Hoàng, Đào Hoa Khách, Tuyệt tình nương, Hồng y nữ hiệp…
Năm 1968, vào Têt Mậu Thân, Tấn Tài theo đoàn Kim Chung 5 lưu diễn miền Trung, hát ở đảo Lý Sơn, cù lao Ré, Quảng Ngãi, trong khi đó ở Saigon vợ anh, cô Năm Đủ mất, không hiểu vì nạn nhân chiến cuộc hay vì bạo bịnh. Gia đình và Ban giám đốc Kim Chung không biết đoàn Kim Chung 5 đang lưu diễn ở đâu thành ra không báo tin cho Tấn Tài được.
Mãi tới ba tháng sau, khi Kim Chung 5 về tới Nha Trang thì Tấn Tài mới biết tin vợ anh mất. Con gái của anh Lê Thị Thanh Hà được ông bà nội đem về nuôi dưỡng và cho đi ăn học ở Saigon.
Năm 1969, Tấn Tài lập gánh hát mang bảng hiệu Tân Thủ Đô - Tấn Tài, anh cưới người vợ thứ hai là nữ nghệ sĩ đệ nhất đào lẵng Như Ngọc, có hai trai tên Lê Tấn Danh tức hề Tấn Beo và Lê Tấn Phúc tức hề Tấn Bo.
Sau năm 1975, Tấn Tài giao gánh hát lại cho tỉnh Hậu Giang, anh mở quán có ca nhạc, rồi đi hát cho đoàn hát Sông Hậu của nhà nước. Anh đi hát từng show khi có yêu cầu. Nữ nghệ sĩ Như Ngọc mất năm 2002 vì tai biến mạch máu nảo.
Hai con trai của anh là Tấn Beo và Tấn Bo
không phải danh ca vọng cổ, họ chọn nghề chọc cười thiên hạ nên nổi danh hề Tấn
Beo và Tấn Bo.
Nghệ sĩ Tấn
Tài mất ngày 27 tháng 1
năm 2011 vì nhiễm trùng đường ống mật. Thọ 71 tuổi.
Diệp Lang
Nghệ sĩ tên thật là Dương Công Thuấn, sinh ngày 4 tháng 3 năm 1941, tại Bình Tiên, Thị xã Sa Đéc, Tỉnh Đồng Tháp. Lên 8 tuổi, ông đã theo cha là thầy đàn Ba Diệp đi theo đoàn Cải lương Tam Phụng. Nhưng cha của ông không muốn ông nối nghiệp đàn, vì người đàn chỉ ngồi sau cánh gà sân khấu, nên ông đã tìm thầy dạy hát cho Diệp Lang và cho ông học đóng những vai phụ.
Vào khoảng đầu thập niên 1950, trong một đêm diễn vở "Lấp sông Gianh" tại rạp hát Nguyễn Văn Hảo (nay là rạp Công Nhân) trên đường Trần Hưng Đạo, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, đoàn cải lương Kim Thoa bị ném lựu đạn, có hai người trong đoàn thiệt mạng, cha con ông may mắn thoát chết. Nhưng chẳng được bao lâu sau đó, ông Ba Diệp bị bệnh nặng, phải bỏ đoàn về quê và mất tại đây.
Chịu tang cha một thời gian thì ông tiếp tục lên Sài Gòn theo đuổi nghề hát. Năm 12 tuổi, Diệp Lang bước lên sân khấu trong vở Lấp sống Gianh của Đoàn Cải lương Kim Thoa, rồi sau đó là Việt Hùng – Minh Chí, đến Phụng Hảo – Ba Vân..., nhưng đó cũng chỉ là những vai phụ, đến khi được soạn giả kiêm ông bầu Nguyễn Huỳnh (cũng là bạn của cha ông) đưa về đoàn Hoài Dung - Hoài Mỹ (Long An), ông mới được giao vai chính: hoàng tử trong vở "Chiếc nhẫn kim cương". Nghệ danh Diệp Lang (tức là con của Ba Diệp - cha ông) do soạn giả Nguyễn Huỳnh gọi ông khi ông bắt đầu được đóng vai chính ở đoàn cải lương Hoài Dung – Hoài Mỹ.
Năm 1962, Ông gia nhập đoàn Kim Chưởng, Diệp Lang được soạn giả Thu An giao cho đóng vai ông già 70 tuổi (người cha trong vở Người Anh khác mẹ). Đó là vai diễn ghi dấu ấn trong cuộc đời nghệ thuật của ông với Giải thưởng Thanh Tâm năm 1963 .
Trong thời kỳ này, ông đã đóng một số vở và rất thành công như: Trung sĩ Tám trong Tìm lại cuộc đời, Hội đồng Dư trong Tiếng hò sông Hậu, Hội đồng Thăng trong Đời cô Lựu, Lê Quý trong Tâm sự Ngọc Hân, Lê Xuân Giác trong Tiếng sóng Rạch Gầm, Ông nội trong Cây lẻ bạn, Ông Hai trong Đàn ca tri kỷ.
Năm 1965, ông bị triệu tập đi nhập ngũ theo lệnh của Nha Quân dịch thuộc Việt Nam Cộng hòa.
Ông lập gia đình với bà Thu Phong, hai ông bà có người con gái là Thanh Tuyền mở tiệm nail rất đắt khách, một người con trai của ông thì nối nghiệp cha.
Sau năm 1975, ông gia nhập đoàn Cải lương tập
thể Sài Gòn II. Đoàn của ông lưu diễn khắp nơi, kể cả những vùng chiến sự như: Phnôm Pênh, Xiêm Riệp, Mặt trận 479... Ông
được tín nhiệm bầu làm Trưởng đoàn 284. Vừa tham gia công tác quản lí, vừa làm
nghệ thuật, nhưng chỉ một thời gian sau đó ông xin nghỉ làm quản lý và trở về
nghiệp hát do áp lực công việc và bệnh tật. Đây cũng là thời gian gia đình ông
gặp khó khăn nhiều nhất.
Ngoài ra, ông còn được chọn đi biểu diễn ở nước ngoài: năm 1984 tại Tây Âu, năm 1986 mặt trận 479 ở Xiêm – Rệp, năm 1997 tại Pháp và năm 1998 tại Úc. Ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1993, Nghệ sĩ Nhân dân năm 2003. Diệp Lang bắt đầu thôi đi hát. Hiện tại, ông chỉ còn tham gia đóng các vai diễn nhỏ trên sân khấu.
Ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1993, Nghệ sĩ Nhân dân năm 2003 và các giải thưởng sự nghiệp như: huy chương vàng Giải Thanh Tâm năm 1963, bằng danh dự giải Thanh Tâm năm 1964, huy chương vàng và giải Mai Vàng năm 2000, huy chương Vì sự nghiệp sân khấu năm 2000, giải Mai Vàng năm 2001...
Năm 2010,
Diệp Lang được con bảo lãnh sang Mỹ, định cư tại thành phố San Diego, bang
California để sống cùng gia đình của con gái.
Ở tuổi già, bên cạnh căn bệnh tim tiêu tốn không ít chi phí để chữa trị, cách đây 2 năm, Diệp Lang lại phát hiện mình mắc thêm bệnh Parkinson khiến tay ông run lẩy bẩy.
Live show kỷ niệm sinh nhật lần thứ 72 của nghệ sĩ Hồng Nga được tổ chức tại quận Cam, miền Nam tiểu bang California, vào ngày 21-4-2017, NSND Diệp Lang đã tái ngộ khán giả sau nhiều năm rời xa sân khấu với lý do sức khỏe. Ông đã từ San Diago đến quận Cam để tập tuồng và biểu diễn vai ông Hương Cả trong trích đoạn Tô Ánh Nguyệt.
Giọng ca và hơi của Diệp Lang không được phong phú. Thế nhưng, không phải gì thế mà ông ca không hay. Điểm mạnh nhất của Diệp Lang là ông biết diễn xuất bằng cả giọng ca, ông đưa giọng ca vào đúng với tâm trạng nhân vật, đúng với động tác biểu diễn. Nói cách khác là Diệp Lang đã đạt đến trình độ “ca trong diễn, diễn trong ca”, ca diễn phụ trợ lẫn nhau để thể hiện tính cách nhân vật.
Thanh Nga
Nghệ sĩ Thanh Nga tên thật là Juliette Nguyễn Thị Nga, sinh ngày 31 tháng 7 năm 1942, tại Tây Ninh. Thanh Nga sinh ra trong gia đình quyền quý, con ông Hội đồng Quản hạt tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn Lợi và bà Nguyễn Thị Thơ. Ông Lợi nhập quốc tịch Pháp nên các con đều mang tên Pháp và cả ba đều là nghệ sĩ. Người con cả là Albert Nguyễn Hữu Thìn, tức diễn viên Hữu Thìn của đoàn Thanh Minh Thanh Nga. Người em út là Michel Nguyễn, tác giả một tuồng cải lương duy nhất tựa là “Người đi trong ngõ tối”, từ trần năm 1970. Thanh Nga là một Phật tử, có pháp danh Diệu Minh.
Ông Lợi mất năm 1945, bà Thơ còn trẻ, có nhan sắc, được nhiều người theo đuổi nhưng vẫn sống khép kín. Đến năm 1949, Năm Nghĩa thành hôn với bà Thơ. Họ đã thành lập đoàn hát Thanh Minh. Nghệ sĩ Năm Nghĩa bầu gánh Thanh Minh trở thành cha dượng của Thanh Nga.
Diễn xuất tuồng cải lương, Thanh Nga có những vai diễn nổi bật của Thanh Nga như: Bàng Lộng Ngọc trong vở Khói sóng tiêu tương, Bàng Quý Phi trong vở Xử án Bàng Quý Phi, Điêu Thuyền trong vở Phụng Nghi Đình, Dương Quý Phi trong vở Chuyện tình An Lộc Sơn, Diệu Thiện trong vở Ni cô Diệu Thiện, Diệp Thúy trong vở Đôi mắt người xưa, Dương Vân Nga trong vở Thái hậu Dương Vân Nga, Lượm trong vở Sông Dài, Kim Anh trong vở Đời cô Lựu, Mía trong vở Bọt biển, Nga trong vở Bông hồng cài áo, Nghi Xuân trong vở Phạm Công Cúc Hoa, Giáng Hương trong vở Sân khấu về khuya, Hoa Mộc Lan trong vở Hoa Mộc Lan tùng chinh, Hoàng hậu Mã Nhi Nương Bửu trong vở Gió ngược chiều, Hương trong vở Nửa đời hương phấn, Quỳnh Nga trong Bên cầu dệt lụa, Sơn nữ Phà Ca trong vở Người vợ không bao giờ cưới, Tuyết Vân (trong vở Nắng sớm mưa chiều, Thanh trong vở Tấm lòng của biển, Thảo trong vở Bông hồng cài áo, Trinh trong vở Con gái chị Hằng, Trưng Trắc trong vở Tiếng trống Mê Linh, Uyên trong vở Ngã rẽ tâm tình, Vân trong vở Ánh sáng và bóng tối, Xuân Tự trong vở Áo cưới trước cổng chùa, Xuyên Lan trong vở Tiếng hạc trong trăng.
Năm 1958, Thanh Nga đoạt Giải Thanh Tâm triển vọng vai sơn nữ Phà Ca, trong vở Người vợ không bao giờ cưới.
Đến năm 1966, Thanh Nga lại đoạt Giải Thanh Tâm xuất sắc vai Giáng Hương, trong vở Sân khấu về khuya.
Thanh Nga cũng tham gia nhiều bộ phim, đáng chú ý nhất là: Đôi mắt người xưa trong vai Diệp Thúy, Hai chuyến xe hoa, Loan mắt nhung trong vai Xuân năm 1970, Mùa thu cuối cùng năm 1971, Bụi Phấn Hồng, Vết thù trên lưng ngựa hoang năm 1971 Lan và Điệp, vai Lan năm 1971, Xa lộ không đèn vai Liễu năm 1972, Sau giờ giới nghiêm vai Nhàn năm 1972, Người cô đơn năm 1972, Nắng chiều năm1973, Triệu phú bất đắc dĩ năm 1973, Năm vua hề về làng năm 1974, Quái nữ Việt Quyền Đạo, Thương muộn, Tìm lại cuộc đời năm 1977
Thanh Nga kết hôn hai lần, lần đầu với ông Nguyễn Minh Mẫn, sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lần sau không chính thức với ông Phạm Duy Lân thường được gọi là Đổng Lân vì ông đã từng giữ chức Đổng Lý Văn phòng của Bộ Thông tin thời Đệ Nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa, ông là luật sư. Thanh Nga có một con trai với ông Lân là Phạm Duy Hà Linh, sinh năm 1973, nay là nghệ sĩ hài kịch Hà Linh.
Thanh Nga bị sát hại cùng chồng ngày 26 tháng 11 năm 1978 tại nhà ở đường Ngô Tùng Châu, quận Nhất, nay là đường Lê Thị Riêng Tp. HCM. được an táng tại nghĩa trang Chùa Nghệ sĩ. Thanh Nga được truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 1984.
Thanh Nga được xưng tụng là “Nữ hoàng sân khấu”, tài sắc vẹn toàn, nhưng phải chăng là hồng nhan mệnh bạc, đã để lại trong lòng người mộ điệu cải lương biết bao thương tiếc.
Ngọc Hương
Ngọc Hương tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Hương sinh năm 1942, tại Bến Tre.
Ngọc Hương sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật tuồng cổ. Ông bà nội là hai nghệ sĩ nổi danh của gánh hát bội Kiến Lương – Bến Tre vào thập niên 1920 – 1930. Cha của bà là ông Nguyễn Văn Hay tức nghệ nhân Hai Nhỏ, vừa là kép chính vừa là thầy tuồng của gánh hát bội Kiến Lương. Anh trai là nhạc sĩ Hoàng On, chị là nghệ sĩ Kim Giác, vợ của cố NSƯT Hoàng Giang, em là nghệ sĩ Ngọc Lan đào lẳng của Đoàn Hương Mùa Thu.
Thời thơ ấu, Ngọc Hương đã được anh là Hoàng On, dạy ca nhiều thể điệu, nhịp nhàng rất vững chắc. Tuy được sinh ra trong gia đình nghệ sĩ hát bội nhưng cha của bà đã thấy nghệ thuật hát bội dần dần không còn thu hút khán giả, hoàn cảnh gia đình khó khăn, hát bội thì biểu diễn theo mùa vụ, khi cúng kỳ yên đình, miếu… nên ông phải chuyển hướng cho con gái, để tử đó Ngọc Hương gắn bó với sàn diễn cải lương.
Lần đầu tiên bà lên sân khấu là năm 10 tuổi. Sau đó bà nhanh chóng trở thành đào chánh của đoàn đại bang Kim Chưởng.
Năm 1962, Ngọc Hương đoạt Huy chương vàng Triển vọng Thanh Tâm với vai Châu Bích Lệ trong vở Ảo ảnh Châu Bích Lệ, năm 1963 đoạt giải Danh dự Thanh Tâm , năm 1993 được phong tặng Nghệ sĩ ưu tú
Sau khi lấy chồng là soạn giả Thu An, hai ông bà đã lập ra gánh Hương Mùa Thu, một đại bang thời bấy giờ. Đến thập niên 1980 thì Hương Mùa Thu giải thể.
Sau khi soạn giả Thu An mất năm 2005, bà về sống với cô con dâu. Năm 2016, bà dời vào sống ở Viện dưỡng lão nghệ sĩ.
Tối ngày 30 tháng 11 năm 2017, nghệ sĩ Ngọc Hương qua đời qua căn bệnh ung thư gan ở Viện điều dưỡng quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.Thọ 75 tuổi.
Dũng Thanh Lâm
Nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm tên thật là Paul Robert Bùi Văn Tâm, mang hai dòng máu Việt - Pháp, sanh năm 1942, tại xã Linh Đông, quận Thủ Đức tỉnh Gia Định, là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, có tên thánh là Francisco.
Dũng Thanh Lâm học ở trường dòng Tabert Mossard ở Thủ Đức cho đến hết lớp 5, rồi được chuyễn về học ở trường Trung Học Tân Thanh ở Saigon.
Dũng Thanh Lâm mê cải lương từ nhỏ nên anh theo một người bạn để học đờn ca tài tử, anh có chất giọng tốt nên dễ thành công trong việc học ca vọng cổ và các bài bản cổ nhạc. Sau đó, anh được hai vợ chồng nghệ sĩ Hoàng Sương và Thu Vân dìu dắt vào học hát trong một đoàn hát cải lương ở tỉnh với nghệ danh là Minh Hùng. Hoàng Sương và Thu Vân chính là song thân của cô Thu Hồng, một nữ nghệ sị hữu danh hiện nay ở quận Cam Hoa Kỳ.
Năm 1964, ông Bầu Ba Bản ký hợp đồng mời Minh Hùng về hát cho đoàn cải lương Thủ Đô và ông Bầu Ba Bản đổi nghệ danh của Minh Hùng thành ra nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm.
Đây là một cơ hội tốt cho Dũng Thanh Lâm vì hai nghệ sĩ cột trụ của đoàn cải lương Thủ Đô là Út Trà Ôn và Hoàng Giang rời đoàn Thủ Đô để ra thành lập gánh hát Thống Nhứt., nên ông Bầu Ba Bản mời nghệ sĩ Tấn Tài và Dũng Thanh Lâm về thế vai của Út Trà Ôn và tăng cường thực lực đào kép bằng một dàn diễn viên trẻ.
Vở tuồng đầu tiên của Dũng Thanh Lâm hát trên sân khấu đoàn cải lương Thủ Đô là vở Bóng Hồng Sa Mạc của hai soạn giả Loan Thảo và Hoàng Việt, cùng thủ diễn có các nghệ sĩ Minh Phụng, Tấn Tài, Trương Ánh Loan, Kim Ngọc, Văn Hường.
Trên sân khấu đoàn hát Thủ Đô, Dũng Thanh Lâm còn hát thêm các tuồng: Chiếc Áo Ân Tình, Sầu Quan Ải, Hoa Đào Trên Kiếm Thép, Cây Quạt Lụa Hồng.
Cuối năm 1964, đoàn hát Thủ Đô Ba Bản rã gánh, nghệ sĩ Tấn Tài mua lại xác gánh hát Thủ Đô, cùng với vợ là nữ nghệ sĩ Như Ngọc lập ra gánh hát Thủ Đô - Tấn Tài. Dũng Thanh Lâm và nữ nghệ sĩ Trương Ánh Loan gia nhập đoàn hát Kim Chưởng - Thanh Hương của bà Bầu kiêm nghệ sĩ Kim Chưởng.
Ở đoàn cải lương Kim Chưởng, Dũng Thanh Lâm được hát vai kép chánh, đóng tuồng cặp với nữ nghệ sĩ Phượng Liên. Dưới bàn tay đào luyện của nữ nghệ sĩ bậc thầy Kim Chưởng, Dũng Thanh Lâm và Phượng Liên là đôi nghệ sĩ "Thinh, Sắc Lưởng Toàn", đã chinh phục được cảm tình của đông đảo khán giả. Dũng Thanh Lâm nỗi tiếng là một kiếm sĩ đẹp trai trong các tuồng Quỷ Bão, Người Gọi Đò Trên Sông của soạn giả Mộc Linh và vở Thượng Phương Bảo Kiếm của soạn giả Viễn Hùng.
Năm 1967, nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm về cộng tác với đoàn cải lương Dạ Lý Hương của ông Bầu Xuân. Vở hát đầu tiên của Dũng Thanh Lâm trên sân khấu Dạ Lý Hương là vở Kẻ Sợ Tình của soạn giả Nguyễn Phương và Thiếu Linh, hát chung với Hùng Cường, Bạch Tuyết, Hữu Phước, Phượng Liên, Dũng Thanh Lâm và Kim Ngọc. Hề có Thanh Việt , Tư Rọm và Văn Chung.
Về nghệ thuật ca diễn, Dũng Thanh Lâm có một làn hơi ca tươi mát, êm dịu như lối ca của nghệ sĩ Hữu Phước nhưng hơi kém hơn Hữu Phước về nghệ thuật sắp chữ ca, về cách nhồi chữ, cách luyến láy, cách chuốt mõng lời ca.
Bù lại sự thiếu sót đó, nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm đẹp trai, phong cách diễn xuất mang dáng dấp của những người trong tầng lớp cao sang quyền quý, vì vậy Dũng Thanh Lâm được rất nhiều nữ khán giả ái mộ. Thời gian hát ở đoàn cải lương Dạ Lý Hương, Dũng Thanh Lâm nỗi tiếng trong các tuồng Anh Hùng Xạ Điêu, Tiền Rừng Bạc Biển, Lệnh Của Bà, Người Dừng Chân Đêm Mưa, Vạn Lý Trường Thành, Con Ma Nhà Họ Hứa, Gái Điếm Vợ Hiền, Đời Là Một Chữ T. . .
Năm 1969 - 1970, Dũng Thanh Lâm gia nhập đoàn hát Hùng Cường - Bạch Tuyết, hát các vở Trăng Thề Vườn Thúy, Tuổi Hồng Cho Em, Cánh Hoa Chùm Gởi. Sau đó Dũng Thanh Lâm về hát cho đoàn hát Tiếng Hát Dân Tộc của bà Bầu Tiêu Thị Mai.
Sau tháng 4 năm 1975, Dũng Thanh Lâm có quốc tịch Pháp nên anh đăng ký hồi hương trở về Pháp. Đến năm 1977, Dũng Thanh Lâm về Pháp, được định cư ở Marseilles. Dũng Thanh Lâm và các nghệ sĩ cải lương cư ngụ tại Paris như Hữu Phước, Hương Lan, Chí Tâm, Hương Thanh, Hoàng Long, Kiều Lệ Mai, Minh Đức, Hà Mỹ Liên, Phương Thanh, Thành Được . .. diễn lại các vở tuồng cải lương cũ trước năm 1975 như Mưa Rừng, Đôi Mắt Người Xưa, Đi Biển Một Mình, Cho Trọn Cuộc Tình. . .
Những vở cải lương Dũng Thanh Lâm đã diễn: Tướng cướp Bạch Hải Đường trong vai tên ghiền Hai Cang, người tình của Nhung là vợ của Minh tên tướng cướp, Tâm sự loài chim biển vai tướng cướp Thạch Vũ, Chiêu Quân Cống Hồ, Sầu Quan ải, Hoa đào trên kiếm thép, Cây quạt lụa hồng,Chiếc áo ân tình, Nữ hoàng về đêm,Trăng thề vườn thúy, Tuổi hồng cho em, Cánh hoa chùm gởi
Soạn giả Nguyễn Phương đã viết về Dũng Thanh Lâm: Dũng Thanh Lâm trong cuộc sống nghệ thuật, anh là một người biết tôn sư trọng đạo, sống có tình có nghĩa với các bạn đồng nghiệp trang lứa và lúc nào anh cũng sẳn sàng góp phần làm việc từ thiện mỗi khi có tổ chức hát hội, lạc quyên giúp đở đồng bào các nơi bị thiên tai bão lụt.
Đầu năm 2001, Dũng Thanh
Lâm đã trải qua một ca phẫu thuật ghép gan. Năm 2002, lại ghép lá gan khác. Năm
2004, bệnh gan tái phát, nhưng không thể ghép gan nữa, nên nghệ sĩ Dũng Tham Lâm đã từ trần lúc 01 giờ
15 trưa ngày 26 tháng 11 năm 2004. Thọ 62 tuổi.
Phương Quang – Tô Văn Quang (1942-20
.. )
Nghệ sĩ Phương Quang tên thật là Tô Văn Quang, sinh năm 1942 tại Dĩ An, Bình Dương, gia đình sống bằng nghề nông.
Ngay thời niên thiếu, Phương Quang đã yêu thích cải lương, mỗi khi gánh hát về Dĩ An, Phương Quang thường hay đến rạp để xem hình nghệ sĩ và nghe ca vọng cổ qua loa phóng thanh quảng cáo mỗi chiều.
Có lần, Phương Quang gặp nghệ sĩ Út Trà Ôn đi xe hơi đến rạp. Đó là lần đầu Phương Quang nhìn thấy thần tượng của mình và ước mơ được trở thành nghệ sĩ như ông. Phương Quang tìm nghe những bài ca cổ của nghệ sĩ Út Trà Ôn để học ca theo. Chất giọng của Phương Quang thiên bẩm nên rất giống Út Trà Ôn, thật ra sự bắt chước chỉ là một phần nhỏ, nói đúng hơn là ảnh hưởng từ cách ngâm, luyến và bộ nhịp cùng cách sắp câu.
Năm 1960, Phương Quang lên Sài Gòn tìm nhạc sĩ Văn Còn, người cùng quê và là bà con dòng họ ở Phú Nhuận. Phương Quang theo nhạc sĩ Văn Còn một thời gian để phụ xách đờn cho ông, lúc ông đờn cho gánh hát Thanh Minh. Mỗi tối, Phương Quang được ngồi dưới dàn đờn, coi các vở như Nửa đời hương phấn, Con gái chị Hằng... Từ lúc này, Phương Quang càng mê cải lương hơn nữa và cứ mỗi lần xem hát lại ca theo đào kép. Phương Quang theo làm đệ tử nhạc sĩ Văn Còn, nhưng được xách đờn nhiều hơn là học ca, nên thời gian khá lâu mà nhịp nhàng chưa vững.
Một hôm, Phương Quang ca bài vọng cổ Tình hận thâm cung, bài nổi tiếng mà Út Trà Ôn hát lúc bấy giờ. Nhạc sĩ Văn Còn không khỏi ngạc nhiên vì cách ca và làn hơi của Phương Quang giống Út Trà Ôn... Với kinh nghiệm của một nhạc sĩ tuổi nghề cao, Văn Còn cho biết đây là một giọng ca mang âm hưởng của Đệ nhất danh ca Út Trà Ôn. Từ đó, ông chăm chút hơn, truyền dạy cho Phương Quang nhịp nhàng bài bản, kỹ thuật ca ngâm.
Để thử sức mình sau thời gian rèn luyện, Phương Quang tìm đến gánh Kim Thành của bầu Nhuần mới thành lập xin đầu quân và được nhận ngay. Sau đó, gánh Kim Chưởng có đăng tuyển kép chánh. Phương Quang đăng ký vào thi cùng với ba anh kép khác, nhưng kết quả chỉ có Phương Quang trúng tuyển”.
Được sự dìu đắt của nghệ sĩ Kim Chưởng, Phương Quang được học nghề hát một cách có bài bản và nghiêm túc. Phương Quang trở thành một diễn viên đa năng, thể hiện thành công được nhiều loại vai tuồng… Tuy nhiên, với vóc dáng mạnh khoẻ, tướng đi chững chạc, giọng ca cao vút, nghệ sĩ Phương Quang dễ thành công với các vai trung dũng, các võ tướng oai hùng.
Chỉ mới hai năm luyện nghề hát, Phương Quang đã được các trang kịch trường trên báo chí thời ấy và khán giả tán thưởng tài nghệ của qua các tuồng Hai chiều ly biệt, Song long thần chưởng, Huyết phiến lôi phong, Mặt trời đêm, Người nhạn trắng, Ảo ảnh Châu Bích Lệ, Sương gió biệt vương cung.
Năm 1966, Phương Quang đoạt Huy chương Vàng giải Thanh Tâm, với vai Kỳ Thanh Lang trong vở Tình nào cho em cùng năm với nghệ sĩ Phượng Liên. “Đó là giải thưởng đầu tiên, vinh dự trong đời của một nghệ sĩ. Nó nhắc cho Phương Quang nhớ đến những ngày đầu vào nghề khó nhọc, nó nhắc cho Phương Quang nhớ về một ước mơ cháy bỏng khi lần đầu diện kiến thần tượng. Sau này, kể điều đó với Út Trà Ôn, ông cười và nói: “Phương Quang đã biết cách lách để có cái của riêng mình, đó là việc đáng khen.”
Đến năm 1983, Phương Quang về Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang, có mặt trong những vở như Hòn đảo thần Vệ Nữ, Tình yêu và lời đáp,... bên cạnh những nghệ sĩ tài năng nhất của sân khấu cải lương như: Út Trà Ôn, Minh Phụng, Minh Vương, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Thanh Sang, Út Hiền, Minh Cảnh...
Có lẽ giai đoạn này đáng ghi nhận nhất, vai được xem là đỉnh cao để đời của Phương Quang là vua Riêm trong vở Nàng Xê-Đa của tác giả Lưu Quang Thuận - Lưu Quang Vũ, chuyển thể cải lương Thể Hà Vân.
Kết quả, không những thành công, mà còn là vai diễn để đời của Phương Quang, được công chúng yêu mến. Hình tượng về nhân vật vua Riêm - Phương Quang, nàng Xê Đa - Thanh Vy đã sáng chói trong giai đoạn này. Nhắc đến thời kỳ hưng thịnh của sân khấu cải lương cũng như giai đoạn phát triển nhất của Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang thì phải nhắc đến vở Nàng Xê Đa.
Nghệ sĩ Phương Quang còn được thính giả ái mộ qua các bản vọng cổ Tình anh bán chiếu, Ông lão chèo đò, Gánh nước đêm trăng… Dù mang âm hưởng của đệ nhất danh ca Út Trà Ôn nhưng tuyệt nhiên giọng ca của Phương Quang không phải là bắt chước, mà đây là giọng hát chân phương, mộc mạc rất độc đáo, với lối sắp câu, nhả chữ tinh tế và quyến rũ người nghe.
Phương Quang và bà xã Nguyễn Kim Hương lấy nhau từ năm 1973. Trước đó, bà không thích cải lương và cũng không nghĩ rằng người chồng sau này của mình là nghệ sĩ. Bà kể, bữa nọ tình cờ theo mấy người bạn vào Đài truyền hình Sàigòn xem làm phim. Khi gặp ông, bà gật đầu chào, thế mà chính sự lễ phép giản dị ấy đã khiến một anh kép nổi tiếng đào hoa như ông phải đắm say. Mấy tháng sau, thông qua sự giới thiệu của người bạn, ông mạnh dạn mời bà đi xem cải lương.
Bà nhớ lại: “Hôm đó, đoàn của anh diễn vở “Tâm sự người cha”. Lần đầu tiên đi xem cải lương nên tôi rất khó chịu trước những cảnh khóc lóc bi lụy. Khi hết nửa vở, mình ra về. Bù lại tuần sau, anh đóng vai chánh trong vở “Qua cầu đắng cay”, tôi mới chịu xem hết vở.
Năm 1973, chúng tôi tổ chức lễ cưới, đến nay đã có hai mặt con: cháu Tô Quế Phương, sinh năm 1978, cháu Tô Quang Bảo, sinh năm 1986. Bây giờ tôi đã ghiền cải lương rồi. Bằng chứng là vở Nàng Xê Đa diễn hơn 1800 suất trên mọi miền đất nước, thì cũng từng ấy buổi tôi khăn gói theo chồng để xem ông diễn”.
Những bạn bè đồng nghiệp trong hậu trường thường nhớ lại hình ảnh quen thuộc khi nghệ sĩ Phương Quang còn công tác tại Nhà hát Trần Hữu Trang, vợ ông luôn ở bên chồng lo lắng, chăm sóc. Phương Quang đã từng đóng cặp với nhiều đào chánh trên 17 đoàn hát qua gần 100 vở tuồng. Đến hôm nay, đồng nghiệp vẫn luôn nhắc rằng Phương Quang là một nghệ sĩ không kén vai diễn, không kén bạn diễn. Nghe như thế ông cười: “Nhờ có bà xã tôi không biết ghen, nên vai nào đóng cặp với các nữ nghệ sĩ, tôi cũng diễn rất mùi mẫn”.
Khi nói về bí quyết, Phương Quang thổ lộ: “Có câu biết người biết ta phần thắng không thể vuột xa. Sở dĩ tôi có thể diễn mùi với Phượng Liên, Thanh Nguyệt, Kiều Lệ Tâm, Trương Ánh Loan, Thanh Kim Lệ, Thanh Vy, Lệ Thủy… là do tôi đặt họ vào đúng vị trí của từng vai diễn trên sân khấu. Để khi bôi đi lớp phấn son, cởi bỏ xiêm áo lộng lẫy, chúng tôi không hề cảm thấy chút gì lấn cấn.”
Hoài Trúc Phương
Nghệ sĩ Hoài Trúc Phương tên thật là Dương Trúc Phương, sinh năm 1943, tại Rạch Giá, Kiên Giang, là con thứ năm trong một gia đình có năm chị em, cha người Quảng Đông – Trung Quốc sang lập nghiệp ở Rạch Giá, mẹ là người Việt Nam.
Gia đình ông có tiệm bán hủ tiếu lớn kế bên rạp hát Châu Văn, Rạch Giá, ông có ba chị gái. Vốn mê đờn ca tài tử lại được đình ủng hộ vì có giọng ca hay, Hoài Trúc Phương đã tham gia biểu diễn ở các đám tiệc và cho đến năm lên 14 tuổi ông đã xin cha nghỉ học để đi theo gánh hát.
Duyên may đưa Hoài Trúc Phương đến với sân khấu chính là một lần nghệ sĩ Hoàng Nuôi là chồng của nghệ sĩ Bạch Cúc, đến ăn hủ tiếu ở quán nhà của ông, người nghệ sĩ này đã nhận ông làm đệ tử, rồi xin dẫn ông vô đoàn hát.
Nhờ có người cha thương và quý nghiệp hát, nên những lúc đoàn hát nào về Rạch Giá mà lâm vào cảnh khó khăn, không đủ tiền mua gạo ăn, cha của ông đã tiếp tế lương thực, tiền bạc để nuôi các đoàn.
Sau 6 năm học nghề để thích nghi với môi trường mới, năm 1964 Trúc Phương đã gặt hái được những thành công với vai diễn ấn tượng đầu tiên là Thanh Sơn trong vở Máu chảy về tim ở đoàn Thúy Lan - Mỹ Ngọc.
Các ký giả kịch trường thời đó viết bài khen Hoài Trúc Phương, gọi anh là ngôi sao mới vừa được phát hiện, sáng chói trên nền trời kịch nghệ miền Tây. Vì anh ca diễn rất nam tính, có khí chất khẳng khái nên vào những vai hiên ngang, hùng dũng, giọng ca sang sảng rất khí thế trên sàn diễn.
Sau những lời khen tặng của báo chí thời đó, Hoài Trúc Phương đã vững vàng tiến lên những vai kép chánh, nghĩa khí như chính bản tính của ông ngoài đời.
Hoài Trúc Phương được ông bầu Ba Bản mời về hát ở đoàn Thủ Đô và đặt nghệ danh cho anh là Hoài Trúc Phương. Lúc đó, đoàn này là một đại ban, có những đào kép rất nổi tiếng như: Tấn Tài, Dũng Thanh Lâm, Trương Ánh Loan, Tô Kim Hồng, Tô Kiều Lan, Như Ngọc...và sau đó Hoài Trúc Phương lọt vào mắt Bầu Long của công ty Bầu Long, nên bầu Long đã mời về ký giao kèo hai năm với số tiền 200.000 đồng và trả lương cao gấp 5 lần lương của anh lúc hát ở đoàn Thúy Loan - Mỹ Ngọc cách đó 2 năm. Khi về đoàn Kim Chung 1 rồi qua đoàn 3, đoàn 5, Hoài Trúc Phương đã hát chánh với các cô đào: Bích Hợp, Kim Chung, Kim Tuyến...và nữ nghệ sĩ Kim Tuyến chính là người vợ đầu tiên của anh. Khi anh về đoàn Thái Dương, anh tiếp tục hát chánh, chia vai với nghệ sĩ Thành Được, Thanh Hải, Văn Chung...vai nào cũng được khán giả yêu mến. Cái tâm làm nghề của Hoài Trúc Phương rất tốt. Lúc nào cũng tận tụy, kính trên, nhường dưới, chưa bao giờ quát nạt một ai.
Năm 1972, Kim Tuyến ly dị Hoàng Trúc Phương, họ có với nhau một người con trai là Nguyễn Đường Huy tức Andrew Nguyễn.
Sau năm 1975, Hoài Trúc Phương về công tác tại đoàn Sân khấu Mới cùng với lực lương nghệ sĩ về sau lập nên đoàn cải lương tuồng cổ Huỳnh Long: Thanh Bạch, Thanh Thế, Hữu Lợi, Bạch Mai... Ở đoàn này, anh thường đảm nhận các vai kép văn.
Đến năm 1976, Hoài Trúc Phương cộng tác với đoàn cải lương Hoa Phượng, hát cặp với nghệ sĩ Thanh Thế và tại đoàn này anh gặp "tình yêu đời mình" là nghệ sĩ Diệu Huê, họ đã gá nghĩa vợ chồng. Khoảng năm 1978, nhờ có lối ca chân phương gần giống với nghệ sĩ Thành Được, nghệ sĩ Trúc Phương được đoàn Sàigòn 1 mời về diễn. Tại sân khấu này, Hoài Trúc Phương nhanh chóng nổi bật khi diễn với các nữ nghệ sĩ: Ngọc Giàu, Phượng Liên, Thanh Thanh Hoa... trong vở Mạnh Lệ Quân vai Hoàng Phủ Thiếu Hoa, vở Bình Tây Đại nguyên soái vai Trương Quyền, Đời cô Lựu vai Hai Thành... Hoài Trúc Phương cộng tác một thời gian ngắn với đoàn Vàm Cỏ, Trung Hiếu... từ năm 1985 đến 1989 anh gắn bó với đoàn Thanh Nga, đoàn có các nghệ sĩ: Bảo Quốc, Kiều Phượng Loan, Diệu Huê, Thanh Thanh Hoa, Hương Huyền, Tuấn Châu... Trên sân khấu này ông có thêm những vai ấn tượng. Năm 1989, nghệ sĩ Hoài Trúc Phương nghỉ đoàn Thanh Nga, ra ngoài làm kinh tế, làm ở phòng kinh doanh và có thời gian làm Phó tổng giám đốc Công ty sản xuất khăn giấy vệ sinh của Đài Loan. Làm được 5 năm, công ty này chuyển về Bình Dương, ông xin nghỉ việc vì nếu đi làm xa, buổi tối không thể đi diễn trên sân khấu.
Hoài Trúc Phương xuất ngoại biểu diễn hai lần tại Mỹ, đó là năm 2006 ông biểu diễn ca cổ với Tiểu Phụng bài Tình cha như núi Thái Sơn của soạn giả Viễn Châu và năm 2008 đóng vai Quốc Nghi cha nàng Quốc Hương do ca sĩ Hương Lan đóng trong vở Tiếng trống sang canh cùng Thanh Sang, Giang Châu, Hoài Thanh, Đỗ Quyên, Phú Quý, Bình Trang...được khán giả kiều bào yêu thích.
Trong sự nghiệp của nghệ sĩ Hoài Trúc Phương có nhiều vai diễn thành công như: Bạch Vệ trong vở Quán trọ hoàng hôn, Võ Đông Sơ trong vở Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà, Yên Lang trong vở Manh áo quê nghèo, Từ Hải trong vở Thúy Kiều, Nùng Cao trong vở Người mang sông núi, Vũ Trường Giang trong vở Cô gái bán gươm, Lý Đạo Thành trong vở Nhiếp chính Ỷ Lan, ông Tám trong vở Máu thắm đồng Nọc Nạn, Henri Thọ trong vở Trận tuyến thầm lặng, quan thượng thư trong vở Truyền thuyết tình yêu, đại úy ngụy trong vở Áng ngọc đêm xuân... Gần đây nhất, ông tham gia trong bộ phim Anh hùng Nguyễn Trung Trực vai thầy dạy võ của Nguyễn Trung Trực và Bình Tây Đại nguyên soái vai Phan Thanh Giản và cùng v ợ l à nghệ sĩ Diệu Huê đóng vai vợ chồng ông bá hộ trong vở Chất ngọc không tan do kênh Thuần Việt HTVC và Mekong Artists thực hiện tại Nhà hát Thành Phố. Đây là vai diễn cuối cùng của ông.
Người con trai của Hoài Trúc Phương và Kim Tuyến, từ nhiều năm trước đã chăm sóc cha khi bệnh tật hoành hành cơ thể của ông. Anh đã xây căn nhà ở huyện Bến Lức, tỉnh Long An trên nền đất nhà, để ông an dưỡng tuổi già.
Khi con trai Hoài Trúc Phương qua đời vì bạo bệnh, ông xuống tinh thần rất nhanh. Sau đó, Hoài Trúc Phương đã dần hồi phục, để rồi lại phải đối chọi với căn bệnh ung thư quái ác, cướp đi sinh mạng của ông.
Nghệ sĩ Hoài Trúc Phương, đã để lại cho đời nhiều vai diễn hay, nhiều số phận nhân vật đáng nể. Ông có giọng ca trầm ấm, khỏe khoắn và diễn những vai kép độc mùi, rất khẳng khái, chiếm được cảm tình người xem.
Hoài Trúc Phương đã trút hơi thở cuối cùng lúc 14 giờ 40 phút ngày 19-8-2014 tại nhà riêng số 320 khu 6, ấp 2, xã Tân Bửu, huyện Bến Lức, Long An, Tp.HCM, hưởng thọ 72 tuổi. Tang lễ của nghệ sĩ Hoài Trúc Phương tổ chức tại nhà, sau đó đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa và đưa hài cốt vào chùa Bửu Quang.
Kim Ngọc
Nghệ sĩ Kim Ngọc tên thật là Lê Thị Kim Ngọc sinh năm 1943 trong gia đình bán thịt heo tại Giồng Ông Tố, quận Thủ Đức, nay là quận 2, Tp. HCM. Kim Ngọc sinh ra trong một gia đình không ai theo nghề ca hát. Những năm đầu sự nghiệp, Kim Ngọc đã xin gia đình đi theo đoàn cải lương Tây Đô ở Sàigòn vừa học vừa diễn. Sau đó, Kim Ngọc theo đoàn Minh Bằng, rồi lần lượt qua các đoàn Dạ Lý Hương, đoàn Bạch Tuyết - Hùng Cường, đoàn Trần Hữu Trang...
Sau năm 1975, Kim Ngọc tham gia chương trình Trong nhà ngoài phố của Đài truyền hình Tp. HCM. đóng cặp với diễn viên hài Quốc Hòa, nổi lên với vai “cô Tư Xả Láng".
Kim Ngọc có người con trai là danh hài Hiếu Hiền.
Năm 1973, 1974: Kim Ngọc trong 2 năm liền đoạt giải Kim Khánh
của nhật báo Trắng Đen.
Về sau nầy, được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú
Kim Ngọc đã thủ diễn các vai gây ấn tượng cho giới thưởng ngoạn cải lương như vai: Bao Tích Nhược trong vở Anh hùng xạ điêu, Chu Chỉ Nhược trong vở Cô gái Đồ Long, “Chị Tư xả láng" trong loạt Kịch truyền hình Trong nhà ngoài phố, Mai Đình trong vở Hàn Mặc Tử, Hoàng hậu trong vở Tiêu Anh Phụng, Hoàng mẫu trong vở Khi rừng mới sang thu, Kim Liên trong vở Kiều Nguyệt Nga, Mẹ của Lan trong vở Lan Huệ sầu ai, Mẹ của Toàn trong vở Đời cô Hạnh, Thái hậu trong vở Bóng hồng Sa mạc, Thơ đồng trong vở Trăng thề vườn thúy, Thu Sương trong vở Hoa Mộc Lan tùng chinh
Kim Ngọc cũng tham
gia phim ảnh qua các phim:
Người trong mơ, Khi đàn ông có bầu, Bốn thí nghiệm đêm tân hôn, Ngôi nhà hạnh phúc, Chuyện tình đảo ngọc, Công chúa teen và ngũ hổ tướng.
Kim Ngọc là nữ diễn viên hài, diễn rất có duyên, cho nên được nhiều người mến mộ.
Nghệ sĩ Kim Ngọc mất vào lúc
11g30 ngày 16 tháng 1 năm 2011 tại nhà riêng C9/4B10 đường Phạm Hùng, Bình
Hưng, Bình Chánh, Tp. HCM vì đột quỵ, thọ 67 tuổi.
Thanh Sang
Nghệ sĩ Thanh Sang tên thật là Nguyễn Văn Thu, sinh năm 1943, tại xã Hòa Hiệp, Phước Hải. Quê nội anh ở Bình Định, quê ngoại Tuy Hòa, Phú Yên. Thanh Sang là Phật tử, có pháp danh Chơn Từ.
Cha ông từng tham gia Chiến tranh Đông Dương, hy sinh năm 1949. Mẹ ông phải làm lụng vô cùng cực nhọc để nuôi 4 đứa con nhỏ, trong đó chỉ có ông là trai. Vì vậy, từ năm 8 tuổi, ông bắt đầu sống bằng nghề đi biển đánh cá, vừa nuôi gia đình vừa kiếm tiền học chữ trong làng.
Do gia đình sống gần rạp Cải lương Hải Lạc, ông bị cuốn hút theo nghề hát xướng. Ban đầu, ông thường nhại lại các giọng của Thành Công, Chín Sớm, Út Trà Ôn rất giống, được bà con tán thưởng.
Năm 1960, đoàn cải lương Ngọc Kiều của bầu Hoàng Kinh, Ngọc Đán đến Hải Lạc biểu diễn. Khi diễn vở "Chiều đông gió lạnh về", ông Thu thường được đưa vào thay thế khi các kép bị ốm. Bầu Hoàng Kinh thấy vậy mới đặt cho nghệ danh là Thanh Sang.
Năm 1962, ông được bầu Hoàng Kinh cho thế Hùng Cường, vai Đông Nhật trong vở "Tuyết phủ chiều đông". Ông diễn thành công và từ đó thành một kép chánh trong đoàn Cải lương Ngọc Kiều.
Năm 1964, ông chuyển về hát cho đoàn "Hoa mùa xuân", sau đổi thành "Dạ lý hương". Cũng trong năm này ông nhận huy chương vàng giải cải lương Thanh Tâm với vai Tạ Tốn trong vở "Cô gái Đồ Long". Vai diễn Tạ Tốn trong vở này bị mù, rất khó diễn song ông lại diễn rất hay, đến mức nhiều người nhắc đến ông bằng 4 chữ Kim Mao Sư Vương - danh hiệu của Tạ Tốn. Vai diễn đã đưa ông từ anh chàng chài lưới, chưa qua trường lớp, trở thành ngôi sao trong làng sân khấu.
Từ đó đến năm 1975, ông còn thành công với nhiều vai khác như vai Trần Minh trong vở Bên cầu dệt lụa, vai Thi Sách trong vở Tiếng trống Mê Linh, vai Lê Hoàn trong vở Thái hậu Dương Vân Nga...
Năm 1985, ông thôi hát ở các đoàn văn nghệ, chỉ thu băng đĩa và hát phục vụ khi có yêu cầu. 3 năm sau ông mới cùng đoàn nghệ sĩ Việt Nam sang Paris biểu diễn.
Năm 2001, ông bị bệnh nặng, phải rời xa sân khấu thời gian dài.
Ngày 4 tháng 3 năm 2007, Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm "50 năm một tình yêu nghệ thuật" do Bạch Tuyết làm đạo diễn để kỷ niệm 50 năm nghiệp hát của ông.
Sau nhiều năm bệnh lúc già, Thanh Sang qua đời lúc 0 giờ 25 rạng sáng 21 tháng 4 năm 2017 tại nhà riêng, hưởng thọ 74 tuổi.
Thanh Thanh Hoa
Nghệ sĩ Thanh Thanh Hoa tên thật là Nguyễn Thị Anh, sinh năm 1943 sinh năm 1943, gốc ở Cai Lậy, Mỹ Tho, bắt đầu đi hát năm 14 tuổi, nhờ người cô gởi cho bà Bầu Thơ vào làm đào con ở gánh Thanh Minh, và được đặt nghệ danh là Thanh Hoa để học nghề chứ chưa có lương. Được khoảng hơn một năm thì có sự thương lượng ngầm giữa Bầu Cang là bầu gánh Tiếng Chuông và thân phụ của cô, nên sau đó cô về đoàn này với giao kèo: Lương suất hát 50 đồng, cộng với 5 ngàn đồng tiền giao kèo.
Gặp lúc đào chánh Kim Nương đấu kiếm bị tai nạn nghề nghiệp nghỉ hát nên Thanh Hoa được đóng thế vai chánh, coi như nghiệp cầm ca bắt đầu đi lên.
Đến năm 1959 Thanh Hoa về đoàn Hương Hoa của Bầu Sinh, chung đoàn với nghệ sĩ Nam Hùng chồng của cô sau này. Ở đoàn Hương Hoa được một năm, cô lại đi gánh Kim Hoàng – Như Mai trước khi về đoàn Thủ Đô năm 1961, và sự nghiệp rạng rỡ trên sân khấu này.
Ở sân khấu đoàn Thủ Đô cô đổi nghệ danh là Thanh Thanh Hoa. Cô về đoàn Thủ Đô lúc mới thành lập, tập dượt tuồng Tiếng Trống Sang Canh của Thu An để khai trương bảng hiệu. Thanh Thanh Hoa đóng vai Tuyết Vân là đào độc, trong vở tuồng nói trên cô ca hai câu vọng cổ. Với làn hơi ca khan, không mùi, nhưng được cái là kỹ thuật ca rất điêu luyện và chắc nhịp.
Gần cuối năm Thanh Thanh Hoa được giao cho vai Cát Dung Phương Tử trong vở hát Cát Dung Phương Tử. Với vai này Thanh Thanh Hoa đoạt giải Thanh Tâm 1961, năm ấy chỉ một mình bà được trao giải.
Con số ban tuyển chọn Giải Thanh Tâm 1961 lên đến 18 thành viên: Bà Phùng Há là một nghệ sĩ kỳ cựu, có 6 soạn giả Điêu Huyền, Kiên Giang, Hà Triều, Viễn Châu, Bạch Diệp, Tứ Lang, có 11 ký giả kịch trường: Ngọc Linh, Thiên Hương, Nguyễn Ang Ca, Lê Hiền, Phong Vân, Hoài Ngọc, Việt Định Phương, Sĩ Trung, Bạch Tùng Hương, Ngọc Đỉnh và ông Trần Tấn Quốc. Năm này cạnh ban tuyển chọn còn có thêm ban cố vấn, gồm các vị sau đây: Nghệ sĩ Bảy Nhiêu, Năm Châu, Duy Lân.
Sau ngày lãnh giải Thanh Tâm 1961 Thanh Thanh Hoa như một ngôi sao sáng rực và vẫn hát cho đoàn Thủ Đô, bởi ở đoàn này thì tên tuổi ngày một sáng chói thêm, mà tiền lương thì cũng không có đoàn nào cao như đoàn Thủ Đô lúc ấy.
Khi Thanh Thanh Hoa đang nổi tiếng vì được trao giải Thanh Tâm, lại xinh đẹp rạng ngời. Nhưng Thanh Thanh Hoa đem lòng yêu anh kép độc Nam Hùng chuyên đóng vai phụ. Lo sợ sự nghiệp của Thanh Thanh Hoa bị ảnh hưởng, cha mẹ cô cương quyết ngăn cản mối tình này. Thế nhưng, để bảo vệ tình yêu, Thanh Thanh Hoa và Hùng đã bỏ đoàn hát, bỏ nhà ra đi. Ban giám khảo giải Thanh Tâm vì muốn bảo vệ uy tín giải và để ủng hộ một tình yêu chân chính không so đo địa vị, danh lợi đã vừa khuyên đôi bạn trẻ chính thức thành hôn, vừa vận động gia đình Thanh Thanh Hoa chấp nhận hôn lễ đó.
Con người ta bôn ba cũng không qua thời vận, Thanh Thanh Hoa đã có bao nhiêu nơi dạm hỏi nhưng nàng đều từ khước, để rốt cuộc kết duyên với Nam Hùng, và từ ấy cho đến nhiều năm sau họ như chim liền cánh, cây liền cành.
Đôi vợ chồng nghệ thuật và ngoài đời này sống hạnh phúc trong nhiều năm. Nhưng rồi sau 1975 trong lúc không còn hát xướng bao nhiêu thì họ chia tay nhau. Thanh Thanh Hoa không bước them bước nữa.
Sau năm 1975, Thanh Thanh Hoa hát ở đoàn Sàigòn 1 và tiếp tục ghi dấu ấn qua các vở Thái hậu Dương Vân Nga, Mạnh Lệ Quân, Người ven đô, Vua hóa hổ... Trên sân khấu khác, Thanh Thanh Hoa lại ghi dấu ấn trong các vai chính của các vở như: Chuỗi nhạc rừng dương, Tấm lòng của biển...
Sau đó gần như Thanh Thanh Hoa rời xa ánh đèn sân khấu. Nghệ sĩ Thanh Thanh Hoa sống khá thanh nhàn, quanh quẩn ở nhà chăm sóc cây cảnh và mấy giò phong lan, trông nom các cháu. Hằng đêm Thanh Thanh Hoa vẫn canh cửa chờ con gái l à Thanh Thanh Tâm đi diễn về, dù vãn tuồng khuya cách mấy. Cũng có một số lời mời Thanh Thanh Hoa trở lại sân khấu nhưng nghĩ mình có tuổi, làn hơi không còn khỏe khoắn như xưa nên Thanh Thanh Hoa đã từ chối, bởi vì không muốn những khán giả thân thương phải thất vọng về mình...
Nghệ sĩ Thanh Thanh Hoa đã trút hơi thở cuối cùng lúc 10 giờ 40 ngày 20 tháng 9 năm 2009, tại nhà riêng sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh nan y. Thọ 66 tuổi.
Minh Phụng
Nghệ sĩ Minh Phụng tên thật là Ngô Văn Thiệu, còn tên khai sinh sau này là Nguyễn Văn Hoài sinh ngày 16 tháng 9 năm 1944 tại Mỹ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang. Lúc mới vào nghề ông lấy nghệ danh Tân Tiến, khi vào đoàn hát Thanh Phương ông đổi nghệ danh Minh Phụng cho đến nay. Minh và Phụng là tên 2 đứa con của người bạn thân của ông.
Minh Phụng đã tham gia ở nhiều đoàn hát khác nhau như Tân Đô, Hoa Thảo - Hậu Tấn, Thanh Phương... Đến gánh hát Kim Chung, hợp cùng hai nghệ sĩ Minh Cảnh, Minh Vương, ông đã khiến giới mộ điệu cải lương mê đắm từ những thập niên 1960 – 1970. Ông đã đóng cặp với nhiều nữ nghệ sĩ tên tuổi như Út Bạch Lan trong vở tuồng Trinh tiết một loài hoa, Mỹ Châu trong vở tuồng Bích Vân Cung lệ sử, Kiếm sĩ người dơi, và nhất là các vở dã sử kiếm hiệp mang màu sắc Trung Hoa với Diệu Hiền, Lệ Thủy trong vở tuồng Xin một lần yêu nhau, Kiếp nào có yêu nhau...
Thời gian đó, đêm nào rạp Kim Chung có Minh Phụng – Lệ Thuỷ diễn là khán giả ùn ùn kéo đến rạp. Sức hút từ hai người lớn đến nỗi báo chí Sài Gòn lúc bấy giờ gọi họ là “cặp bão biển đang dâng cao”.
Gần 50 năm gắn bó với sân khấu cải lương, trong giai đoạn hưng thịnh nhất của bộ môn nghệ thuật này, nghệ sĩ Minh Phụng đã đi vào lòng khán giả mộ điệu với hình ảnh một kép đẹp, có giọng hát đặc trưng với thanh âm cao, ngọt ngào và sâu lắng. Nhiều vở diễn và những bài vọng cổ có sự góp mặt của ông và do ông thể hiện đã đi vào lòng khán giả như trong các vở tuồng hát: Bóng hồng sa mạc, Tâm sự loài chim biển vai Áo Vũ Cơ Hàn, Xin một lần yêu nhau vai Âu Thiên Vũ, Kiếp nào có yêu nhau vai Mộ Dung Trạch, Đêm lạnh chùa hoang, Máu nhuộm sân chùa, Mùa thu trên Bạch Mã Sơn...; bài vọng cổ An Lộc Sơn, Nước mắt quê hương, Thương về cố đô 14 năm mong đợi, Cho xin sống lại một ngày, Đừng nói xa nhau, Phố đêm, Trường hận...
Sau năm 1975, Minh Phụng là trưởng đoàn Tiếng Hát Quê Hương của tỉnh Bến Tre, nổi danh trong vai Lục Vân Tiên. Sau đó đoàn này được giao cho Văn hóa Thông tin tỉnh quản lý. Năm 1976, Minh Phụng gia nhập gánh hát Hương Mùa Thu, làm kép chánh, hát qua các vở tuồng Gánh cỏ sông Hàn, Con cò trắng, Lửa phi trường.
Năm 1994, ông lập lại đoàn hát Hương Mùa Thu với thành phần diễn viên như Minh Phụng, Linh Cảnh, Kiều Tiên, Bảo Ngọc, Ngọc Cẩm Thúy, Vương Bình, Thanh Phú, Điền Tử Lang, Thanh Thủy, Ngọc Ánh, Diệu Thanh, hề Giang Tâm. Đoàn Hương Mùa Thu của Minh Phụng diễn ở tỉnh Minh Hải là Cà Mau c ũ và các tỉnh lân cận.
Sau đó nghệ sĩ Minh Phụng đổi tên gánh hát Hương Mùa Thu thành
đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng. Từ năm 1996 trở về sau, các gánh hát thua
lỗ, Đoàn Tiếng Chuông Vàng Minh Phụng cầm cự, kéo dài đến qua năm 2000, rồi
ngưng hát. Nghệ sĩ Minh Phụng đã thua lỗ khá nhiều cho đoàn hát.
Sau lần phẫu thuật tim vào năm 2005, Minh Phụng cần điều trị suy thận và hoại tử chân kéo dài. Đầu tháng 11 năm 2008 ông vẫn cố xuất hiện trong liveshow của nghệ sĩ Ngọc Đáng tổ chức tại rạp Hưng Đạo. Đó là lần đứng trên sân khấu cuối cùng của ông.
Ông sống chung với nghệ sĩ Diệu Huê lúc ở đoàn Kim Chung, có ba
người con, trong đó có nghệ sĩ Tiểu Phụng. Năm 1976, ông li dị vợ. Năm 1977, ông chuyển qua đoàn Hương mùa thu và kết hôn
cùng nghệ sĩ Kiều Tiên, sinh con gái là nghệ sĩ Y Phụng. Năm 2005, ông đăng báo
từ con là Tiểu Phụng trên báo Sân khấu Tp. HCM .vì cho rằng Tiểu Phụng
lợi dụng lúc ông bị bệnh nặng đã liên lạc với bạn bè, người thân và người ái mộ
ông ở bên Mỹ để quyên góp tiền, quà.
Ông qua đời ngày 29 tháng 11 năm 2008 và được an táng tại Nghĩa trang chùa Nghệ sĩ, Gò Vấp, Tp. HCM
Các vai diễn nổi bật của nghệ sĩ Minh Phụng: Tâm sự loài chim biển trong vai Áo Vũ Cơ Hàn, Lá trầu xanh trong vai Dũng, Kiếp chồng chung trong vai Phong, Xin một lần yêu nhau trong vai Âu Thiên Vũ, Chiều đông gió lạnh về trong vai Kha Minh Khi rừng mới sang thu trong vai Hoàng Phi Hải. Manh áo quê nghèo trong vai Hoàng tử, Kiếp nào có yêu nhau trong vai Mộ Dung Trạch, Lấy chồng xứ lạ trong vai Tâm, Bóng hồng sa mạc trong vai Thái tử Phi Sơn, Quán khuya sầu viễn khách trong vai Vũ Huyền Phương, Băng Tuyền nữ chúa, Chiếc áo mùa đông, Kiếp nào có yêu nhau, Nhạn về xóm liễu, Tiêu Anh Phụng, Người gọi đò bên song, Tình hận trên băng hồ, Tiếu Ngạo giang hồ, Tiểu Hoa nương
Minh Phụng mất nhưng huyền thoại thì sống mãi, mỗi người kể lại thêu dệt thêm mỗi khác nhau. Giỗ ông năm nào cũng đông đủ đồng nghiệp đến viếng, nhất là không khi nào vắng mặt nửa mảnh ‘Bão biển’ Lệ Thuỷ dù giờ đây tuổi bà cũng đã cao.
Ngọc Giàu
Ngọc Giàu - Phong Thị Ngọc
Giàu (1945 – 20 .. )
Ngọc Giàu tên thật là Phong Thị Ngọc Giàu, sinh ngày 13 tháng 7 năm 1945, Thủ Thiêm, Gia Định, sinh trưởng trong gia đình lao động nghèo, thuộc dòng dõi quý phi Lê Ngọc Bình. Ngọc Giàu lại rất mê ca hát. Lúc 12 tuổi, Ngọc Giàu được nhận vào gánh hát Mai Lan Phương – Ngọc Chiểu và chỉ làm tỳ nữ, rồi ngâm thơ hậu trường. Đến khi về đoàn Ngọc Kiều của Hoàng Kinh – Ngọc Đáng. Đến năm tròn 13 tuổi, Ngọc Giàu được đóng những vai đào nhì, sau hai tháng được nâng lên đào chính. Một lần cùng đoàn đi diễn ở Quảng Ngãi, đoàn Ngọc Kiều diễn vở Đôi mắt giai nhân. Trong số khán giả đến xem đêm diễn ấy có bà bầu của đoàn Kim Chưởng nên bà đã được mời về làm diễn viên của đoàn Kim Chưởng.
Sau hơn một năm cùng đoàn đi lưu diễn khắp các tỉnh từ miền Trung Việt Nam đến Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1958, về đến Sàigòn, Ngọc Giàu được chủ rạp hát Hưng Đạo mời dự lễ khai trương, đồng thời tham gia vai đào chính trong vở Hai cánh én đầu xuân, đóng cặp cùng nam diễn viên tài danh Minh Chí. Sau lần diễn đó, Nghệ sĩ Minh Chí đã đưa Ngọc Giàu đi giới thiệu với các hãng băng đĩa ở Sài Gòn. Chủ hãng Châu Á, một hãng đĩa lớn ở Sài Gòn, sau khi nghe Ngọc Giàu ngâm thơ và hát thử đã ký hợp đồng dài hạn.
Hai năm sau, Ngọc Giàu được soạn giả Hà Triều – Hoa Phượng ở đoàn hát Thanh Minh – Thanh Nga mời về đoàn. Ngọc Giàu được trao Giải Thanh Tâm vào đầu năm 1960 nhờ nhiều vai diễn, như vai đào chánh Điêu Thuyền. Năm 1967, bà đón nhận Giải Thanh Tâm.
Những bạn diễn của bà là: Lệ Thủy, Thanh Sang, Út Trà Ôn, Thanh Nam, Thanh Nga, Út Bạch Lan, Bạch Tuyết, Minh Vương, Minh Cảnh,...
Ngọc Giàu đã thủ diễn các vai: Bà Hương trong vở Đời cô Lựu, Bà mẹ điên trong vở Bông hồng cài áo, Cô Bảy cán vá trong vở Đời cô Lựu, Triệu Minh trong vở Cô gái Đồ Long, Dương Vân Nga trong vở Thái hậu Dương Vân Nga, Chị Hằng trong vở Con gái chị Hằng, Hiền trong vở Đôi mắt người xưa, Mỹ Tiên trong vở Sân khấu về khuya, Mục Niệm Từ trong vở Anh hùng xạ điêu, Năm trong vở Tình yêu và lời đáp, Nhung trong vở Tướng cướp Bạch Hải Đường, Thị Lộ trong vở Rạng ngọc Côn Sơn, Tuyết Minh trong vở Nắng sớm mưa chiều..
Ngọc Giàu đã tham gia đóng phim: Lẵng hoa tình yêu, Khi đàn ông có bầu, Võ lâm truyền kỳ, Năm sau con lại về, Tấm Cám: Chuyện chưa kể, Sàigòn anh yêu em
Năm 1960, Ngọc Giàu đoạt huy chương vàng Giải Thanh Tâm, đến 7 năm sau, năm 1967 Ngọc Giàu nhận được Giải Thanh Tâm về Diễn viên xuất sắc. Trong 10 lần phát Giải Thanh Tâm từ năm 1958 đến năm 1967, chỉ có 2 nghệ sĩ nhận được giải 2 lần, đó là Thanh Nga và Ngọc Giàu. Năm 1958, Giải Thanh Tâm đầu tiên, Thanh Nga nghệ sĩ nhận giải duy nhất: Giải Khuyến Khích, do Thanh Nga mới có 16 tuổi và năm 1966, Thanh Nga nhân được Giải xuất sắc trong vai Mỹ Tiên của vở Sân khấu về khuya.
Cho tới nay, hơn 60 năm gắn bó với nghệ thuật, là nghệ sĩ, người thầy mẫu mực của Nhà hát Trần Hữu Trang, nghệ sĩ Ngọc Giàu đã có hơn 100 vai diễn trên sân khấu cải lương, khoảng 50 vở kịch, hàng chục phim truyện, video, tấu hài.
Bạch Tuyết
Nghệ sĩ Bạch Tuyết tên thật là Nguyễn Thị Bạch Tuyết, sinh 24 tháng 12 năm 1945 tại làng Khánh Bình, Châu Ðốc, nay thuộc xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang. Từ thuở còn đi học đã bộc lộ năng khiếu ca, ngâm, thường được các thầy cô đưa lên trình diễn trong những đêm văn nghệ.
Mồ côi mẹ khi 9 tuổi vào năm 1955, và bắt đầu đi hát ở những nhà hàng ca nhạc bằng những bài tân nhạc như Nắng đẹp miền Nam, Làng tôi, Tiếng còi trong sương đêm...
Cũng như những bạn cùng lứa, Bạch Tuyết rất hâm mộ Thanh Nga. Trong một lần gặp gỡ, Thanh Nga nhận xét rằng Bạch Tuyết rất có khiếu hát cải lương, lời khích lệ đó là một trong những động lực đưa bà đến với nghiệp hát xướng.
Năm 1960, Bạch Tuyết vào học trường nội trú của các ma-sơ Công giáo, thời gian này, bà giao du học hỏi với nhiều nghệ sĩ, trong đó có soạn giả Điêu Huyền. Nhờ đó tên tuổi của Bạch Tuyết dần được xuất hiện trên các đài phát thanh, trên báo chí. Điêu Huyền nhận bà làm con nuôi, cho gia nhập đoàn Kiên Giang, sự kiện này giúp đỡ Bạch Tuyết rất nhiều trong bước đường sau này.
Năm 1961, đoàn Kiên Giang diễn vở Lá thắm chỉ hồng, cô đào chính tới trễ, khiến Bạch Tuyết bất ngờ được giao vai cô lái đò Lệ Chi, diễn xuất của Bạch Tuyết khiến khán giả hết sức ngạc nhiên. Sau đó là vở Kiếp chồng chung, Suối mơ rền áo cưới... Bạch Tuyết được Út Trà Ôn mời về đoàn Thống Nhất, với vở Tiếng hát Muồng Tênh, tên tuổi Bạch Tuyết bắt đầu nổi tiếng từ đó.
Tuy đi hát, nhưng Bạch Tuyết lại rất thích đi học. Đang hát và nổi tiếng với Đoàn Thống Nhất, thì Bạch Tuyết nghỉ nửa năm để ôn thi Tú Tài. Sau này, Bạch Tuyết cũng nhiều lần đang hát thì nghỉ ngang như thế, để đi học.
Cuối năm 1962, Bạch Tuyết vào đoàn Bạch Vân. Năm sau được nhận giải Thanh Tâm cho diễn viên triển vọng.
Năm 1964, Bạch Tuyết về hát cho đoàn Dạ Lý Hương, với các soạn giả danh tiếng bấy giờ là Hà Triều - Hoa Phượng, tài năng của Bạch Tuyết càng được khẳng định. Năm sau, vở Tần Nương Thất đã mang lại cho Bạch Tuyết huy chương vàng giải Thanh Tâm cho nghệ sĩ xuất sắc.
Năm 1966, Hùng Cường gia nhập đoàn Dạ Lý Hương, cùng với Bạch Tuyết tạo thành 1 cặp đôi hoàn hảo trong mắt khán giả. Bạch Tuyết ở lại đoàn Dạ Lý Hương thêm 2 năm nữa.
Năm 1966, trong buổi lễ mừng chiến thắng của đội bóng tròn Việt Nam mang về nước huy chương vàng của giải vô địch túc cầu Đông Nam Á ở Merdeka, Malaysia.
Bạch Tuyết là một trong 24 nữ diễn viên
trao vòng hoa chiến thắng cho đội bóng tròn Việt Nam.
Bạch Tuyết choàng vòng hoa cho cầu thủ Phạm
Huỳnh Tam Lang. Bốn mắt nhìn nhau, tiếng sét ái tình nổ ra từ đó. Cặp trai tài
gái sắt đèo nhau trên chiếc vespa lượn quanh các phố phường Sàigòn, Chợ Lớn.
“Cải lương chi bảo” Bạch Tuyết và danh thủ Tam Lang quyết định đến hôn nhân.
Sau năm 1968, tình hình chiến tranh lan rộng, Bạch Tuyết ngừng hát một thời gian. Đến năm 1971, cùng với Hùng Cường, lập gánh hát Hùng Cường - Bạch Tuyết, sau này đổi thành Đoàn ca kịch Bạch Tuyết, diễn các vở kinh điển như: Trăng Thề Vườn Thúy, Má Hồng Phận Bạc, Cung Thương sầu nguyệt hạ. Gánh hát này được rất đông người hâm mộ, tuy nhiên, do không biết cách quản lý, sau một thời gian đã ngưng hoạt động.
Năm 1974 hôn nhân Bạch Tuyết và Phạm Huỳnh Tam Lang tan vỡ. Lý do là Bạch Tuyết không sanh con. Cũng ngay trong năm nầy, Bạch Tuyết lập gia đình lần thứ hai với ông Charles Đức còn được gọi là Ba Đức, quốc tịch Pháp. Ông có đến 2 bằng Tiến sĩ kinh tế ở Pháp và Tiến sĩ luật học ở Hà Lan.
Họ có một con trai tên Bảo Giang Valery Bauduin hiện sống và làm việc ở Hoa Kỳ.
Nhờ có chồng là Charles Đức khuyến khích, và có chí tiến thủ, Bạch Tuyết theo học Đại học, Năm 1985, 40 tuổi, Bạch Tuyết nhận được bằng Cử nhân Ngữ văn.
Năm 1988, được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú, cũng năm này Bạch Tuyết tốt nghiệp khoa đạo diễn ở Viện Hàn lâm Sân khấu và Điện ảnh tại Sofia.
Năm 1995, Bạch Tuyết bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ với đề tài "Sự thích nghi của nghệ thuật sân khấu dân tộc cổ truyền của các quốc gia Đông Nam Á", trở thành tiến sĩ nghệ thuật Cải lương đầu tiên của Việt Nam.
Bạch Tuyết có dịp diễn chung với những nghệ sĩ: Thanh Sang, Bảo Quốc, Ngọc Giàu, Thanh Tuấn, Lệ Thủy, Diệp Lang, Minh Phụng, Hùng Cường, Út Bạch Lan, Thái Châu, Tấn Tài, Út Trà Ôn,... đã từng diễn chung với nhiều kép, nhưng người đóng chung với Bạch Tuyết để lại ấn tượng sâu sắc là Hùng Cường. Họ đã tạo nên cặp đôi "sóng thần" cực kỳ nổi tiếng vào thập niên 1960.
Bạch Tuyết đã thủ diễn các vai trong những tuồng cải lương như: Vai Thúy Kiều trong vở Kim Vân Kiều, vai Thái hậu Dương Vân Nga trong vở Thái hậu Dương Vân Nga, vai Lệ Chi trong vở Lá thắm chỉ hồng, vai Loan trong vở Đoạn tuyệt, vai Tuyền trong vở Mưa rừng, vai Hoa Mộc Lan trong vở Hoa Mộc Lan tùng chinh, vai cô Lựu trong vở Đời cô Lựu, vai Diệu trong vở Nửa đời hương phấn, vai Lê Trường An trong vở Tuyệt tình ca, vai Tần nương trong vở Tần Nương Thất, vai Lý Chiêu Hoàng trong vở Lý Chiêu Hoàng, vai An Tư trong vở Thượng hoàng Trần Nhân Tông, vai Kiều Nguyệt Nga trong vở Lục Vân Tiên, vai bà Xinh trong vở Nguyệt Khuyết, vai bà Hạnh trong vở Tóc mai sợi vắn …
Hồng Nga
Nghệ sĩ Hồng Nga, chưa rõ họ tên thật, sinh năm 1945, tại Bình Dương, cha mẹ cô là dân phu cạo mũ cao su. Cha của Hồng Nga quê ở Thái Bình, Mẹ là người Hà Bắc, Hồng Nga được sanh ra ở miền Nam. Năm cô lên ba tuổi thì cha cô qua đời, mẹ cô sống ở quận tư, về sau tái giá nhưng gia đình cũng nghèo túng, Hồng Nga 12 tuổi phải đi gánh nước mướn để giúp mẹ có tiền nuôi các em.
Trong khi đi gánh nước mướn, cô ca ngêu ngao bài Cô bán đèn hoa giấy, học theo giọng ca của nữ nghệ sĩ Thanh Hương qua đài phát thanh Saigon phát trong các chương trình cổ nhạc. Một ông thợ hớt tóc biết đờn cổ nhạc, khen giọng ca của Hồng Nga nên dạy cho cô ca đúng nhịp nhàng. Sau đó, nhạc sĩ Tám Đen ở Cầu Dừa quận 4 xin Hồng Nga về làm con nuôi, ông dạy cho Hồng Nga ca đủ ba Nam, Sáu Bắc, Vọng cổ và các bài bản lớn. Ông hướng dẫn Hồng Nga đi ca cổ nhạc nơi quán Lệ Liễu trong khu giải trí trường Thị Nghè.
Sau đó Hồng Nga được ông cha nuôi hướng dẫn cho đi hát trong Ban cải lương của Văn Vĩ tr ên Đài phát thanh. Gánh hát cải lương đầu tiên của Hồng Nga đi hát là gánh Hằng Xuân – An Phước của bà Bầu Sáu Đặng, lúc nầy Hồng Nga còn mang nghệ danh là Kim Nga. Mãi đến khi Kim Nga ký hợp đồng hát cho đoàn Thống Nhất của ông Bầu danh ca Út Trà Ôn, bà Hồng Hoa, vợ hai của ông Út Trà Ôn đổi nghệ danh Kim Nga là Hồng Nga.
Hồng Nga đã diễn thành công qua các vai lẵng mùi tuồng Lưới Trời, Mắt em là bể oan cừu của soạn giả Vân An, vở Tần Thủy Hoàng, Phút sau cùng của Điền Long, vở tuồng Gả câm và người đẹp của soạn giả Hoài Nhân.
Nữ nghệ sĩ Hồng Nga chỉ đứng sau đào chánh Ngọc Bích, Ngọc Bích 18 tuổi, đẹp sắc sảo, giọng ca hay và ngọt, lại là đệ tử ruột của ông bầu Út Trà Ôn nên luôn luôn Ngọc Bích thủ vai chánh với Út Trà Ôn. Hồng Nga đóng vai kẻ thứ ba, lẵng mùi và độc, Hồng Nga diễn các vai nữ quyến rũ tranh đoạt tình rất hay, khi dịu ngọt tình tứ thì cũng thật là mùi, khi độc ác, thủ đoạn thì diễn cũng rất là sắc sảo.
Vì tài nghệ dễ nhập vào vai đào tính cách, có thể thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau của kẻ thứ ba tranh tình, lúc lẵng, lúc mùi, lúc độc nên khi Hồng Nga gia nhập những đoàn hát khác như Dạ Lý Hương, Hồng Nga không có đóng vai đào chánh, đào mùi dù cho giọng ca vọng cổ của Hồng Nga thật là mùi, thật điêu luyện.
Năm 1964, Hồng Nga ký hợp đồng về hát cho đoàn Dạ Lý Hương của Bầu Xuân, cô nổi danh vai cô giáo Lan trong vở Tuyệt tình ca của hai soạn giả Hoa Phượng - Ngọc Điệp. Với một giọng ca sâu lắng mượt mà, Hồng Nga trong vai cô Giáo Lan đã làm cho hàng ngàn khán giả rơi lụy, cảm thông cho tình yêu dang dở và số phận khổ đau của nhân vật.
Nữ nghệ sĩ Hồng Nga là diễn viên đa năng, đa diện. Cô diễn vai nào cũng hay, khi diễn những vai ác thì khán giả bị kịch tình lôi cuốn, rất căm ghét nhân vật ác đó. Khi Hồng Nga diễn các bà mẹ quê mùa, nghèo khổ hoạn nạn hay vai bà hoàng hậu nhân từ, Hồng Nga làm cho khán giả rơi lụy thương cảm cho số phận của nhân vật.
Nữ nghệ sĩ Hồng Nga là diễn viên đa năng, đa diện. Cô diễn vai nào cũng hay, khi diễn những vai ác thì khán giả bị kịch tình lôi cuốn, rất căm ghét nhân vật ác đó. Khi Hồng Nga diễn các bà mẹ quê mùa, nghèo khổ hoạn nạn hay vai bà hoàng hậu nhân từ, Hồng Nga làm cho khán giả rơi lụy thương cảm cho số phận của nhân vật.
Sau 1975, Hồng Nga có một vai ác để đời, vai bà mẹ chồng trong tuồng Duyên kiếp hát với cô dâu Thanh Ngân. Hồng Nga thủ diễn các vai nữ hề, cô giựt được giải Cù Nèo Vàng, Mai Vàng và giải những vai nữ hề hay nhất trong ba nam liền. Hồng Nga thành công lớn trong vai Cố Mẫu tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga.
Trong cuộc sống, Hồng Nga gặp quá nhiều nỗi đau trong cuộc đời chồng vợ, gảy đổ bốn lần, tự mình nuôi nấng năm đứa con trong những năm sân khấu cải lương mất khán giả, không còn đất diễn, Hồng Nga ngoài các lúc có show diễn, cô phải đi mua bán, tảo tần mới nuôi nỗi bầy con không cha.
Năm 18 tuổi, Hồng Nga lấy chồng và mang thai ngay sau đó. Tuy nhiên, mơ ước về một ngôi nhà ấm cúng để đêm đêm bên nhau chồng chồng vợ vợ lúc ấy là một chuyện quá xa vời.
Bà kể chồng bà cũng là một kép hát, ông đi theo đoàn của ông, bà theo đoàn của bà. Người vợ trẻ yêu chồng bằng lòng với việc vài ba bữa gặp nhau một lần. Hồng Nga vẫn tự mình kiếm tiền nuôi con. Tự mình kiếm tiền nuôi mình như lúc chưa có chồng.
Bà cũng có thêm cái cảm giác vui sướng khi cắc ca cắc củm kiếm thêm tiền đưa cho chồng xài, mà chưa một lần tự hỏi tại sao ông không hề có ý định giúp đỡ mẹ con mình, ngay cả khi vợ túng thiếu phải mượn tiền trả góp. Người con gái ngây thơ vẫn tưởng mình đang hạnh phúc cho đến một ngày chợt nhận ra người ấy chỉ lợi dụng mình mà thôi.
Cuộc chia tay đơn giản. Và nỗi đau đầu đời như một vết hằn trong cái bi kịch của sự trao gửi không đúng chỗ.
Người chồng thứ hai sống với nhau có tới ba mặt con trong những tháng ngày sóng gió mà bây giờ nghĩ lại Hồng Nga vẫn còn thấy tủi thân. Lúc đó bà bảo không hiểu sao cứ mỗi lần vợ có thai thì chồng lại bỏ nhà đi biền biệt.
Chỉ sau này xa nhau rồi Hồng Nga mới hiểu đơn giản là vì người chồng ấy chẳng có chút tình thương cũng chẳng có trách nhiệm. Cái gọi là vợ chồng chỉ là tự mình sinh con, nuôi con, đi hát khắp nơi kiếm tiền và những trận cãi cọ, ghen tuông triền miên.
Người chồng thứ ba rất yêu thương Hồng Nga. Hai người có thêm một con trai nữa nhưng hạnh phúc vẫn không mỉm cười. Ông bị sự quyến rũ của ma men, suốt ngày đắm chìm trong rượu. Say say tỉnh tỉnh, mỗi lần vợ buồn thì quỳ gối xin lỗi. Hồng Nga lại rớt nước mắt tha cho. Nhưng cuối cùng tình thương, tình yêu, sự nhẫn nhục ấy cũng chẳng thay đổi được gì...
Năm 1976, người sau cùng Hồng Nga gặp và yêu là một soạn giả nổi tiếng Mộc Linh. Bà yêu ông vì tài hoa và bởi nét phong trần. Bà đã ao ước mình giữ được mối tình này, hạnh phúc này. Nhưng... Hồng Nga kể: “Tôi đã thật sự có một quãng đời hạnh phúc. Nhưng rồi tính hào hoa, trăng gió và cái ngông cuồng của người cầm bút nổi danh, anh đã làm tôi đau khổ. Mười năm chung sống, chia tay trong năm phút. Anh nói đơn giản đã có người đàn bà khác. Thế là xong. Hôm sau khi tôi đi tập tuồng trở về, anh đã dọn đồ đạc đi hết. Nhìn căn nhà trống hoác, tôi biết từ nay tôi sẽ căm ghét lũ đàn ông bội bạc”.
Còn về con, 5 đứa trẻ ngày nào đã trưởng thành hết, do khoảng năm 1985, Hồng Nga gửi con cho bạn vượt biên, đứa 3 tuổi, đứa 5 tuổi, sang Thụy sĩ rồi mất tích từ đó, cho đến năm 1996 Hồng Nga sang Thụy sĩ trình diễn, được khán giả giúp tìm được 2 cô con gái, nhưng chỉ có cô Laura Nhung nhìn mẹ còn cô kia không. Hiện nay Hồng Nga có một người con trai, con dâu và cháu nội ở Việt Nam. Cô có con gái theo chồng ở Thụy Sĩ nên thỉnh thoảng cô đi Thụy Sĩ thăm con gái và các đứa cháu ngoại.
Cuộc sống về già của Hồng Nga được an nhàn hạnh phúc, có show diễn đều đều, khỏi lo cơm áo gạo tiền như thuở thanh xuân. Thỉnh thoảng Hồng Nga xuất ngọai du lịch, thăm con cháu. Hồng Nga cũng dành nhiều thì giờ làm công việc từ thiện, tham gia các show diễn của các chùa tổ chức để lập quỷ cứu trợ nạn nhân bị bảo lụt hoặc nghèo yếu neo đơn ở trong nước.
Diệu Hiền
Diệu Hiền tên thật là Lâm Thị Hiền, sinh năm 1945 tại Bạc Liêu, sớm mồ côi cha, sống với mẹ và cha dượng. Diệu Hiền bỏ nhà theo gánh hát năm 14 tuổi. 16 tuổi Diệu Hiền đã cùng nghệ sĩ Trương Ánh Loan chia nhau vai đào chính trên sân khấu đoàn hát Hoa Anh Đào - Kim Chưởng trong các vở Mặt trời đêm, Người Nhện xám, Kim Long thần chưởng, Thoại Khanh Châu Tuấn...
Đến năm 1960, với vai diễn cô ni của Mộng Vân thành công rực rỡ đã tạo cho cái tên Diệu Hiền trở thành nghệ danh theo bà suốt những năm tháng gắn bó với nghệ thuật sau này của bà
Năm 1962, nữ nghệ sĩ Diệu Hiền trở thành đào chính trong đoàn hát Thống Nhất của ông bầu kiêm danh ca Út Trà Ôn. Vai nữ tướng Triệu Thị Trinh trong vở Nhụy Kiều Tướng quân và vai Bùi Thị Xuân trong vở Nữ tướng Cờ Đào đem đến cho Diệu Hiền danh hiệu "Đệ nhất đào võ cải lương" thời bấy giờ.
Khoảng năm 1962, Út Hậu gia nhập đoàn Thống Nhất cùng diễn chung sân khấu với Diệu Hiền, hai người chung sống với nhau thành một cặp vợ chồng hạnh phúc, tiền bạc làm ra như nước nhưng không có cưới hỏi. Họ sanh được 5 người con, 2 trai, 3 gái. Ít lâu sau, Út Hậu bỏ đoàn Thống Nhứt của ông thầy Út Trà Ôn, gia nhập đoàn Kim Chung “Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt” của ông bầu Long.
Út Hậu được ông bầu Long trọng dụng, cho nắm đoàn cải lương Kim Chung B, chuyên đi lưu diễn các tỉnh miền Trung, do đó anh và Diệu Hiền xa nhau, Út Hậu sống rất bay bướm, chạy theo nhiều bóng hồng và phụ rẩy vợ con.
Ở thời kỳ hoàng kim nghệ sĩ Diệu Hiền có thể mua một căn nhà trị gía mấy chục cây vàng, bà còn có thể mua thêm nhà và xe taxi cho anh em trong gia đình. Đến thời kỳ đi xuống bà phải bán rẻ căn nhà đã từng mua , sống trong căn hộ chưa đầy 70 m2 sống chung với 10 nhân khẩu.
Sau năm 1975, đời sống cải lương khó khăn, nghệ sĩ Diệu Hiền theo các gánh hát đi diễn tỉnh để mưu sinh, con do bà mẹ trông nom, do đó con gọi Diệu Hiền là “chị” trong nhiều năm, khi chúng còn nhỏ.
Năm 1979, một tai nạn do hỏa hoạn đã khiến tay trái của Diệu Hiền bị phỏng nặng. Kể từ đó Diệu Hiền ít tham gia các đoàn hát, sống lặng lẽ cùng gia đình.
Nghệ sĩ Diệu Hiền đã tham gia các đoàn hát như Hoa Lan - Xuân Liễu, Thống nhất, Kim Chung, Hương Tràm, Tháp Mười, Sài Gòn 2, Phước Chung,...
Nghệ sĩ Diệu Hiền đã diễn để lại ấn tượng trên sân khấu cải lương trong những vở tuồng: Nhụy Kiều tướng quân, Nữ tướng cờ đào, Người nhện xám,Thoại Khanh Châu Tuấn
Nghệ sĩ Diệu Hiền từng được diễn chung với hầu hết các nghệ sĩ có tên tuổi như Út Trà Ôn, Thanh Hải , Minh Cảnh, Tấn Tài , Út Hiền, Minh phụng, Minh Vương, Hoài Thanh, cùng với sự may mắn của mình, bà đã được những bậc thầy của cải lương truyền dạy như Bảy Nhiêu, Năm Châu, Ba Vân, Phùng Há, Tám Vân, Hoàng Nô, Út Trà Ôn, Hoàng Giang,...
Năm 2001, ngày Út Hậu sắp từ trần, nữ nghệ sĩ Diệu Hiền và các nghệ sĩ như Thanh Tuấn, Thanh Phú, Quốc Trầm, Hề Sa … có đến thăm. Diệu Hiền uống một chung rượu rồi ca bài Tần Quỳnh Khóc Bạn để tiễn đưa người chồng vừa thương vừa hận của mình sang bên kia thế giới.
Diệu Hiền đúng là một tài năng rất lạ. có chất giọng sang sảng, ca rất mạnh mẽ, hào hùng, cho nên Diệu Hiền chuyên đóng kép võ. Nhưng dù có ca mạnh mẽ tới đâu thì Diệu Hiền vẫn đem tới sự ngọt ngào, rung động cho khán giả, chứ không khô khan, võ biền. Diệu Hiền ca bài võ mà người ta khóc mới hay. Bài Tần Quỳnh khóc bạn là câu chuyện kết nghĩa giữa Tần Quỳnh, La Thành và Đơn Hùng Tín, sau đó La Thành xử trảm Đơn Hùng Tín, khiến Tần Quỳnh đau đớn vì nghĩa đệ huynh. Bài soạn giả Viễn Châu viết cho giọng nam nghệ sĩ Thanh Hải ca, nhưng Diệu Hiền lại dám hát giọng nữ, vậy mà khán giả không hề thấy lượng sượng tí nào, lại còn mê mẩn, nghẹn ngào. Người sành vọng cổ sẽ thấy những nhấn nhá và rung ngân của Diệu Hiền khiến người nghe sởn cả gai ốc nhưng “đã” tận ruột gan. Tác giả Viễn Châu đi nghe ở phòng trà, đã tặng cho ca sĩ Diệu Hiền một cành hoa với 500 đồng.
Diệu Hiền tìm niềm vui tuổi già nơi cửa Phật. Từ lâu bà cùng một người con gái tu tại gia và chỉ đứng hát trên sân khấu nhà chùa vào mỗi dịp ngày rằm, đầu tháng.
Hiện nay Diệu Hiền đã sống ở Viện dưỡng lão các nghệ sĩ, dù sức khỏe yếu nhưng Diệu Hiền vẫn hướng dẫn diễn xuất võ thuật cho một số nghệ sĩ trẻ. Nghệ sĩ Diệu Hiền tâm sự: "Tôi luôn mong được ra đi theo Phật sớm ngày nào hay ngày ấy. Mọi vinh quang, đau khổ, hạnh phúc ở đời tôi đều đã nếm trải, nên không còn gì để lưu luyến".
Trương Ánh Loan
Cho đến nay chưa rõ Trương Ánh Loan tên thật là chi, nhưng có thể đó là họ và tên thật, còn năm sinh cũng chưa rõ, có thể đoán là vào khoảng cuối thập niên 1940.
Bước vào nghề từ đoàn tuồng cổ của Bầu Thắng, rồi trải qua những sân khấu Mai Lan Phương- Ngọc Chiếu, Thanh Tao, Hữu Tâm, Minh Hùng- Như Ngọc, đều là những đoàn hát nghiêng về thể loại tuồng màu sắc, hương xa nổi tiếng, mà nữ diễn viên chính phải có nét đẹp sắc sảo, vũ đạo công phu. Hai yếu tố này thì Trương Anh Loan có thừa. Cô đẹp từ gương mặt đến hình thể và mua rất giỏi, nên nổi tiếng với những vai đào võ, Trương Anh Loan đẹp lộng lẫy dưới ánh đèn sân khấu.
Trương
Anh Loan lên sân khấu là toả ngay sức gợi cảm cuốn hút người xem. Bởi vậy, năm
1961 Trương Anh Loan về đoàn cải lương Thủ Đô, thì cô đã là một hiện tượng sân
khấu với nhiều vai diễn hấp dẫn khán giả bằng giọng ca, điệu múa. Trương Ánh
Loan là một trong những nghệ sĩ trụ cột đưa đoàn cải lương Thủ Đô đi lên cùng
với các nghệ sĩ khác như
Ngọc Hương, Thanh Thanh Hoa, Như Ngọc là những bạn diễn ăn ý.
Trên sân khấu Thủ Đô, Trương Ánh Loan
đã cùng nghệ sĩ Diệu Hiền chia nhau vai diễn.
Năm 1963, Trương Ánh Loan đoạt Huy chương Vàng giải Thanh Tâm,
cùng với bạn diễn trân sân khấu Thủ Đô là nghệ sĩ Tấn Tài đồng thời với các đồng nghiệp khác
như nghệ sĩ Bạch Tuyết của đoàn
Thống Nhất, nghệ sĩ Kim Loan, tức Mộng
Tuyền và nghệ sĩ Thanh Tú của đoàn
Thanh Minh Thanh Nga, nghệ sĩ Diệp Lang của đoàn
Kim Chưởng. Số người đoạt huy chương vàng Giải Thanh Tâm năm nầy nhiều nhất o
với các năm khác, gồm có 6 nghệ sĩ, 3 nam và 3 nữ.
Giọng ca của Trương Ánh Loan ngọt ngào mà mạnh khỏe , tròn vành, rõ chữ , Trương Ánh Loan có thâu đĩa Thôi Tử thí Tề Quân. Tình Chú Thoòng với Tùng Lâm, Xuân Phát và Người Khách Lạ do hãng dĩa Sơn Ca cùng tài danh Út Trà Ôn, tuồng San Hậu đóng cùng Thanh Nga, Ngọc Giàu, Phượng Liên, tuồng Quỷ Bão đóng cùng Phương Quang, Phượng Liên, Hũu Phước…
Trương Ánh Loan có gia đình sớm, trước tiên Trương Ánh Loan kết duyên với soạn giả Tây Giang Tử và qua một thời gian sống rất êm ấm có con cái vài đứa với nhau, thì soạn giả nhà ta vì bận binh nghiệp nên không còn viết tuồng nữa, thế là vợ chồng dần dần xa nhau để rồi sau cùng dứt khoát duyên nợ. Kế đó Trương Ánh Loan làm lại cuộc đời với soạn giả Viễn Hùng, người ta tưởng rằng cặp này sẽ lâu bền, không ngờ biến cố Mậu Thân xảy ra, chồng cộng tác một nơi, vợ cộng tác một ngả, để rồi Trương Ánh Loan rời bỏ luôn sân khấu đi làm nghề khác và cũng chào lui với Viễn Hùng, khiến anh này thở phào chán nản. Sau đó cô lấy một người chồng không phải trong giới nghệ thuật, cuộc hôn nhân này làm cho cô đau khổ và năm 1979, Trương Ánh Loan đã tự tử chết tại Châu Đốc do những chuyện buồn trong gia đình.
Nghệ sĩ Trương Ánh Loan một người tài sắc trên sân khấu cải lương, nhưng hồng nhan bạc mệnh. để lại nỗi tiếc thương cho bao khán giả với bao hình tượng sân khấu đậm nét trong lòng người xem cùng một nổi oan tình son sắc của mình. Ngoài nghệ thuật biểu diễn, Trương Anh Loan còn góp công đào tạo những tài năng kế thừa như nghệ sĩ Vũ Linh, một diễn viên xuất sắc sau nầy.
Mộng Tuyền
Mộng Tuyền tên thật là Huỳnh Thị Kim Loan, sinh ngày 23 tháng 5 năm 1947 tại Cần Thơ, xuất thân trong gia đình đông con, làm nông , bà là người con thứ ba trong số 9 người con trong gia đình. Ngay từ nhỏ Kim Loan đã phải phụ gia đình chăm lo cho các em của mình.
Kim Loan bồi hồi kể: “Nhà tôi nghèo lắm. Ba má tôi có đến 8
người con, tôi là chị thứ ba nên thường được mẹ giao việc hát đưa em ngủ. Thưở
còn nhỏ không hiểu sao tôi mê những bài vọng cổ qua giọng ca của các nghệ sĩ
như: Hữu Phước bản Ông giáo làng, Út
Trà Ôn bản Gánh nước đêm trăng, Thanh
Sơn bản Trái gùi Bến Cát, Thanh Hương
bản Cô bán đèn giấy hồng… nghe và tập
ca theo. Đây là đặc điểm chung của thế hệ nghệ sĩ chúng tôi, những xuất phát
điểm gần giống nhau của một số đồng nghiệp cùng trang lứa như tôi, chị Lệ Thuỷ,
Kim Ngọc, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu…
Bất ngờ một hôm có anh thầy đờn tên là Ba Cứ ở Tân Quới – Cả Vồn – Bình Minh sang làng tôi chơi, nghe tôi hát ru em, ông hỏi thăm người bạn là láng giềng của gia đình tôi, người này thuật lại hoàn cảnh của tôi, ông thương tình ngõ lời xin tôi làm con nuôi, rồi đem về Tân Quới dạy ca theo đờn.
Ông rất giỏi về đờn kìm và violon nên sau hai năm tôi đã ca rành ba nam, sáu bắc, biết ca theo nhịp đờn 20 câu vọng cổ. Năm 9 tuổi, tôi về lại Cần Thơ, ba tôi lập ban đờn ca tài tử mang tên Kim Loan, thứ bảy và chủ nhật hằng tuần biểu diễn phục vụ bà con nông dân những bài bản cải lương do ba tôi viết lời.
Năm tôi 12 tuổi, một sự kiện xảy ra trong đời tôi, đó là gánh hát Thủ Đô của ông bầu Ba Bản về rạp Minh Châu – Cần Thơ biểu diễn, ông bầu nghe tôi ca hay đã tìm đến nhà xin ba tôi cho theo đoàn hát.”
Sau một năm thử sức, năm 1961, Kim Loan đầu quân cho đoàn Hoa Sen tại Sàigòn của ông bầu Bảy Cao. Còn nhỏ, chân mang giày cao gót hơn cả tấc, ngực độn cả lớp mút cho giống thiếu nữ, tập quan sát các đàn chị như Diệu Hiền, Ánh Hồng để hóa thân vào các vài người lớn. Bất ngờ nghệ sĩ Diệu Hiền – đào chánh của Hoa Sen nghỉ hát để về đoàn Thống Nhất, tôi từ vai phụ được đôn lên đóng vai chính. Và nhờ vai Huyền trong vở Nhà chợ một đêm mưa của soạn giả Hoàng Hiệp, vai diễn đã để lại đầy ấn tượng cho khán giả, đã đưa Kim Loan bước ra ánh sáng sân khấu nơi đô thành.
Năm 1962, Kim Loan đầu quân cho đoàn Phương Nam và thành công khi thủ vai Xuân Hoa trong tuồng Đông về lạng xác hoa và Phương Loan trong vở Nửa kiếp oan thù.
Năm 1953, được sự đưa
đường dẫn lối của soạn giả Nguyễn Phương, bà bầu Thơ đã mời Kim Loan về đoàn
Thanh Minh - Thanh Nga diễn chung bên cạnh một Thanh Nga tài sắc, một Ngọc Giàu
hát hay, diễn giỏi, Kim Loan vẫn tỏa sáng và có vị trí của riêng mình., Kim Loan thường được giao những vai
quan trọng trong các vở tuồng trên sân khấu này như vai sơn nữ Mộng Tuyền trong
vở Mùa xuân còn mãi, vai Công chúa Ái
Liễu Thi trong vở Phương Dung hoàng hậu,
vai Tống Vân Trang trong vở Bao Công xử
án Trần Thế Mỹ của soạn giả Nhị Kiều và nhóm Bông Lau…Chính nhờ khả năng
trình diễn xuất sắc khi thủ vai vũ nữ Thu Lan trong vở Phu tử tòng tử, Kim Loan đã được trao tặng Huy chương vàng giải
Thanh Tâm năm 1963, cùng năm với Bạch Tuyết, Trương Ánh Loan, Tấn Tài, Thanh Tú,
Diệp Lang.
Từ sau vở Mùa xuân còn mãi, Kim Loan được khán giả thương mến qua vai sơn nữ Mộng Tuyền, thân phụ Kim Loan đã quyết định đổi nghệ danh cho con là Mộng Tuyền. Lúc đó Kim Loan không chịu, vì nghĩ khán giả đã quen với tên Kim Loan, nhưng vì thân phụ đã nhất quyết phải đổi, có thể để tránh trùng tên với ca sĩ Kim Loan bên tân nhạc thời bấy giờ.
Năm 1965, Mộng Tuyền gia nhập vào công ty Tiếng chuông vàng Thủ Đô - Kim Chung 1, đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ qua vai Tô Ánh Tuyết trong vở Mạnh Lệ Quân, Bạch Phù Dung trong Thượng phương bảo kiếm,..
Năm 1966, Mộng Tuyền
bắt đầu tham gia vào lĩnh vực đóng phim, bộ phim đầu tiên cô tham gia đó là
phim hành động "11 giờ 30 "
của đạo diễn Lê Hoàng Hoa vai diễn đã để lại ấn tượng đặc biệt. Sau đó, Mộng
Tuyền tiếp tục tham gia vào vai Loan trong Chân
trời tím, bộ phim đã đoạt giải ba, giải vàng về văn học nghệ thuật và đạt
doanh thu gần 50 triệu đồng. Rồi sau đó Mộng Tuyền tham gia vào các bộ phim như
Gánh hàng hoa, Cô Nhíp, Trang giấy
mới,...
Năm 1972, Mộng Tuyền
được trao giải “Ảnh hậu xuất sắc” qua bộ phim “Chân trời tím”.
Sau năm 1975, Mộng Tuyền đi diễn ở các đoàn: Trúc Giang, Phước Chung, Thanh Nga. Mộng Tuyền đã tham gia nhiều phim và sân khấu cải lương, hai vai diễn ở hai lãnh vực nghệ thuật cách mạng mà Mộng Tuyền nhớ nhất đó là: Vân trong vở Bóng tối và ánh sáng – Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu Chuyên nghiệp toàn quốc năm 1980 tại Hải Phòng, vai bác sĩ Mai Trân – nói về bác sĩ Ngọc Phượng – bệnh viện Từ Dũ phim Tình yêu của em – đoạt giải Bông sen vàng năm 1982. Và đã thực hiện hai đêm live show tại Cần Thơ và Tp. HCM.
Tháng 9 năm 1988, Mộng Tuyền định cư ở Pháp, hầu như năm nào cô cũng về Việt Nam để thăm lại quê hương. và tổ chức biểu diễn các buổi biểu diễn nhỏ, live show.
Tuy là một bóng hồng tài sắc, nhưng nữ nghệ sĩ Mộng Tuyền kém may mắn trong đường tình duyên. Lúc trẻ, nhiều soạn giả, công tử, đại gia, thiếu gia... kể cả những “ông lớn” theo đuổi “người đẹp Tây Đô” này. Sau biến cố Tết Mậu Thân, Mộng Tuyền lên xe hoa với Đại tá quân đội VNCH Nguyễn Văn Nam. Mộng Tuyền sống bên chồng với lòng biết ơn, sự trung thành, hy sinh. Thời gian này, Mộng Tuyền thường đi nhà thờ Fatima vì cô đau khổ trước những đớn đau của cuộc đời mà khi còn là một cô đào hát trinh nguyên, Tuyền không bao giờ biết được.
Mộng Tuyền tâm sự: “Năm Mậu Thân 1968, thiết quân luật, 6 giờ chiều đã đóng cửa không cho ra đường, Mộng Tuyền không đi hát được đành phải lấy chồng để có tiền nuôi đại gia đình mấy chục con người. Nghệ sĩ hồi đó không khôn lanh như bây giờ, làm hôm nay tiêu hết hôm nay, nghỉ hát bữa nào đứt tiền bữa đó, dù catse đóng phim và đi hát được rất nhiều tiền. Chồng của Tuyền là quan chức, trước khi cưới, ông ta đã cho Mộng Tuyền một cặp táp samsonite tiền, tới 10 triệu đồng. Vàng hồi đó có 3.000 đồng một lượng, nói vậy mới thấy 10 triệu đồng lớn tới cỡ nào. Tuyền để lại tất cả tiền bạc lại cho cha mẹ, kéo theo cả đàn em qua sống nhà chồng. Tuyền không có tình yêu nhưng có sự biết ơn”.
Cuối 1973, trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng đúng 18 tháng, Mộng Tuyền âm thầm dắt các em rời khỏi mái nhà chung sống với chồng, cô không về nhà cha mẹ mà thuê một căn hộ cao cấp nằm trên đường Mạc Đĩnh Chi ngày nay để sống cùng các em.
Sau năm 1975, Mộng Tuyền sống như vợ chồng với bầu Xuân đoàn Dạ Lý Hương, rồi sau đó cả hai lặng lẽ chia tay mà phần thua thiệt và mang tiếng, người đẹp này cam phận lãnh một mình.
Đến năm 1980, Mộng Tuyền tái hôn cùng một thương gia, vốn là bạn cũ, rồi cùng chồng sang Pháp sinh sống. Họ kinh doanh đồ cổ tại quận 13, Paris. Cuộc hôn nhân này tan vỡ sau 20 năm, Mộng Tuyền cô đơn một mình.
Tình yêu tưởng như đã chết trong tim của người nghệ sĩ xinh đẹp, nhưng rồi Mộng Tuyền lại gặp người chồng hiện tại và theo chồng sang Úc sinh sống. Mộng Tuyền chủ yếu ở nhà làm nội trợ, khi buồn, cô ra tiệm bán trái cây của người em để phụ giúp hoặc tham gia ca hát tại các buổi sinh hoạt của Việt kiều.
Gần đây Mộng Tuyền về lại Viêt Nam, tham gia đóng phim Tôi là ngôi sao, ra CD Nhớ mãi mưa rừng, thực hiện liveshow Về với quê hương rất được khán giả yêu thích.
Hiện nay Mộng Tuyền sinh sống tại Úc và kinh doanh khách sạn tại Việt Nam.
Phượng Liên
Nghệ sĩ Phượng Liên tên thật là Lữ Phụng Liên, sanh năm 1947, tại quận Phụng Hiệp tỉnh Cần Thơ, nay là tỉnh Hậu Giang. Thân phụ cô là Hạ sĩ Nguyễn Tùng Sơn, ông bị tử trận 2 tháng sau khi có con gái đầu lòng. Người bạn thân của thân phụ cô đi làm khai sanh, nên cô mang họ của ông nầy.
Phượng Liên học trường Tiểu học Đạt Đức ở Cần Thơ. Năm cô 12 tuổi, Phượng Liên tham gia Ban Văn nghệ Tây Đô của nhà trường, nổi danh ca sĩ trong các chương trình văn nghệ học đường do nhà trường tổ chức gây quỹ giúp học bổng cho các sinh viên nghèo trong tỉnh. Nghệ sĩ Phước Hậu phát hiện giọng ca khỏe và lạ của Phượng Liên nên dạy cho Phượng Liên ca vọng cổ. Sau đó soạn giả Điêu Huyền giới thiệu cho Phượng Liên gia nhập đoàn hát cải lương Kiên Giang. Ông trưởng ban cổ nhạc đoàn Kiên Giang dạy cho Phượng Liên ca vọng cổ và các bài bản cổ nhạc khác. Phượng Liên rất sáng dạ, đêm đêm ngồi bên cánh gà coi hát, học theo cách ca cách diễn của các nghệ sĩ trong đoàn, Phượng Liên thuộc nhiều vai tuồng nên khi có nghệ sĩ bịnh hay vắng mặt, Phượng Liên được yêu cầu hát thế vai, những lần thế vai cấp bách đó, Phượng Liên đều hát thành công.
Năm 1960, Phượng Liên gia nhập đoàn hát Tinh Hoa của bà Bầu Mười Cơ, hát vai đào nhì. Một năm sau, năm 1961, Phượng Liên đã là đào chánh của đoàn hát Tuấn Kiệt, trong tuồng Quán Trọ Hoàng Hôn, hát cặp với nghệ sĩ Tuấn Kiệt, sau này đổi tên là danh ca vọng cổ dài hơi Châu Thanh. Nữ nghệ sĩ Phượng Liên được các ký giả kịch trường tặng cho mỹ danh là Viên Ngọc Quý Miền Tây khi cô hát tuồng Quán Trọ Hoàng Hôn tại rạp Nguyễn Văn Hảo.
Năm 1963, nữ nghệ sĩ Phượng Liên ký hợp đồng với bà bầu Kim Chưởng về hát vai đào chánh thế cho nữ nghệ sĩ Ngọc Hương.
May mắn lớn nhứt của Phượng Liên là có được các danh sư truyền nghề hát. Lần thứ nhứt Phượng Liên được soạn giả lão thành Điêu Huyền dạy hát và bố trí cho các nhạc sĩ dạy cho cô ca. Sau đó Phượng Liên được sự chỉ dạy của soạn giả Nhựt Quang, chồng của bà bầu Mười Cơ. Và khi Phượng Liên đi gánh hát Kim Chưởng thì chính bà bầu kiêm nghệ sĩ Kim Chưởng dạy hát cho Phượng Liên. Năm 1966, Phượng Liên đoạt được huy chương vàng giải Thanh Tâm trong vai diễn đào lẳng tuồng Mặt Trời Đêm, hát trên sân khấu Kim Chưởng.
Phượng Liên cao ráo, dáng điệu khoan thai, phong cách sang trọng, da trắng như tuyết, mịn như nhung, miệng cười như hoa nở, đôi mắt tình tứ, liếc bén như dao, một cô đào hội đủ các ưu điểm về “thinh” và “sắc”, lại được danh sư truyền nghề hát, Phượng Liên đoạt được huy chương vàng giải Thanh Tâm là một điều có thể thấy trước. Vì được rèn luyện trong lò sân khấu tuồng chưởng và hương xa nên diễn xuất của Phượng Liên ồ ạt, sợ nguôi sân khấu. Trong thập niên 60, Phượng Liên diễn các vai đào lẳng, đào mùi, quyến rũ, duyên dáng.
Kể từ đầu thập niên 70 trở về sau, Phượng Liên diễn các vai đào mùi, đào chánh trong nhiều tuồng xã hội. Cô diễn đạt tâm lý nhân vật một cách tinh tế, lối diễn thâm trầm, sâu lắng, đào sâu tâm lý nhân vật. Phượng Liên và Thành Được xuất sắc trong các trích đoạn tuồng Tuyệt Tình Ca.
Phượng Liên từng diễn vai đào chánh, hát cặp với các nam nghệ sĩ tài danh Hữu Phước, Thành Được, Hùng Cường, Dũng Thanh Lâm, Tấn Tài, Minh Vương, Minh Cảnh, Minh Phụng, Thanh Tú… Giọng ca của Phượng Liên vẫn giữ âm sắc tươi mát và truyền cảm, làm nên một phong cách rất riêng của Phượng Liên nên khách mộ điệu cải lương ở Hoa Kỳ gọi Phượng Liên là giọng ca vàng miền Nam Cali.
Về gia đình, năm 1964, Phượng Liên kết hôn với nghệ sĩ Diệp Lang, sanh một trai, một gái. Đến năm 1968, hôn nhơn gảy đổ. Trong thập niên 70, Diệp Lang có vợ khác, Phượng Liên bước thêm bước nữa với ông Nguyễn Đình Vinh, đại tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Nữ nghệ sĩ Phượng Liên cộng tác với đoàn hát Dạ Lý Hương, có những vai hát để đời qua các tuồng Trăng Thề Vườn Thúy, Cho Trọn Cuộc Tình, Cánh Hoa Chùm Gởi, Tuổi Hồng Cho Em, Tuyệt Tình Ca, Nắng Thu Về Ngõ Trúc…
Nỗi buồn duyên phận lỡ làng cuối thập niên 60 ảnh hưởng sâu sắc đến giọng ca và phong cách diễn xuất của Phượng Liên, giọng ca ngọt ngào của Phượng Liên thêm sâu lắng, ngậm ngùi và lấy được nước mắt của khán giả qua các cảnh bi thương của nhân vật mà Phượng Liên thủ diễn.
Năm 1976, Phượng Liên gia nhập đoàn cải lương Saigon 1, hát xuất sắc qua các tuồng Phụng Nghi Đình, Đời Cô Lựu, Bình Tây Đại Nguyên soái, Nghêu Sò Ốc Hến… Thời gian này Phượng Liên cố thu xếp thì giờ để đi thăm nuôi chồng là ông Nguyễn Đình Vinh bị bắt ở tù trong trại cải tạo ở núi rừng miền Bắc. Khi ông Vinh ra khỏi trại cải tạo, ông và Phượng Liên là đôi vợ chồng hợp pháp nên Phượng Liên được cùng ông Vinh đi định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO trong thập niên 1990.
Hiện nay vợ chồng cô Phượng Liên có một ngôi nhà khang trang ở gần khu Phước Lộc Thọ, cuộc sống tự do, sung túc, Phượng Liên cùng các bạn nghệ sĩ định cư ở Hoa Kỳ hát những trích đoạn cải lương hoặc ca vọng cổ gợi nhớ quê hương, có thêm thu nhập và gây quỹ từ thiện.
Tư gia của Phượng Liên hiện nay là chốn đi về của những đồng nghiệp từ xa đến hoặc từ Việt Nam sang như: Lệ Thủy, Ngọc Giàu…Đó cũng là nơi tập tuồng hàng đêm của nghệ sĩ mỗi khi có show trình diễn đó đây.
Người trong giới nói là Phượng Liên được tổ đãi, ngay bước đầu khởi nghiệp Phượng Liên đã được nhiều may mắn. Giọng ca có sức truyền cảm đặc biệt và vang lộng của Phượng Liên cộng với cái nhan sắc trời cho của cô gái đẹp Tây Đô là bệ phóng đưa ngôi sao Phượng Liên vút cao trên bầu trời nghệ thuật.
Thanh Nguyệt
Nghệ sĩ Thanh Nguyệt tên thật là Nguyễn Thị Thanh Nguyệt, sanh ngày 17 tháng 9 năm 1947, ở xã Vĩnh Lợi,tỉnh Bạc Liêu. Cha là ông Nguyễn Văn Xinh, thợ xây cất nhà, mẹ là bà Vưu Thị Lành, buôn bán. Thuở nhỏ Thanh Nguyệt được vào Ban Đồng Nhi ca trong các buổi cúng lễ của Thánh Thất Cao Đài Bạc Liêu. Giọng ca của Thanh Nguyệt đã khiến cho ông nhạc sĩ đàn kìm Năm Nhu trong Thánh thất chú ý, nên ông tìm đến nhà Thanh Nguyệt để thu nhận Thanh Nguyệt làm đệ tử. Ông dạy cho Thanh Nguyệt ca đủ ba Nam, sáu Bắc và vọng cổ. Sau đó, được người bạn của cha giới thiệu Thanh Nguyệt ca trên Đài phát thanh tỉnh Bạc Liêu, mỗi tuần ca hát một lần, thính giả rất thích thú.
Năm 1962, Thanh Nguyệt được giới thiệu vào đoàn hát Hoa Sen. Ông Bầu Bảy Cao sau khi nghe thử giọng ca, ông nhận Thanh Nguyệt vào đoàn hát và giao Thanh Nguyệt cho nữ nghệ sĩ đàn tranh Tuyết Mai rèn luyện thêm theo lối ca hát trên sân khấu. Đêm đêm Thanh Nguyệt ngồi bên cánh gà, theo dõi và học các lối diễn của các nghệ sĩ đàn anh đàn chị.
Đoàn hát Hoa Sen của ông bầu Bảy Cao là một đoàn hát đại ban, lúc đó Hoa Sen đã không còn hát các tuồng chiến tranh mà chuyển qua diễn các tuồng xã hội cận đại như: Bến hẹn năm xưa, Sanh Dưỡng đạo đồng, Người thám tử què, Người Mẹ Việt Nam.... Thành phần diễn viên thời đó có: NS Bảy Cao, Việt Kiều, Minh Luông, Huỳnh Minh, Tuấn Kiệt, Vân Nam, Điền Sơn, Đắc Thành, hề Văn Hường, Phượng Hoàng,… về nữ diễn viên có Kim Luông, Ngọc Hạnh, Ánh Hồng, Diệu Hiền, Kim Loan, Thùy Lan…. Đào chánh đoàn Hoa Sen, nữ diễn viên Ngọc Hạnh bất ngờ xin nghĩ, ông Bầu Bảy Cao cấp tốc tập cho Thanh Nguyệt thế vai của Ngọc Hạnh trong tuồng Bến hẹn năm xưa. Lần đầu tiên bước ra sân khấu, Thanh Nguyệt lại phải hát thế một vai đào chánh, nhờ từ lâu Thanh Nguyệt theo dõi và học tuồng bên cánh gà nên Thanh Nguyệt thành công trong vai diễn. Ông Bầu Bảy Cao giao cho Thanh Nguyệt hát chánh thêm trong các tuồng Sanh dưỡng đạo đồng, Người mẹ Việt Nam.
Do tiền lương ở Hoa Sen thấp và không có Hợp Đồng, nên năm 1964, Thanh Nguyệt cần tiền giúp cho gia đình, đã rời đoàn Hoa Sen đầu quân cho đoàn Kim Chưởng với Hợp đồng 20.000 đồng trong 2 năm.
Lúc đó đoàn Kim Chưởng có các diễn viên: Phương Quang, Thanh Nhàn, Trường Xuân, Dũng Thanh Lâm, Diệp Lang, Phi Hùng, Hề Minh, hề Vui…Về dàn nữ diễn viên có: Phượng Liên, Trương Ánh Loan, Kim Liên, Thanh Nguyệt…
Thanh Nguyệt đã hát qua những vở: Người gọi đò bên sông vai Nhật Thường Dung, Mười đêm hương lửa vai Cát Dung, Quỷ Bảo vai Thất Hồn Nhân… Và Thanh Nguyệt nổi danh qua vai Tiểu Long Nữ trong tuồng Song long thần chưởng, do đó được giới thiệu tham gia giải Thanh Tâm năm 1964.
Đến vòng chung kết, NS Thanh Nguyệt đứng hàng thứ ba, sau nghệ sĩ Lệ Thủy và Thanh Sang. Năm 1964, giải thưởng Thanh Tâm chỉ phát hai giải Huy chương vàng nên Lệ Thủy và Thanh Sang được trao giải. Thanh Nguyệt rớt năm đó và phấn đấu cho năm kế tiếp. Thanh Nguyệt nổi danh qua vai Gia Cát Anh, tuồng Thiên hạ đệ nhất kiếm và đúng như lời dự đoán của báo giới và công chúng năm 1965 Thanh Nguyệt đoạt huy chương vàng giải Thanh Tâm.
Soạn giả Nguyễn Phương nhận xét: “Chỉ sau ba năm đi hát qua hai đoàn Hoa Sen và Kim Chưởng, nữ nghệ sĩ Thanh Nguyệt đã vinh dự đoạt được huy chương vàng giải Thanh Tâm, một giải thưởng sân khấu mà các nam nữ nghệ sĩ cải lương đều mơ ước.
Buổi phát giải Thanh Tâm 1965, Thanh Nguyệt hát trên sân khấu Dạ Lý Hương vở Bụi mờ ải nhạn, được khán giả và ký giả kịch trường nhiệt liệt khen ngợi.
Năm 1966, hết hợp đồng với Kim Chưởng, Bầu Long Kim Chung mời Thanh Nguyệt về hát với 250.000 đồng, hát trong đoàn Kim Chung 1 với các nghệ sĩ Kim Chung, Bích Hợp, Kim Tuyến, Như Ngọc, Tấn Tài, Thanh Hải, Hoài Trúc Phương, Minh Đạt, Ngọc Toàn, Quang Hữu, hề Văn Hường và Ba Hội. Thanh Nguyệt đã hát ở đoàn Kim Chung 1 các tuồng: Đường Minh Hoàng – Dương Quí Phi, Lưới tình, Kiếm khách Cao Đại Sơn, Thoại Ba công chúa, Tóc gởi sân chùa….
Đến năm 1968, Thanh Nguyệt sang hát ở đoàn Kim Chung 5 qua các tuồng: Bão cát, 14 đêm tình, Thằng điên và nàng công chúa.
Năm 1971, Thanh Nguyệt cộng tác với đoàn Thái Dương của bà Bầu Tiêu Thị Mai và năm 1972, được mời đi biểu diễn cải lương ở Hội Chợ nước Lào.
Năm 1974, hát ở đoàn Tiếng Hát Dân Tộc của bầu Năm Cư các tuồng: Tuổi hồng cho em, Chuyện tình An Lộc Sơn, Mạnh Lệ Quân, Mùa thu lá bay….
Sau năm 1975, Thanh Nguyệt về hát cho các đoàn hát Trung Hiếu, Thanh Minh, Saigon 1, Trần Hữu Trang, đoàn 2-84 và thu nhiều vở vidéo cải lương như: Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Qua cầu đắng cay, Lan và Điệp, Nước biển mưa nguồn…”.
Nghệ sĩ Thanh Nguyệt được mời thu video cải lương rất nhiều, chuyên đóng các vai bà mẹ nông dân suốt đời chịu thương chịu khó hy sinh vì chồng vì con. Với phong cách diễn xuất chân thật, giọng ca trầm ấm, lấy nước mắt khán giả, nên Thanh Nguyệt được các đạo diễn tin cậy, mời hóa thân vào các số phận bà mẹ hiền, gặp nhiều bi kịch.
Thanh Nguyệt gá nghĩa với soạn giả Mộc Linh, một soạn giả nổi danh trong giới cải lương, có một con trai tên Thế Phi. Tuy nhiên cuộc hôn nhân này đã không kéo dài. Sau đó nhiều năm, Thanh Nguyệt tái giá với nghệ sĩ Quốc Nhĩ, đồng nghiệp trong đoàn hát Thanh Minh. Quốc Nhĩ rất thương Thế Phi, chăm sóc dạy dỗ như con ruột của mình. Thế Phi cũng yêu thương Quốc Nhĩ như cha ruột của mình.
Thế Phi có thời gian học hát trong đoàn Đồng Ấu Trần Hữu Trang, hợp cùng với Bảo Ngọc thành một cặp diễn viên đầy triển vọng. Thế Phi sáng tác nhiều kịch bản cải lương như: Khúc nhạc tương phùng, được thu vidéo và được khán giả và báo chí ngợi khen. Thế Phi đã nối nghiệp cha làm nghề soạn giả tuồng cải lương.
Hiện nay hai vợ chồng Thanh Nguyệt - Quốc Nhĩ là một cặp vợ chồng hạnh phúc, đầm ấm. Hai anh chị thường có mặt trong các show diễn cải lương hoặc cùng đèo nhau đi hát chùa gây qủy từ thiện. Giới nghệ sĩ và khán giả quen biết rất ái mộ cuộc sống hạnh phúc và chuyên làm việc từ thiện của Thanh Nguyệt và Quốc Nhĩ. Thanh Nguyệt vẫn thường xuyên tham gia biểu diễn các vở tuồng về Phật giáo do Đoàn Thanh Nga tổ chức. Ngoài ra còn tham gia thu âm bài ca cổ, bài bản cải lương trên sóng Đài Tiếng nói Nhân dân Tp. HCM.
Nhiều năm sau này, tên tuổi NSƯT Thanh Nguyệt gắn liền với bảng hiệu 2-84, và chị đã tạo nhiều dấu ấn trên sân khấu này. Với Thị Bình trong Lôi Vũ do NSND Diệp Lang dàn dựng Thanh Nguyệt được khán giả yêu mến. Sau đó Thanh Nguyệt tiếp tục sáng tạo xuất sắc vai bà mẹ bị mù của nàng Xuân Tự trong vở Áo cưới trước cổng chùa. Bên cạnh những vai bà mẹ hiền hậu, khắc khổ, Thanh Nguyệt còn hóa thân vào những dạng vai lẳng - độc và tạo được thành công nhất định như: Cô Ba trong vở Kiếp chồng chung diễn năm 1990, Bà mẹ từ nước ngoài về trong vở Lời ru của biển diễn năm 1991....
Năm 1994 Thanh Nguyệt xuất hiện trong vở Cơn lũ của đoàn Văn Công 2 Tp. HCM bên cạnh Châu Thanh, Mỹ Thu... Năm 2005, thanh Nguyệt đóng vai bà Hai Hương trong Đời cô lựu tại rạp Hưng Đạo, thay thế Ngọc Giàu rất"ngọt".
Giờ đây, sàn diễn cải lương ngày bị thu hẹp, Thanh Nguyệt tham gia nhiều hơn vào lĩnh vực phim truyền hình. HTV đang thực hiện vở cải lương truyền hình Tấm lòng của biển, Thanh Nguyệt được mời đóng vai bà mẹ. Bên cạnh đó Đài Truyền hình Tp. HCM đã phát sóng vở cải lương Áo cưới trước cổng chùa của soạn giả Kiên Giang, Thanh Nguyệt đóng vai mẹ Xuân Tự - vai diễn để đời của Thanh Nguyệt. Ở tuổi 69, nghệ sĩ Thanh Nguyệt vẫn giữ được gương mặt đậm nét phúc hậu.
Ngoài việc tham gia ca tài tử, diễn chương trình cổ nhạc như Vầng trăng cổ nhạc của HTV, Thanh Nguyệt thường được những chương trình quảng cáo mời đóng các vai nội ngoại trong một gia đình hạnh phúc.
Lệ Thủy
Nữ nghệ sĩ Lệ Thủy tên thật là Dương Thị Lệ Thủy, về sau đổi thành Trần Thị Lệ Thủy, sinh ngày 20 tháng 5 năm 1948 trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Đông Thành, huyện Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long. Mẹ làm nghề chầm lá, cha đi làm thuê. Hồi Lệ Thủy ba tuồi, nhà của Ba Má Lệ Thủy bị cháy, hai ông bà bỏ xứ sở, lên Sàigòn tìm kế sinh sống. Ba của Lệ Thủy làm lao công trong Thảo Cầm Viên, má của Lệ Thủy nấu cơm tháng cho phu khuân vác ở bến tàu quận Tư. Gia đình có 8 chị em, Lệ Thủy là chị cả
Lệ Thủy học trường Tiểu học Khánh Hội. Vì nhà nghèo, Lệ Thủy ngoài giờ học, về nhà phải coi em, giử em để cho Má Lệ Thủy nấu cơm tháng cho người ta. Hàng ngày Lệ Thủy bồng em ra ngang hông chợ Khánh Hội để dổ em, đút cơm cho em ăn. Bên hông chợ có một tiệm sửa radio, người chủ tiệm ngày nào cũng hát dĩa bài vọng cổ " Cô bán đèn hoa giấy" của cô Thanh Hương ca.
Nữ nghệ sĩ Thanh Hương là con của nghệ sĩ Năm Châu và cô Tư Sạng, Thanh Hương thừa hưởng được chất giọng ca rất ngào ngào của mẹ nên cô ca bài "Cô Bán Đèn Hoa Giấy" cũng rất mùi, rất ngọt. Lệ Thủy nghe riết rồi thuộc lòng và bắt chước theo cách ca của cô Thanh Hương.
Tư Long, người ở lối xóm, có một ban văn nghệ đang hoạt động trong vùng, nghe Lệ Thủy ca tốt giọng, xin cho Lệ Thủy ca trong Ban Văn Nghệ. Được Ba Má cho phép, Lệ Thủy theo Ban Văn Nghệ của Tư Long và nhờ ông Năm Truyền là thợ hớt tóc trong xóm, đờn đàn kìm dạy cho Lệ Thủy ca cổ nhạc.
Sau đó, Lệ Thủy được gửi sang học bài bản cải lương 3 Nam, 6 Bắc với nhạc sĩ Tám Đen. Lúc đó, các em của Lệ Thủy liên tục đau ốm, gia đình nợ nần tứ phía. Không tiếp tục đến trường được do không có khai sinh, Lệ Thủy phải làm việc sớm để phụ giúp gia đình và quyết định xin đi theo làm việc cho gánh Trâm Vàng ở Biên Hòa, Đồng Nai để đỡ gánh nặng cho ba má.
Với bài ca cổ Cô gái bán đèn hoa giấy, đầu tiên qua việc ngâm thơ hậu trường, đóng những vai kép con trên sân khấu. 13 tuổi, Lệ Thủy thế vai kép con trên đoàn Trâm Vàng. 14 tuổi, Lệ Thủy đóng các vai đào nhì. Một thời gian sau, Lệ Thủy rời Trâm Vàng để về Công ty Kim Chung của ông bầu Trần Viết Long, một đại bang có 7 đoàn hát. Tại sân khấu này, Lệ Thủy đã được soạn giả Ngọc Văn nhận làm con nuôi, ông viết nhiều kịch bản đưa Lệ Thủy vào đóng từ vai phụ cho đến vai chính
Sau những bước đầu tiên tạo được ấn tượng, ông bầu Trần Viết Long lập đoàn Kim Chung 3. Lệ Thủy chuyển sang đây diễn chung với nghệ sĩ Thanh Hải trong vở Bẽ bàng duyên mới của soạn giả Ngọc Văn. Tên tuổi của Lệ Thủy bắt đầu nổi lên, trở thành cô đào chính sáng giá lúc vừa tròn 15 tuổi.
Sau đó, Lệ Thủy hát ở đoàn Kim Chung 5, tại đây Lệ Thủy đóng cặp với Minh Phụng tạo thành cặp đào – kép ăn ý, được báo chí thời đó phong tặng là cặp "Bão biển" vì mang lại doanh thu cao cho đoàn qua các vở Xin một lần yêu nhau, Đêm lạnh chùa hoang, Kiếp nào có yêu nhau,...
Năm 1964, Lệ Thủy doạt huy chương vàng Giải Thanh Tâm, cùng với Thanh Sang
Năm 1974, đoạt Giải Kim Khánh của nhật báo Trắng Đen, giải nầy
được tổ chức phát giải từ năm 1973.
Năm 1975, Lệ Thủy gắn bó với Đoàn văn công Thành phố Hồ Chí Minh qua các vở diễn Cây sầu riêng trổ bông, Tiếng sóng Rạch Gầm, Khi bình minh trở lại...
Tháng 2 năm 1984, Lệ Thủy được vinh dự tham gia Đoàn nghệ sĩ lưu diễn Tây Âu cùng với nghệ sĩ Bạch Tuyết, Diệp Lang, Ngọc Giàu, Minh Vương,... với các vở diễn Đời cô Lựu, Câu thơ yên ngựa,... Báo chí thời đó gọi là "đem chuông đi đánh xứ người" đầu tiên sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Sau chuyến đi, các nghệ sĩ trong đoàn đã hợp lại và thành lập Đoàn nghệ thuật 2-84. Vở Tô Ánh Nguyệt và Đời cô Lựu là hai vở tuồng khai trương cho đoàn 2-84. Ở sân khấu này, Lệ Thủy đã diễn vở tuồng Tô Ánh Nguyệt, Áo cưới trước cổng chùa, Trắng hoa mai, Kiếp chồng chung, Lôi vũ,...
Những năm đầu 1990, Lệ Thủy chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực video cải lương. Một
số vở cải lương từng gắn với tên tuổi nghệ sĩ Lệ Thủy khi hát ở đoàn Kim Chung 5 trước năm 1975 cũng được quay video như Đêm lạnh chùa hoang, Tây Thi, Máu nhuộm sân chùa, Kiếp nào có yêu nhau, Băng Tuyền nữ chúa,.... Sau thập niên 1990, nghệ sĩ Lệ Thủy đi lưu diễn thường xuyên ở các tỉnh miền Tây, các vùng sâu, đem tiếng hát của mình gần hơn với khán giả nông thôn.
Sân khấu cải lương ngày càng gặp nhiều khó khăn. Lệ Thủy cùng Diệp Lang và Minh Vương thành lập chương trình Những dấu ấn không phai trực thuộc Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang quy tụ các nghệ sĩ tham gia biểu diễn các vở tuồng kinh điển ngày xưa. Các vở diễn của chương trình như Giấc mộng đêm xuân, Tình mẫu tử, Một ngày làm vua, Đêm giao thừa,... Năm 2008, chương trình được hoạt động với tên gọi là nhóm xã hội hóa "Sân khấu vàng" trực thuộc Nhà hát Trần Hữu Trang nhằm tập hợp các nghệ sĩ tham gia biểu diễn đồng thời doanh thu từ chương trình dành vào cho hoạt động xây tặng nhà tình thương. Đến nay, "Sân khấu vàng" do Lệ Thủy và Minh Vương thành lập đã dựng các vở diễn như Sông dài, Lá sầu riêng, Một ông hai bà, Đêm lạnh chùa hoang,... đã trao tặng hơn 30 căn nhà tình thương cho các gia đình khó khăn.
Hiện tại, Lệ Thủy vẫn cộng tác thường xuyên với Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang trong các chương trình biểu diễn phục vụ công chúng và tham gia đi show ở các tỉnh thành.
Lệ Thủy có nhiều vai diễn để đời như: Vai Hồ Bảo Xuyên trong vở tuồng Đêm lạnh chùa hoang, vai Hạnh trong vở tuồng Cây sầu riêng trổ bông, vai Nguyệt trong vở tuồng Tô Ánh Nguyệt, vai Kim Anh trong vở tuồng Đời cô Lựu, vai Thiên Kiều trong vở tuồng Trắng hoa mai, vai Xuân Tự trong vở tuồng Áo cưới trước cổng chùa, vai Hồ Như Thủy trong vở tuồng Xin một lần yêu nhau, vai Hạnh trong vở tuồng Cây sầu riêng trổ bông, vai Chu Chỉ Nhược trong vở tuồng Cô gái Đồ Long, vai Chung Vô Diệm trong vở tuồng Dạ Xoa hoàng hậu, vai Xuyên Đảo Phương Tử trong vở tuồng Dốc sương mù, vai Mai Đình trong vở tuồng Hàn Mặc Tử , vai Hoa Mộc Lan trong vở tuồng Hoa Mộc Lan tùng chinh, vai Hương trong vở tuồng Kiếp chồng chung, vai Quế Minh trong vở tuồng Kiếp nào có yêu nhau, vai Diệu trong vở tuồng Lá sầu riêng, vai Thắm trong vở tuồng Lá trầu xanh, vai Lan trong vở tuồng Lan và Điệp, vai Lỗ Tứ Phượng trong vở tuồng Lôi vũ, vai Bạch Thiên Nga trong vở tuồng Máu nhuộm sân chùa, vai K'Lai trong vở tuồng Mưa rừng, vai Bạch Thiên Hương trong vở tuồng Mùa xuân ngủ trong đêm, vai Cát Mộng Thiên Lan trong vở tuồng Người phu khiêng kiệu cưới, vai A Khắc Thiên Kiều trong vở tuồng Người tình trên chiến trận, vai Diệu trong vở tuồng Nửa đời hương phấn, vai Cam Thúy Nguyệt trong vở tuồng Quán khuya sầu viễn khách, vai Thánh cô trong vở tuồng Quán khuya sầu viễn khách, vai Mạnh Lệ Quân trong vở tuồng Tái sanh duyên , vai Tây Thi trong vở tuồng Tây Thi gái nước Việt, vai Trưng Nhị trong vở tuồng Tiếng trống Mê Linh, vai Công chúa trong vở tuồng Tiêu Anh Phụng, vai Nguyệt trong vở tuồng Tô Ánh Nguyệt, vai Thiên Kiều trong vở tuồng Trắng hoa mai, vai Huệ trong vở tuồng Vị đắng lá sầu đâu
Lệ Thủy đã hát, diễn chung với các nghệ sĩ như : Minh Vương, Minh Phụng, Út Bạch Lan, Thanh Tuấn, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Sang, Bảo Quốc, Thanh Ngân, Phượng Hằng, Trọng Hữu, Minh Cảnh, Tấn Tài, Huyền Trang, Phi Nhung, Diệp Lang, Thanh Kim Huệ, Ngọc Giàu, Trọng Phúc, Mỹ Châu,...
Lệ Thủy kết hôn với trung úy Nguyễn Dương Trúc năm 1972. Năm 1973, sanh ra đứa con gái đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Dương Thụy Hiếu. Năm 1975, Trung úy Trúc cũng như bao nhiêu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa khác bị học tập cải tạo tập trung. Lệ Thủy được đoàn Văn Công mời cộng tác, nhân dịp nầy cô xin bảo lảnh cho chồng ra khỏi trại tập trung, về làm thơ ký kế toán trong đoàn hát.
Năm 1979, Lệ Thủy sanh
con trai, đặt tên là Nguyễn Dương Đình Trí. Năm 1982, Lệ Thủy sanh đứa con trai
khác, đặt tên là Nguyễn Dương Quốc Bảo. Cô gái lớn Thụy Hiếu, học Đại Học Quản
Trị Kinh Doanh ở Melbourne, nước Úc, làm việc cho ngân hàng Bendigo, có chồng
và định cư Úc. Nguyễn Đình Trí tốt nghiệp Bằng Ngoại Thương và Kế Toán ở Úc,
trường Victoria University. Lệ Thủy sợ con ở lại bên Úc giống như Thụy Hiếu.
Đình Trí sáng tác bài Tân Cổ giao duyên Tha
Hương cho mẹ ca để mẹ yên lòng là Đình Trí sẽ trở về với mẹ.
Thanh Tuấn
Nghệ sĩ Thanh Tuấn tên thật là Nguyễn Thanh Liêm sinh năm 1948, tại thôn Thủy Triều, xã Phổ Văn, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha là cán bộ tập kết. Mang dòng máu yêu văn nghệ từ nhỏ, ở địa phương vào những mùa lễ hội, Thanh Liêm được chọn tham gia đội ca, sau đó được thu đài Phát thanh Quảng Ngãi.
Năm 1961, Phổ Văn đón chào lực lượng cộng sản về địa phương, chuẩn bị gầy dựng cơ sở để chống phá VNCH, năm đó Thanh Liêm 13 tuổi, nhờ có vốn ca hát Thanh Liêm được giao nhiệm vụ Đội trưởng đội văn nghệ thiếu nhi và phân đội trưởng cảnh giác địch. Hơn hai năm Thanh Liêm hoạt động văn nghệ tại đây, chiến sĩ tại quê nhà. Đến năm 1963, miền quê của Thanh Liêm tôi bị một trận lũ lụt cuốn trôi hết tài sản của nhân dân. Đời sống bà con Phổ Văn đã nghèo càng nghèo hơn. Ngay sau đó, có cuộc càn quét của quân đội quốc gia, lực lượng trung đội của xã lúc đó quá mỏng không đấu lại, nhiều chiến sĩ ở Phổ Văn đã anh bỏ mình.
Lần đó, Thanh Liêm và một số đồng đội núp dưới hầm chống cuộc càn quét ba ngày đêm tại Phổ Văn, sau đó mới tìm đường quay về nhà. Thanh Liêm đã được mẹ gởi vào vào Sàigòn vì sợ bị phát hiện. Tại thành phố này, Thanh Liêm xin được công việc phụ giúp cho một tiệm thuốc bắc trên đường Thuận Kiều, nhưng rồi vì Thanh Liêm không quen mùi thuốc bắc, sau đó chuyển sang nghề đan ghế mây trên đường Vĩnh Viễn, quận 10 ngày nay. Cuộc sống tưởng đã ổn định với công việc này, đến năm 1964 đoàn cải lương Trăng Mùa Thu của bầu Nho, dọn về biểu diễn tại rạp Thủ Đô, lúc đó cặp đào kép chánh là Đắc Thành và Bích Sơn đã thu hút đông đảo khán giả. Thanh Liêm đã xin mấy chú hậu đài dẫn vào rạp xem cọp, v ì không tiền mua vé, đêm nào cũng đi xem, rồi mê đắm nghệ thuật cải lương, để từ đó bằng niềm đam mê cộng với quyết tâm phải dấn thân vào sân khấu để đổi đời, thoát khỏi cảnh cơ hàn của một anh thợ đan ghế mây sống xa gia đình, thiếu thốn trăm bề. Thành công của Thanh Liêm là sự chịu khó. Dân miền Trung vốn dĩ chịu khó, vì sinh ra ở xứ sở quá nghèo nên rất nghiêm khắc với bản thân, cố gắng vươn lên để khẳng định mình. Có lẽ nhờ vậy mà Thanh Liêm đã đạt thành tựu như mong muốn. Bây giờ mỗi lần đi ngang qua những tiệm bán ghế mây, Thanh Liêm nhớ da diết cái thời hàn vi của mình. Yêu lắm cái nghề đan ghế mây công phu, vất vả nhưng vô cùng sung sướng khi nhìn thấy sản phẩm của mình tạo ra sau một ngày lao động.
Lúc đó, đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga về hát ở rạp Thủ Đô, nằm trên đường Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn. Ban ngày Thanh Liêm có đến chơi, xem đoàn hát tập tuồng, Thanh Liêm gặp nhạc sĩ Út Trong, trưởng ban cổ nhạc của đoàn hát, Thanh Liêm đã xin học ca. Thầy Út Trong có mở lớp dạy ca tại nhà thầy ở đường Nancy gần cầu chữ Y, có lớp buổi sáng và lớp buổi chiều, Thanh Liêm đóng học phí học buổi chiều. Chỉ trong ba tháng học tập chuyên cần, nhờ có năng khiếu ca cổ nhạc từ nhỏ, Thanh Liêm học ca rành rẽ các bài ba Nam, sáu Bắc, các bản nhỏ dùng trên sân khấu cải lương và Thanh Liêm có thể ca vọng cổ đúng nhịp điệu, nhưng ca chưa hay, chưa có hồn thì đoàn hát Thanh Minh Thanh Nga đi lưu diễn miền Trung trong hai tháng. Thầy Út Trong theo đoàn hát đi lưu diễn, lớp học cổ nhạc tạm thời ngưng hoạt động. Thanh Liêm tiếp tục học cổ nhạc nơi lò cổ nhạc của nhạc sĩ Út Trọn tức thầy Bảy Trọn ở bên kia cầu chữ Y, quận 8, được thầy Út Trọn luyện giọng, dạy kỷ thuật luyến láy khi ca cổ nhạc.
Hồi đó các nhạc sĩ mở lớp dạy đờn ca cổ nhạc thường có liên lạc với các bầu gánh hát và các trưởng ban cải lương đài phát thanh để giới thiệu các đệ tử xuất sắc của lớp cổ nhạc của mình.
Út Trọn rất hãnh diện về học trò Thanh Liêm của mình nên giới thiệu về hát cho đoàn hát Bạch Liên Hoa là một đoàn hát trung ban và đặc nghệ danh cho Thanh Liêm là Thanh Tuấn, hàm ý Thanh là giọng ca, Tuấn là thanh niên tuấn tú, đẹp trai để giới thiệu học trò Thanh Tuấn của ông hội đủ hai yếu tố Thanh và Sắc. Nghệ sĩ Thanh Tuấn thủ vai chính trong tuồng Tướng cướp Bạch Hải Đường của đoàn hát Bạch Liên Hoa, được khán giả và báo chí kịch trường ngợi khen.
Ông bầu đoàn hát Thủ Đô – Hương Hoa Lan bí mật phái người thân tín đến xem Thanh Tuấn diễn, sau đó ông mời Thanh Tuấn ký giao kèo để đoàn hát chuẩn bị chuyến lưu diễn miền Trung. Hát miền Trung, Thanh Tuấn nổi danh ở các điểm diễn Nha Trang, Phan Thiết, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, Huế. Về Quảng Ngải, anh có dịp thăm lại gia đình và giúp đở tiền nông cho mẹ, đây là một chuyện mà người thân trong gia đình không lường trước được. Khi anh ra đi, anh không có nghề nghiệp, học vấn không cao và người ta cũng không biết nghệ sĩ Thanh Tuấn chính là đứa bé Thanh Liêm đã bỏ đi lưu lạc vài năm trước đây.
Năm 1968, đoàn hát thủ Đô – Hương Hoa Lan hát Tết tại rạp Thăng Long tỉnh Buôn Mê Thuộc, ngay trong đêm giao thừa, một trái mortier rớt cách Thanh Tuấn ba thước, làm thiệt mạng hai người trong gia đình người soát vé ngủ gần chổ của anh. Hơn hai tuần lễ trong không khí chiến tranh ngay trong thành phố, chánh phủ ban lịnh giới nghiêm ban đêm, nghệ sĩ và các công nhân dàn cảnh, thợ đèn của gánh hát Thủ Đô – Hương Hoa Lan không có hát, không có lương, không có cơm hội để sống qua ngày nên mạnh ai nấy tìm đường sanh lộ cho riêng mình. Thanh Tuấn phải quá giang xe đò từng đoạn để có thể trở về Saigon. Đây là kỷ niệm buồn nhất trong cuộc đời đi hát của Thanh Tuấn. Về đến Saigon, vì thành phố vẫn còn giới nghiêm ban đêm nên Thanh Tuấn gia nhập đoàn hát Minh Cảnh để đi hát trong các quận huyên thuộc các tỉnh miền Hậu Giang để sống qua ngày.
Trong thời gian cộng tác với đoàn Minh Cảnh, Thanh Tuấn có dịp thưởng thức lối ca dài hơi và kỷ thuật luyến láy trong câu vọng cổ của danh ca Minh Cảnh, từ đó Thanh Tuấn tự luyện cho mình một lối luyến láy độc đáo khi ca vọng cổ. Một năm sau, Thanh Tuấn rời đoàn hát Minh Cảnh, gia nhập đoàn hát Hương Mùa Thu, đóng thế vai diễn của kép ca Thanh Hải vừa rời đoàn, Thanh Tuấn thành công khi hát vai kép chánh, hát chung với cô đào xuân sắc Ngọc Hương qua các vở tuồng Tiếng Nhạc Rừng Xanh, Con Cò Trắng, Gánh Cỏ Sông Hàn… Thanh Tuấn có một lối ca vọng cổ luyến láy tài tình, có một sắc thái riêng biệt và rất hấp dẫn. Hãng dĩa Hoành Sơn khai thác giọng ca vọng cổ của Thanh Tuấn với Ngọc Hương qua nhiều bài tân cổ giao duyên của soạn giả Thu An.
Nghệ sĩ Thanh Tuấn nổi danh trên sân khấu Kim Chung qua các tuồng: Đường Gươm Nguyên Bá, Người Tình Trên Chiến Trận, Thúy Kiều, Tây Thi, Mỵ Châu Trọng Thủy…
Đến năm 1976, nghệ sĩ Thanh Tuấn nổi danh với các vai kép chánh
trong tuồng Tìm Lại Cuộc Đời, Rạng Ngọc
Côn Sơn, Khách Sạn Hào Hoa, Pha Lê và Cát Bụi, Kim Trọng – Thúy Kiều…
Năm 1982, Thanh Tuấn ngừng cộng tác với đoàn hát tập thể Saigon 2, Thanh Tuấn đi hát chầu cho các đoàn tỉnh. Nhân dịp đến hát ở Nha Trang – Phú Khánh, Thanh Tuấn anh đăng ký xin thành lập đoàn lấy bảng hiệu là đoàn cải lương Cam Ranh – Phú Khánh, nhưng đến năm 1984, gặp mùa mưa dầm, đoàn hát Cam Ranh – Phú Khánh phải chịu rã gánh vì doanh quá thu thấp, không đủ tiền phát lương và không thể duy trì hoạt động của đoàn.
Thanh Tuấn trở về Saigon lập quán nghệ sĩ mang tên Thanh Tuấn, giải pháp tạm thời kiếm đồng ra đồng vào để giải quyết đời sống cho gia đình.
Năm 1993, nghệ sĩ Thanh Tuấn làm bầu gánh hát Cao Văn Lầu tỉnh Minh Hải, Đoàn Cao Văn Lầu có các diễn viên Thanh Tài, Thanh Tuấn, Hương Thủy, Ngân Linh, Vương Minh, Nhật Linh, Lan Châu, hề Bảo Chi, các nữ diễn viên Lan Châu, Lan Huệ, Ý Trinh, Tiểu My, Hương Thảo, Hoàng Long. Thanh Tuấn có được hai vai hay trong tuồng “Yêu Con Đâu Chỉ Một Ngày và vở Khi Phiên Tòa Kết Thúc. Sau đó, đoàn Cao Văn Lầu được nghệ sĩ Thanh Tài làm bầu gánh, đưa về tỉnh Tiền Giang đăng ký, lấy bảng hiệu đoàn cải lương Tiền Giang
Về gia đình thì khi 20 tuổi, Thanh Tuấn đã có người yêu, chung sống được ba con, rồi lại chia tay, Thanh Tuấn lãnh nuôi các con. Thật ra thì Thanh Tuấn nhờ mẹ anh đứng ra nuôi nấng các con của anh vì anh bận theo gánh hát. Sau nầy anh gặp một người vợ ngoài nghề hát nhưng hết lòng yêu và chìu chuông anh nên cuộc tình kéo dài hơn hai chục năm. Hiện nay. Thanh Tuấn đang chung sống với bà vợ hiền như ma-soeur, khéo léo, tế nhị và 7 người con, 5 trai, 2 gái. Các con của anh không có người nào nối nghiệp ca hát nhưng đều học thành tài và có nghề nghiệp ổn định.
Về cuộc sống hiện nay, nghệ sĩ Thanh Tuấn tâm sự: “Không riêng gì tôi, các nghệ sĩ cùng thời với tôi giờ chỉ đếm từng suất diễn với chương trình ca cổ hoặc trích đoạn cải lương. Thèm lắm những suất diễn nguyên vở tuồng với sự hóa thân vào nhân vật. Tôi có may mắn là nhiều bài ca cổ “ruột”, nên đi đến đâu, biểu diễn văn nghệ từ khóm ấp cho tới huyện lỵ, thị trấn bà con cô bác đều yêu cầu ca những bài vọng cổ quen, nên có thu nhập mà trang trải cho cuộc sống, vẫn làm trụ cột đối với gia đình. Tổ nghiệp thương nên từ khi tôi không còn làm quán với chương trình ca cổ, không phải uống quá nhiều bia mỗi tối vì chiều lòng khán giả tới ủng hộ quán của mình, nên sức khỏe rất tốt. Mỗi đêm vẫn có sô ca vọng cổ kiếm tiền chợ.”
Minh Vương
Ông tên khai sinh là Nguyễn Văn Vưng, được cho là sinh ngày 1 tháng 7 (sau cuộc phẫu thuật ghép thận thành công vào ngày 1 tháng 7 năm 2012, ông quyết định chọn ngày này làm ngày sinh chính thức trong năm 1949 tại Cần Giuộc, Long An. Gia đình ông có 7 anh em, đều sinh ra và lớn lên tại Long An. Năm 10 tuổi, ông theo cha mẹ lên Sài Gòn lập nghiệp. Minh Vương theo học trung học, nhưng lại mê hát cải lương, nên tìm đến thầy Bảy Trạch để học ca hát. Minh Vương từng đi làm em nuôi của những đào kép chính, phải khuân vác, xách đồ khi đoàn di chuyển, biểu diễn.
Năm 1964, mới có 14 tuổi, bắt đầu đi hát sau khi đoạt giải Khôi nguyên vọng cổ, được bầu Long ở đoàn Kim Chung mời ký hợp đồng. .
Vai đầu tiên của "cậu nhóc" là vai… con của nghệ sĩ Lệ
Thủy trong vở Thượng phương bảo kiếm, Lúc này, Lệ Thủy đã là một cô đào
chánh lừng lẫy đóng cặp với các tài danh như Thanh Hải, Minh Phụng. Có lẽ, Lệ
Thủy cũng không thể ngờ rằng "cậu nhóc" năm ấy sẽ là "người
tình" trên sân khấu trong quãng đời dài làm nghệ thuật của mình sau nầy.
Ði hát chưa được 1 năm thì Minh Vương bị bệnh, tóc rụng, nên
phải nghỉ ở nhà chữa bệnh. 1 năm sau, Minh Vương trở lại đoàn hát, Minh Vương
nhận bất cứ vai diễn nào với tâm niệm: "Có công mài sắt có ngày nên
kim".
Năm 1967, Minh Vương được diễn vai kép chính, lúc đó 18 tuổi và thực sự năm đó đánh dấu sự trở lại đầy ấn tượng. Năm 1971, tên tuổi của Minh Vương bắt đầu tỏa sáng, được nhiều hãng băng đĩa chú ý, mời thu thanh. Đồng thời, Minh Vương được mời đóng phim Sám hối.
Đến năm 1972, Minh Vương cùng vợ thành lập đoàn cải lương Việt Nam lưu diễn khắp nơi cho đến sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Minh Vương từng là diễn viên của Đoàn Sàigòn, Đoàn Văn công Tp. HCM. Minh Vương cũng đã từng đi biểu diễn ở Tây Âu cùng với các nghệ sĩ tài danh khác.
Các nam nữ nghệ sĩ Minh Vương có dịp hát, diễn chung: Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Thanh Tuấn, Thanh Sang, Minh Phụng, Thanh Kim Huệ, Mỹ Châu, Út Bạch Lan,...
Minh Vương có các
vai diễn nổi bật trong các tuồng sau đây: Đêm lạnh chùa hoang trong vai Tần Lĩnh Sơn, Đoạn tuyệt trong vai Dũng, Đời
cô Hạnh trong vai đại uý Lê Bá Phước, Đời cô Lựu trong vai Võ Minh
Luân, Đường gươm Nguyên Bá trong vai Thượng tướng Nguyên Bá, Kiếp nào
có yêu nhau trong vai Mộ Dung Thạch, Máu nhuộm sân chùa trong vai Chu Khắc Kiệt, Người đẹp giữa
rừng khuya trong vai Tương Như, Nửa
đời hương phấn trong vai Tùng, Rạng
ngọc Côn Sơn trong vai Nguyễn Trãi, Tái
sanh duyên trong vai Hoàng Phủ Thiếu Hoa, Tấm lòng của biển trong
vai Tấn, Tiêu Anh Phụng trong vai Hoàng tử, Tô Ánh Nguyệt
trong vai Minh Xin một lần yêu nhau
trong vai Âu Thiên Vũ, Người tình trên chiến trận
Nghệ sĩ Minh Vương trong vở tuồng “Đời Cô Lựu”
Minh Vương đã hoàn tất hồ sơ sang Úc định cư với gia đình, nhưng đến những giây phút cuối cùng Minh Vương đã quyết định ở lại, bởi vì Minh Vương biết khán giả của Minh Vương ở nơi này, chính ở mảnh đất này Minh Vương mới có thể được sống với nghề hát mà Minh Vương thương, Minh Vương quý.
Ngọc Đáng
Nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng sanh năm 1949 tại Saigon, con của hai nghệ sĩ tài danh sĩ Tư Minh và Ngọc Xứng, họ chuyên hát cải lương tuồng Tàu, diễn viên của đoàn hát Phụng Hảo của bà Phùng Há.
Nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng theo cha mẹ sống trong gánh hát từ thơ ấu, năm cô 13 tuổi, Ngọc Đáng đã được cha mẹ dạy ca dạy hát. Nên biết là cha cô, nghệ sĩ Tư Minh thuộc về lớp nghệ sĩ tiền phong như các nghệ sĩ Ba Thâu, Ba Sanh, Năm Thiên, Văn Lâu, Tám Lắm, Bảy Huỳnh, Bảy Khải, mẹ của Ngọc Đáng là nghệ sĩ Ngọc Xứng đồng một thời diễn viên tên tuổi với các nữ nghệ sĩ Ngọc Hương, Ngọc Hải, Ngọc Trâm, Sáu Ngọc Sương, Tường Vi… Nên chỉ sau hai năm học nghệ do chính cha mẹ ruột truyền dạy mà không qua một trường lớp nghệ thuật nào.
Năm 1964, được 15 tuổi, Ngọc Đáng đã là một diễn viên chánh
trên sân khấu đoàn hát Thanh Bình - Kim Mai của ông bà bầu Bảy Huỳnh - Ngọc
Hương tại rạp hát Cầu Muối, Cầu Ông Lãnh Saigon.
Hồi đó nữ nghệ sĩ mới xuất thân trong nghề hát, nếu không phải là con cái hay là người trong thân tộc của ông bà bầu gánh hát thì khó mà được ông bà bầu giao cho thủ các vai hát đào chánh, trừ trường hợp người nữ nghệ sĩ đó phải thật là xuất sắc, vừa đẹp vừa ca hay hát giỏi, khi xuất hiện trên sân khấu thì nữ nghệ sĩ đó có sức thu hút mãnh liệt, làm tăng doanh thu, có lợi cho bầu gánh hát. Ngọc Đáng chính là một nghệ sĩ đặc biệt có sức thu hút khán giả, cô sáng chói trên sân khấu như một ngôi sao rực sáng giữa vùng trời nghệ thuật trong nữa thập niên 60.
Nữ nghệ sĩ trẻ Ngọc Đáng rất đẹp, da trắng, mủi thẳng, mắt sáng, nụ cười thật là duyên dáng, giọng ca trong trẻo hơn hết trong nữ ngũ hổ tướng, nhất là vóc người thon đẹp với động tác hồ quảng dễ thương, nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng đã là thần tượng làm say mê biết bao khán giả mộ điệu. Nữ nghệ sĩ Bạch Mai là nghệ sĩ bậc đàn chị, nghệ nghiệp và khả năng diễn xuất rất hay nhưng cô cũng phải chịu nhường một phần về nhan sắc và duyên dáng của nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng.
Năm 1973, Ngọc Đáng hát cho đoàn hát Minh Tơ, được nghệ sĩ Thanh Tòng rèn luyện tay nghề thêm vững chắc. Đoàn Minh Tơ hát thường trực tại rạp Long Phụng ở số 234 đường Gia long cũ.
Ngọc Đáng nổi danh qua các vai Mạnh Lệ Quân, Đào Tam Xuân, Lưu Kim Đính, Lý Thần Phi, Bàng Quí Phi, Tiêu Anh Phụng…Đây là những vai chánh trong các tuồng Tàu được xem là những tuồng kinh điển vì trong các tuồng đó có những lớp diễn mẫu mực đòi hỏi nghệ sĩ phải được truyền nghề một cách có căn bản. Ví dụ tuồng Lưu Kim Đính giải giá Thọ Châu thì có lớp hát Sát Tứ Môn Thành rất khó hát.
Tuồng Đào Tam Xuân và Tiêu Anh Phụng có lớp hát loạn trào, vũ đạo chạy gối và múa
kiếm khi loạn trào cũng phải tập rất công phu. Tuồng Mạnh Lệ Quân lúc bị thoát
hài hay lớp dạo huê viên với vua cũng là những lớp khó hát. Nữ nghệ sĩ Ngọc
Đáng được chân truyền của cha mẹ là đôi nghệ sĩ tuồng cổ nổi tiếng, sau được
thêm sự chỉ bảo của nghệ sĩ Thanh Tòng nên nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng trở thành một
nghệ sĩ xuất sắc và có những vai diễn để đời qua các vở kể trên.
Sau năm 1975, Nghệ sĩ Ngọc Đáng về tỉnh Long Xuyên, gia nhập đoàn cải lương tuồng cổ Khánh Hồng – An Giang, hát cặp với nam nghệ sĩ Vũ Linh. Trong nhiều năm liền, Vũ Linh và Ngọc Đáng là đôi diễn viên được khán giả ưa thích nhất ở các tỉnh miền Hậu Giang.
Cũng có lúc nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng được mời hát cho đoàn hát Hương Lúa Mới của Bầu Quới ở Chợ Mới An Giang, trong đoàn hát có nghệ sĩ Minh Vương, Thanh Tú, Trang Bích Liểu, Minh Kỳ và hề Phú Quí.
Năm 1988 – 1990, Ngọc Đáng hát cho đoàn cải lương Nha Trang, sau đó trở về hát lại cho đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ.
Được đào luyện trong nghề hát tuồng cổ, Ngọc Đáng hát tuồng Tàu, tuồng Hồ Quảng rất hay, đến tuổi trung niên, cô chuyển qua hát các vai dàn bao cũng thành công xuất sắc. Khán giả còn nhắc Ngọc Đáng rất sang trọng và oai nghiêm trong vai Ngô Quốc Thái tuồng Lưu Bị Cầu Hôn Giang Tả, vai Cố Mẫu trong tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga, vai Lý Thần Phi trong tuồng Xử Án Bàng Quí Phi.
Chỉ xem ba vai Ngô Quốc Thái trong tuồng Lưu Bị Cầu Hôn Giang Tả, vai Cố Mẫu trong Thái Hậu Dương Vân Nga và vai Lý Thần Phi trong tuồng Xử Án Bàng Quí Phi do nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng thủ diễn đủ thấy tài nghệ bậc thầy của cô trên sân khấu cải lương tuồng cổ, cải lương dã sử và cải lương Hồ Quảng.
Đóng vai ba bà mẹ vua trong ba tình huống khác nhau, ba loại hình nghệ thuật khác nhau, nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng biểu hiện thật là tài tình tâm trạng và lòng thương con của mỗi bà mẹ vương giả, kết nối tình thương con đúng mực theo nhiệm vụ của bậc mẫu nghi thiên hạ ,với lòng tôn trọng luật nước hơn tình nhà, dù phải ép bụng chịu nỗi đau để xử phạt con trong vai Lý Thần Phi, thì người mẹ qua cách thể hiện của Ngọc Đáng vẫn làm cho khán giả rơi nước mắt vì thông cảm được nỗi đau của bà. Tôi nghĩ là qua cách thể hiện tính cách của ba bà mẹ vua trong ba loại hình sân khấu của Ngọc Đáng, trường sân khấu có thể lấy đó làm bài mẫu để tập cho các dìễn viên thế hệ nghệ sĩ sau này.
Đến những năm tuồng Tàu bị cấm hát thì Ngọc Đáng chuyển qua hát các vai mụ, tuồng xã hội Việt Nam, cô cũng thành công một cách dễ dàng. Nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng nhận được huy chương vàng Hội Diễn Cải lương chuyên nghiệp toàn quốc trong vai Trần Bá Mẫu trong vở tuồng Rừng Thần năm 1982, đến năm 1990, Ngọc Đáng lại chiếm được huy chương vàng thứ hai trong hội diễn cải lương chuyên nghiệp qua vai Giáng Thu, tuồng Đừng Quên Kỷ Niệm.
Nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng khi hát tuồng xã hội thì hoàn toàn thể hiện được nhân vật tuồng xã hội, không có chút nào lai tạp hay vướng thói quen khoa tay múa chân như trong nghệ thuật hát Hồ Quảng hay tuồng Tàu. Cô có giọng hát tốt, ca cổ nhạc hay như các nghệ sĩ được đào luyện trên sân khấu cải lương tuồng xã hội. Ngọc Đáng có được ưu thế về nhan sắc, khi cô hát các vai bà mẹ, vai một bà hội đồng hay một người đàn bà nhà giàu có ở thôn quê, Ngọc Đáng có cái đẹp của một người đàn bà ở các miền sông nước Hậu Giang, một vẽ đẹp đằm thắm, mộc mạc, phong thái chững chạc, nhân hậu. Khi vào một vai một bà quê mùa nghèo khó, Ngọc Đáng cũng hóa trang một cách sạch sẽ, tươm tất, không tạo cho khán giả một sự thương hại hay khinh thường, trái lại Ngọc Đáng vô vai một người nghèo nhưng vẫn tự trọng, có nhân cách khiến cho khán giả có một cảm giác thân thương, đồng cảm.
Nhờ khả năng hát được nhiều vai nên nữ nghệ sĩ Ngọc Đáng được mời thu vidéo cải lương rất nhiều tuồng. Khán giả thấy cô có mặt trong các tuồng như Tấm Cám trong vai Son, tuồng Gánh Nặng Giang Sơn, vai Hùng Đổ Vương, tuồng Xử Án Bàng Quí Phi, vai Lý Thần Phi, tuồng Thần Đồng Lưu Minh Châu, vai Thừa tướng phu nhân, tuồng Thái Hậu Dương Vân Nga, vai Cố Mẫu, tuồng Lưu Bị Cầu hôn Giang Tả, vai Ngô quốc Thái, tuồng Chiếc Hổ Phù, vai Bà Ất, tuồng Mạnh Lệ Quân, vai Mạnh phu nhơn, tuồng Nổi Oan Hoàng Hậu, vai Nhũ Mẫu, tuồng Nửa đêm chợt tỉnh vai vợ Ba Lực, tuồng Đoạn trường vai Bà Hội…
Một nghệ sĩ có khả năng hát nhiều loại vai, có giọng ca tốt, có sắc vóc đẹp như Ngọc Đáng, nếu như Ngọc Đáng được sanh ra trước chừng ba đến năm năm, thì Ngọc Đáng thế nào cũng có tên trong số các nghệ sĩ tranh giải Thanh Tâm, giải diễn viên triễn vọng của ký giả Trần Tấn Quốc. Hồi đó các ký giả trong Ban Tuyển Chọn của giải Thanh Tâm chỉ chú trọng đến các nghệ sĩ cải lương, bỏ quên các nghệ sĩ cải lương tuồng cổ và Hồ quảng. Các nghệ sĩ Đức Lợi, Ngọc Đáng, Bạch Lê, Phượng Mai cho thấy là nghệ sĩ Hồ quảng cũng có khả năng diễn xuất sắc các vai tuồng cải lương xã hội, đáng được lưu tâm khen thưởng như các diễn viên cải lương khác.
Nghệ sĩ Ngọc Đáng có cuộc sống ổn định nên nghĩ đến việc hát gây quỷ giúp các bạn nghệ sĩ và đồng bào nghèo yếu neo đơn hay gặp thiên tai hỏa hoạn. Ngọc Đáng luôn có mặt trong các nhóm nghệ sĩ làm việc từ thiện đó.
Ngọc Đáng có hai con không theo nghề hát của mẹ. Các cháu làm việc ở xí nghiệp nhưng rất yêu mẹ và tôn trọng nghề nghiệp của mẹ.
Từ
năm 2010, Ngọc Đáng định cư ở California, đã tham gia chương trình Cổ Nhạc
Phương Nam có từ năm 2011 trên đài VHN đến năm 2015 chuyển sang SBTN ngoài Văn
Chung, Ngọc Đáng, Tuấn Châu còn có Hoàng Nam, Hoàng Phúc Philip Nam và Cẩm Thu
góp mặt thường xuyên.
Ngọc Đáng là một tài năng ca diễn cải lương, đã phục vụ khán
thính giả từ trong nước cho đến hải ngoại, góp phần vào việc phát huy và bảo tồn
văn hóa Việt trên xứ người.
Tài liệu tham
khảo:
- Tiểu sử Hữu Phước. Web: music.quehuong.org
- Nguyễn Phương. Vua Tao Đàn Thanh Hải. Web: music.quehuong.org
- Nguyên Phương. Nghệ sĩ Thành Được. Web: RFA
- Thanh Quang. Nghệ sĩ Văn Hường, vua vọng cổ hài. Web: RFA
- Tiểu sử Út Bạch Lan. Web: music.quehuong.org
- Thanh Hương. Web: Wikipedia
- Hùng Cường. Web: Wikipedia
- Nguyễn Phương. Nghệ sĩ danh ca Minh Cảnh. Web: RFA
- Thảo Vân. Kép độc Nam Hùng - một đời đau đáu với cải lương. Web: cailuongvietnam.com
- Nguyễn Phương Nghệ sĩ Hùng Minh. Web: RFA
- Ngành Mai. Bích Sơn, nữ nghệ sĩ miền Bắc, trưởng thành trên sân khấu miền Nam. Web: RFA
- Nguyên Phương. Nghệ sĩ Út Hiền Web: RFA
- Đoàn Dự, Nghệ sĩ Út Hậu. Web: cailuong.net
- Nghệ sĩ Tấn Tài. Web: maxreading.com
- Tiểu sử Diệp Lang. Web: music.quehuong.org
- Thanh Nga. Web: Wikipedia
- Ngọc Hương (nghệ sĩ ). Web: Wikipedia
- Nguyễn Phương. Tưởng nhớ cố nghệ sĩ Dũng Thanh Lâm. Web: RFA
- Minh Khánh. NSUT Phương Quang: Hạnh phúc viên mãn. Web: vietbao.vn
- Thanh Hiệp. Nghệ sĩ Hoài Trúc Phương từ trần. Web: nld.com.vn
- Kim Ngọc Web: Wikipedia
- Thanh Sang. Web: Wikipedia
Nguyễn Phương. Nữ nghệ sĩ Thanh Thanh Hoa và giải Thanh Tâm. Web: RFA
- Minh Phụng. Web: Wikipedia
- Ngọc Giàu. Web: Wikipedia
- Bạch Tuyết. Web: Wikipedia
- Tiểu sử Hồng Nga. Web: music.quehuong.org
- Diệu Hiền Web: Wikipedia
- Lê Quang Thanh Tâm. Những nhan sắc Sài Gòn. Web: ilovesaigon.net
- Mộng Tuyền. Web: nguoinoitieng.tv
- Nguyễn Phương. Nữ nghệ sĩ Phượng Liên, giọng ca vàng trên đất Mỹ. Web: RFA
- Thanh Hiệp. NSƯT Thanh Nguyệt - Cuộc đời vinh quang và nước mắt. Web: nld.com.vn
- Lệ Thủy. Web: Wikipedia
- Thanh Hiệp. NSUT Thanh Tuấn từ thợ đan ghế mây thành danh ca vọng cổ. Web: nld.com.vn
- Minh Vương Web: Wikipedia
- Nguyễn Phương.Nữ nghệ sĩ Kiều Hoa Ngọc Đáng. Web: RFA
866409052018
No comments:
Post a Comment