Trong bài viết Làng tôi năm 2007, sau đó có bài viết của Vĩnh Thông, Cần đính chính về tên gọi phà Năng Gù, đăng trên tạp chí Văn hóa Lịch sử An Giang số 79, tháng 10-2011. Tiếp theo Liêu Ngọc Ân có bài Vài suy nghĩ nhân đọc "Cần đính chính về tên gọi phà Năng Gù", đăng trên tạp chí Văn hóa Lịch sử An Giang số 83, tháng 02-2012. Để bảo vệ ý kiến của mình Vĩnh Thông viết thêm bài Tên gọi Năng Gù, nói lại cho rõ, đăng trên tạp chí Văn hóa Lịch sử An Giang số 84, tháng 03-2012. Tiếp theo Trần Hoàng Vũ viết bài Một số vấn đề địa lý - lịch sử của vùng đất Năng Gù, đăng trên tạp chí Văn hóa - Lịch sử An Giang số 91, tháng 10-2012.
Trong những bài viết này, tôi không có ý phản bác bất cứ điểm nào của các tác giả, tôi viết bài này chỉ là những suy nghĩ tản mạn, những suy nghĩ đó do bản thân tôi trải nghiệm, tai nghe, mắt thấy đời thường, không thuộc dạng khảo cứu.
Tôi rời cù lao Năng Gù từ năm 1954, đi học ở Châu đốc, cho tới năm 1956, lên Sàigòn học, lập nghiệp cho tới năm 1991, sau đó rời Việt Nam, thỉnh thoảng vài năm mới về lại Việt Nam đều có trở lại Năng Gù, Châu đốc thăm cảnh cũ, người xưa.
Những năm học ở Châu đốc, hàng tháng tôi đều trở về thăm nhà, những năm đi học ở Sàigòn mỗi năm ít ra là 3 lần về Năng Gù và Châu Đốc thăm nhà, vào các dịp lễ nghĩ như Tết, Hè, lễ Phục sinh, cho nên tôi có nhiều lần đi qua bến Bắc Năng Gù cũ và sau này bến Bắc Năng Gù mới, cả hai tôi đều chưa từng đi qua Bắc lần nào, xe chạy ngang qua, có khi ngừng lại cho khách lên xuống nên có dịp quan sát.
Trên con lộ 91 (Long Xuyên – Châu Đốc), xưa kia là đường Liên tỉnh lộ LT 10, bến Bắc cũ nằm ngay tại bến chợ Bình Mỹ, phía dưói bến Bắc mới, thủy trình nó chạy qua bên kia nằm gần hạ khẩu sông Vàm Nao, bến Bắc mới thủy trình bên kia là qua xã Bình Thạnh Đông, phía bên lộ 91 hai bến Bắc mới cũ, cách nhau không xa, nhưng phía bên kia, hai bến Bắc mới cũ cách rất xa, vì ngày nay ở bến Bắc mới nhìn từ bờ đi và đến có thể thấy rõ, còn ngày xưa ở bến Bắc cũ nhìn mút con mắt.
Ngày xưa, thật ra cũng không xưa lắm, khoảng 1947-1950, thuở xăng dầu khang hiếm, máy móc ít có, ở bến Bắc cũ có đò chèo từ đó sang Hòa Hảo và ngược lại, sau đó có thể khoảng 1950-1954 có đò máy cũng chạy với thủy trình đó.
Năm 1954,
Ngô Đình Diệm về nước chấp chánh, dẹp Bình Xuyên trước, rồi dẹp
lực lượng giáo phái, nên ngày 1-1-1956 mở chiến dịch Nguyễn Huệ do Đại tá Dương
Văn Minh chỉ huy, Tướng Trần Văn Soái tức Năm Lửa ở Cái Vồn Cần Thơ lập chiến
khu ở Đồng Tháp Mười chống chánh phủ, nhưng đến 17-2-1956 mang quân
ra quy thuận và Tướng Lâm Thành Nguyên ở Cái Dầu Châu Đốc, sau vài ngày giao
tranh đã quy hàng chánh phủ khoảng tháng 2 năm 1956, riêng Tướng Lê Quanh Vinh tức
Ba Cụt vẫn không hợp tác.
Về sau ông Nguyễn Ngọc
Thơ và Tướng Lê Quang Vinh họp ở Đồng Tháp Mười để thương thảo tìm một giải
pháp, trên đường dự hội trở về mật khu ở Miền Tây, trong thời gian và khu vực
được thỏa thuận bảo đảm an ninh cho cả hai bên dự hội nghị. Lê Quang Vinh bị
một đơn vị Bảo An đóng tại cầu Chắc Cà Dao bắt ông ngày 13-4-1956. Ông bị giải
về Cần Thơ, bị tòa Sơ Thẩm 11-6-1956, tòa Thượng Thẩm 25-6-1956 và Tòa án Quân
sự 3-7-1956 xử án tử hình và đã bị hành quyết bằng máy chém Gouillotine, do Đội
Phước thực hiện ngày 13-7-1956 tại nghĩa địa, đường Hòa Bình Cần Thơ.
Để trấn an dư luận, để
chứng tỏ chánh phủ quan tâm với sự tự do tôn giáo, những ngày lễ lớn như Tết,
Quốc Khánh, Ngô Đình Diệm mở những cuộc tiếp tân, mời các nhân sĩ thân hào tới
dự ở Dinh Tổng Thống, thân sinh của giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, ông Huỳnh Công Bộ luôn
luôn được mời tham dự. Mỗi khi đức ông Huỳnh Công Bộ đi dự, ông đi bằng xe nhà
hiệu Dodge sơn màu vàng sẩm, đi từ tư gia đức ông ở làng Hòa Hảo lên Sàigòn, nên
những người trong giáo phái Hòa Hảo đóng một chiếc Bắc để chở xe đức Ông từ bến
đò bên Hòa Hảo sang bến đò tại chợ Bình Mỹ, từ đó tên Bắc Năng Gù được khai sanh,
theo tôi do các anh lơ xe đường Long Xuyên Châu Đốc đặt tên như vậy để phân biệt
với bến đò Năng Gù ngay tại chợ Bình Thủy cách bến Bắc này không quá 500 thước.
Chiếc Bắc đó, chỉ là
chiếc ghe lớn đủ chở chiếc xe nhà, vận chuyển nó do chiếc đò máy chạy cặp bên hông,
khi không có chở xe đức Ông thì chiếc Bắc nằm yên trên bến sông, còn chiếc đò máy
chạy bình thường để chở khách.
Thuở đó đường LT 10
(Long Xuyên - Châu Đốc), chỉ có xe đò Long Xuyên – Châu Đốc mỗi ngày chừng 10
chuyến, Châu Đốc- Sàigòn chừng 2 chuyến mỗi ngày. Ở Hòa Hảo lúc đó chưa có xe hơi,
xe Lam, chỉ có xe lôi đạp, và chắc chỉ có vài xe găn máy là mobilette, đường lộ
không có trải nhựa, mưa xuống đường đất mềm, bám vào bánh xe khó chạy. Cho nên
chiếc phà ấy chỉ chở xe đức Ông mà thôi, nếu phà ấy có chuyên chở xe hơi khác,
thì sớm nhất phải từ thập niên 1970 trở đi mà thôi.
Ở bến đò bên Hòa Hảo, năm 1953 tôi có đi dự lễ 18 tháng 5 nên biết, tại đó
có 2 con đò khác nhau, một con đò đưa người đi từ Hòa Hảo qua Bình Mỹ và ngược
lại và một con đò đưa người đi từ Hòa Hảo sang cù lao Năng Gù và nguợc lại, con
đò này cập bến cù lao Năng Gù ở bên phía sông Hậu. Ai muốn đi từ Năng Gù qua Bình
Mỹ và ngược lại đã có con đò Năng Gù, như đã nói cách Bắc Năng Gù chỉ có vài trăm
thước.
Tôi cho rằng tên Bắc Năng Gù là do các anh lơ xe đường Long Xuyên - Châu
Đốc đặt tên để phân biệt với bến đò Năng Gù có người không tin, chuyện đã trên
50, 60 năm ai muốn tin thì tin, không tin không ai ép được, nhưng muốn kiểm chứng,
có thể hỏi những người dân địa phưong tuổi từ 70 trở đi, chắc họ nhớ và biết rõ.
Theo sách Nghiên cứu địa bạ triều
Nguyễn: An Giang của tác giả Nguyễn Đình Đầu cho biết:
“Bình Lâm thôn, ở hai xứ Rạch Cát, Rạch Chanh.
Bình Lâm thôn, sau
này Pháp đổi thành làng Bình Thủy, trong làng có 2 con rạch Rạch Cát và Rạch
Chanh ngoài ra cũng còn mấy con rạch khác có tên nhưng ít thông dụng vì nó ngắn
và nối liền vào Rạch Chanh. Rạch Cát thông ra đầu cù lao, nên lưu thông với sông
Hậu Giang, phù sa chảy vào, nên có cát trong con rạch, vì thế có tên là Rạch Cát,
còn Rạch Chanh là con rạch phát xuất từ trong cù lao với nhiều nhánh phụ cũng
phát xuất từ trong cù lao, ngày xưa do đất đai chưa khai phá, nước bị phèn, vị
chua nên gọi là Rạch Chanh, miền Nam nhiều nơi ó rạch mang cùng tên là Rạch
Chanh, nhiều người không rõ nguồn gốc, đặt câu hỏi trong vùng không thấy trồng
chanh, sao lại có tên là Rạch Chanh, cỏ tranh có thể có ở vùng đất gò nhưng
tranh người miền Nam không bao giờ phát âm ra Chanh.
Tên địa danh cù lao Năng Gù, có người căn cứ vào
sách vở cho là do chữ Long Cù biến ra Năng Gù, tôi thì cứ cho Năng Gù là địa
danh của người Khmer là Sneing-ku (Neng-gù: sừng trâu), địa danh đó như Mặc Cần
Dưng, Chắc Cà Đao, tại cù lao Năng Gù không có Sóc người Khmer, nhưng làng Bình
Mỹ, tại kinh đình Bình Mỹ bên kia sông Năng Gù ngày nay vẫn còn có Sóc người
Khmer, tôi không rõ dân số nhiều ít là bao nhiêu nhưng có. Ở những nơi có Sóc
người Khmer thì địa danh Khmer được lưu truyền theo âm tiếng Việt.
Sông Năng Gù, thật ra nó còn có tên là Xép Năng
Gù, Xép là từ ngữ xưa, ngày nay ít ai dùng, trong từ điển của Huỳnh Tịnh Của có
giải nghĩa từ Xép này là con sông nhỏ, người địa phương ở trên cù lao ở bên phía
sông Hậu Giang, vẫn dùng từ Xép khi nói: “Đi qua bên Xép”. Cũng như người từ bên
Xép đi qua bên kia thì nói: “Đi qua bên Hồ.”, thật ra trên cù lao, phía đó không
có cái hồ nào cả, đến nay tôi vẫn không hiểu danh từ “hồ” ấy để chỉ cho cái
chi, nhưng nói ra, ai cũng biết “hồ” là để chỉ cho phần đất cù lao chạy dọc
theo bờ sông Hậu.
Cũng trong sách trên: “Bình Mỹ thôn, ở hai
xứ Năng Gù, Trác Thượng Vật”. Tôi
không hiểu Trác Thưọng Vật là địa danh nào, theo ông Trần Hoàng Vũ giải thích
Trác Thượng Vật là bãi sình lầy ngập nước. Tôi nghĩ giải thích này đúng, là chạy
dọc lộ 91 làng Bình Mỹ có một cánh đồng cò bay thẳng cánh, trong cánh đồng này đương
nhiên sình lầy, như thế làng Bình Mỹ nằm giữa xép Năng Gù và Trác Thượng Vật (bãi
sình lầy, đầm lầy). Như vậy, làng Bình Mỹ có cái giới hạn Xép Năng Gù, cho chúng
ta thấy rõ Xép ấy được đặt tên theo tên cù lao Năng Gù, như Kinh Vĩnh Tế là con
kinh mang tên của bà Châu Thị Vĩnh Tế là chánh thất của Thống soái Thoại Ngọc Hầu.
Cho nên làng Bình Mỹ không có tên Năng Gù. Nguyên thủy chỉ có tên Cù lao Năng Gù
và Xép Năng Gù, sau đó là nhà thờ Năng Gù.
Còn nhà thờ Năng Gù,
là một nhà thờ lớn và quan trọng toàn tỉnh Long Xuyên cho nên năm 1920, nó được
nâng lên là nhà thờ giáo xứ, cai quản các họ đạo: Chắc Cà Đao, Cần Xây, Ba Bần, Long Xuyên, Đồng Súc,
Cái Dầu, Thị Đam.
Về lịch sử theo tài liệu về
nhà thờ Năng Gù, do giáo dân đầu tiên là Jacob Lê Phước Ngãi, người gốc Trung
Hoa, quê ở Đồng Nai, quan cựu trào nhà Nguyễn, lánh nạn cấm đạo Thiên chúa từ
thời Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) Qua những sắc dụ cấm đạo ban hành vào những năm 1848, 1851,
1855, 1857, 1859 và nhất là sắc dụ năm 1861, nhà Nguyễn đã quyết tâm dẹp đạo
Thiên chúa.
Chúng
ta biết rằng miền Nam thuộc về chúa Nguyễn từ năm 1759, khi Nặc Tôn dâng đất Tầm
Phong Long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cư Trinh và Trương Phúc
Du đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào (thị xã Vĩnh Long ngày nay), đặt ra 3 đạo là
Đông Khẩu Đạo (Sa Đéc), Tân Châu Đạo (Tân Châu) và Châu Đốc Đạo (Châu Đốc)
Ông Dương Văn Hóa
là người khai hoang lập ấp đầu tiên trên cù lao Năng Gù, qui tụ dân cư
lập thành thôn xóm, được nhà cầm quyền đặt tên là Thôn Bình Lâm.
Theo
như tài liệu trên Jacob Lê Phước Ngãi lánh nạn cấm đạo, như vậy ông và một số
người khác phải ẩn lánh nơi vắng vẻ để cử hành các thánh lễ, theo tài liệu về
Giáo xứ Năng Gù thì: Lúc ban đầu các bí
tích được cử hành chui ở vùng Kinh Ông Quýt, sau đó tại Rạch Gộc. Nhà thờ đầu
tiên cất sau núi Đức Mẹ bây giờ, có thể là trước năm 1859: trước bằng gỗ nền đất,
mái lá; sau lợp ngói xây tường, lót gạch tàu, trải đệm, không bàn ghế, có lầu
hát. Chuông có từ năm 1892. Theo tôi, nhà thờ được cất phải từ sau khi Pháp
chiếm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1863. Sớm nhất cũng phải vào thời gian 1870.
Nhà
thờ có tên là Năng Gù, vì nhà thờ đó nằm trên ấp Bình An thuộc thôn Bình Lâm,
mà thôn Bình Lâm nằm trên cù lao Năng Gù, địa danh Năng Gù được nhiều người biết
hơn là thôn Bình Lâm. Còn vì sao ấp Bình An ở sát làng Bình Hòa (Mặc Cần Dưng) ở
sát làng Bình Mỹ, tại sao ấp này không thuộc một trong hai làng đó mà thuộc
thôn Bình Lâm nằm trên cù lao Năng Gù, cách nhau cái Xép (sông) Năng Gù. Chỉ có
thể giải thích rằng, ngày xưa “đất rộng, ngưòi thưa”, ông Jacob Lê Phước Ngãi
cùng một số ngưòi theo đạo muốn ở nơi vắng vẻ, ít người lui tới để hành đạo,
cho nên sau khi khai phá, sang cù lao Năng Gù xin gia nhập làm dân của thôn
Bình Lâm này, do vậy dân ở đây là dân của thôn Bình Lâm, đất của người dân Bình
Lâm là đất của làng Bình Lâm, nên nó được mang tên ấp Bình An thuộc thôn Bình
Lâm, sau này người Pháp đổi tên thôn Bình Lâm là làng Bình Thủy thuộc tổng Định
Thành, quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên gồm có bốn ấp: Bình Phú, Bình Thới, Bình
Hòa và Bình An.
Vì
sao làng Bình Thủy thuộc quận Châu Thành, tỉnh Long Xuyên, đến ngày 23-8-1979,
xã Bình Thủy bị chia ra, các ấp trên cù
lao Năng Gù thuộc huyện Châu Phú, còn ấp Bình An có nhà thờ Năng Gù nhập với ấp
An Hòa của xã Bình Hòa thành xã An Hòa thuộc huyện Châu thành, theo Quyết định số 181-CP ngày 25
tháng 4 năm 1979 của Hội đồng Chính phủ.
Theo chỗ tôi biết, trong làng có Hương sư Lâm
Văn Nguyện, ông có ba cô con gái, người con gái thứ hai mất sớm, người con gái
thứ ba tên Lâm Thị Chuông, người con gái thứ tư tên Lâm Thị Hương và một người
con nuôi, con trai, người Khmer tên Phách. Hương sư Nguyện nhà gia thế trong làng,
thuở nhỏ Lâm Thị Chuông học thêu thùa, thêu những con thỏ ngậm củ cải, con nai
vàng ngơ ngác bên suối, mắt những con vật ấy đặt mua từ Pháp gửi sang, Đình làng
có bình phong đấp nổi, mặt trước hình như con rồng, mặt sau con cọp và nai, mắt
cọp và nai vốn của Lâm Thị Chuông cho, chị này lớn lên lấy chồng là Chín Nghiệp,
người ở làng Bình Long, hai gia đình môn đăng hộ đối.
Lâm
Thị Chuông lấy chồng, về nhà chồng ở. Đến cách mạng mùa Thu 1945, Chín Nghiệp theo
cách mạng hoạt động, đến khi Pháp trở lại, Lâm Thị Chuông trở về nhà cha mẹ
sinh sống, để tránh liên lụy. Nhưng vợ chồng vẫn thầm kín gặp nhau, nên vài ba
năm, chị ta vẫn sinh con, hàng xóm biết nhưng chẳng ai tố cáo với chánh quyền sở
tại.
Dưới
thời Ngô Đình Diệm, Chín Nghiệp hồi chánh, về sinh sống bên vợ một thời gian, rồi
vào bưng hoạt động trở lại, có thể vào khoảng Tết Mậu Thân.
Lâm
Thị Hương học trường tỉnh Long Xuyên, sau lập gia đình rồi định cư ở Sàigòn, làm
cô giáo Trường Tiểu học Bàn Cờ, cho đến sau 1975 chuyển về quê, làm cô giáo dạy
ở trường làng, gần nhà.
Sau
1975, ba tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Hà Tiên gộp lại thành tỉnh Long Châu Hà, Chín
Nghiệp là cán bộ của tỉnh Long Châu Hà, khi Long Xuyên – Châu Đốc xáp nhập thành
tỉnh An Giang và đưa huyện lỵ Châu Phú từ Mỹ Đức về Thị trấn Cái Dầu, tách cù
lao Năng Gù từ huyện Châu Thành nhập vào huyện Châu Phú, có lẽ Chín Nghiệp có đóng
góp vào việc cải tổ này, để xã Bình Long quê của anh và xã Bình Thủy quê của vợ
cùng nằm trong huyện nhà Châu Phú. Như vậy Chín Nghiệp dễ che chở bảo vệ cho
gia đình dưới chế độ mới, dưới quyền hạn của anh. Đây là sự lý giải theo thiển
nghĩ của tôi.
Chín
Nghiệp có con trai trưởng tên Phúc tự Paul, khoảng tuổi Tân Tỵ, thuở nhỏ học Trường
làng, sau học trường tỉnh rồi lên Sàigòn học Trường Bưu Điện, tốt nghiệp ngạch
Cán sự, bị đi Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, được biệt phái. Paul lấy vợ tên Liên Hoa người
Vĩnh Long, cựu học sinh Gia Long, có bằng Dược sĩ, chồng về làm ở Ty Bưu Điện
Long Xuyên, vợ có nhà thuốc Tây ở Thị x ã Long Xuyên, khoảng thập niên 1980
Paul mất, lúc đó tôi và nhà tôi về quê, nghe tin cả hai chúng tôi chồng bạn của
chồng, vợ bạn của vợ. Paul vai cháu nên tôi đến nhà tưởng niệm thắp nén nhang,
mẹ Paul giới thiệu Chín Nghiệp cho tôi : “Đây anh ba của em !”, lần đó tôi mới nhìn
rõ Chín Nghiệp, thân hình cao ráo dáng vẻ người cách mạng có học thức, không như
nhiều năm trước, đôi khi tôi thấy anh lom khom cuốc xới đất trước sân nhà, con
người bất phùng thời trở thành nông dân.
Năng
Gù trong tôi vẫn còn cánh đồng xanh ngát, mấy cái bông sen đỏ lẻ loi mọc ở ngọn
Rạch Sen, mấy cây bằng lăng bông tím như bông lục bình trôi trên sông, ngôi trường
làng mái đỏ, tường vôi trắng vọp lỡ, đều là những kỷ niệm êm đềm thơ ấu mỗi khi
quay về thời dĩ vãng.
No comments:
Post a Comment