Trước năm
1954, những nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà biên khảo đã cộng tác với báo chí Miền
Nam như tờ Lục Tỉnh Tân Văn, Đuốc Nhà Nam…
Trong số đó có Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), Phan Khôi (1887-1959), Sở Cuồng Lê
Dư ( ? -1967), Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
(1889-1939), Ngô Tất Tố (1894-1954), Đào Trinh Nhất (1900-1951)… Họ đã cộng tác
từ những năm 1909, là những năm báo chí Miền Nam cũng như Văn học Quốc ngữ ở Miền
Nam đã có nền móng, đã phát triễn nào là tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Quản, thơ
văn được sáng tác đăng trên các báo chí hàng ngày.
Chúng tôi
lần lượt trình bày những nhà văn, nhà báo đó, Nguyễn Văn Vĩnh là người đầu tiên,
đã vào Sàigòn từ năm 1909.
1.- Nguyễn Văn Vĩnh
Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15 tháng 6 năm 1882, tại số nhà 46
phố Hàng Giấy, Hà Nội. Cha là ông Nguyễn Văn Trực, nguyên quán làng Phượng Vũ,
xã Phượng Dực, thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông, nay là huyện Phú Xuyên.
Do hồi đó chưa có công trình thủy nông cống Đồng Quan nên quanh
năm ngập nước, cánh đồng chiêm chỉ cấy được mỗi năm một vụ nên nhiều dân làng
phải bỏ lên tỉnh sinh sống. Bố mẹ ông bỏ quê ra Hà Nội kiếm sống và ở nhờ nhà
một người họ hàng bên ngoại là vợ của ông nghè Phạm Huy Hổ ở số 46 phố Hàng
Giấy để kiếm sống.
Gia đình ông Trực đông con, từ 1882 tới 1890 hai ông bà sinh
được 2 con trai là Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Văn Thọ cùng 5 người con gái. Một
mình bà Trực đảm đang bằng cách về các vùng quê mua hàng gánh ra chợ Đồng Xuân
gần nhà bán. Trong bối cảnh đó việc học của Nguyễn Văn Vĩnh không được đến nơi đến
chốn: để đỡ gánh nặng, ông Trực đã cho Nguyễn Văn Vĩnh - con cả, lúc đó 8 tuổi
- đi kéo quạt ở trường Thông Ngôn của Pháp ở Đình Yên Phụ, Hà Nội.
Trường Thông Ngôn (Collège des Interprètes du Tonkin) mở năm
1886, do một người Pháp nói thạo tiếng Việt tên là André d'Argence vừa là hiệu
trưởng vừa là giáo viên quản lý. Phương pháp dạy chủ yếu là truyền khẩu, trường
cũng có dạy A, B, C... để học viên tập đọc, tập viết chữ Pháp, và có dạy cả chữ
Quốc ngữ, hồi đó ở ngoài Bắc chữ này mới chỉ được dùng trong phạm vi của các
Giáo hội.
Ngồi cuối lớp kéo quạt, nhưng ông đã chăm chú nghe giảng và học
lỏm. Nhờ vậy, mà ông đã nói và viết được tiếng Pháp khá thành thạo. Nhờ chăm
chỉ và ham học ông được Hiệu trưởng D’Argence đồng ý cho dự thi tốt nghiệp khi
lớp học mãn khóa năm 1893, vào lớp thông ngôn tập sự ngạch Tòa công sứ, cùng
với 40 học sinh của khóa học, và đỗ thứ 12 khi mới 10 tuổi.
Thầy d'Argence bèn đặc cách xin học bổng cho ông và nhận ông làm
học sinh chính thức của khóa học tiếp theo, khóa thông ngôn tòa sứ khóa 1893-1895,
ngoài thầy d'Argence còn có ông Đỗ Đức Toại - thủ khoa khóa 1890, cùng dạy.
Nguyễn Văn Vĩnh đỗ thủ khoa khóa này lúc 14 tuổi, được tuyển đi làm thông ngôn
ở tòa sứ Lào Cai...
Năm 1896, khi 14 tuổi ông vào làm thông ngôn ở Tòa sứ Lào Cai. Lúc
đó, Pháp đang cần người thông ngôn cho đoàn chuyên gia nghiên cứu và chuẩn bị
xây đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam cho Công ty Hỏa Xa Vân
Nam. Một năm làm thông ngôn tại Lào Cai, ông đã tích luỹ thêm nhiều kiến thức.
Khi đoàn chuyên gia được chuyển về Hải Phòng chuẩn bị cơ sở vật chất để xây
dựng đường sắt, ông cũng được chuyển về Tòa Sứ Hải Phòng theo họ.
Năm 1987, Nguyễn Văn Vĩnh lúc đó 16 tuổi được điều về Hải Phòng
đúng lúc người Pháp đang mở mang kiến thiết bến cảng. Công việc của ông ngoài
việc thông ngôn cho các chuyên gia đón tàu nước ngoài vào cảng, còn phải tiếp
nhận những vật tư kỹ thuật, hướng dẫn các công việc bốc vác, vận tải và xếp
kho. Hàng ngày được giao tiếp với thủy thủ của các tàu Pháp, Anh, Hoa... ông đã
học thêm tiếng Trung và tiếng Anh để thuận tiện cho công việc hàng ngày. Sau 3
tháng, ông đã dịch được hai thứ tiếng này đủ để đoàn chuyên gia Pháp làm việc.
Họ đỡ phải tuyển thông ngôn viên tiếng Anh và tiếng Trung, và vì vậy họ mến cậu
thông ngôn người bản xứ.
Với giá bằng nửa tháng lương của mình, hồi đó là 15 đồng, một
món tiền rất lớn, ông đổi lấy bộ sách Le Petit Larousse Illustré, từ điển Pháp
có hình vẽ, và Encyclopédie Autodidactique Quillet, hai quyển sách tự học
chương trình Tú tài Pháp. Ngoài giờ làm việc, ông chú tâm tự học, sau 2 năm là
xong hết chương trình phổ thông, làm hết các bài tập ở trong sách. Trong thời
gian 5 năm làm việc ở Hải Phòng, ông đã dành dụm mua được một hòm sách chính
trị, triết học và tiểu thuyết văn học Pháp, tài sản quý giá mà đi đâu ông cũng
mang theo.
Được đọc sách báo và tạp chí ngoại quốc đủ các loại - mượn của
các thủy thủ nước ngoài - Nguyễn Văn Vĩnh nhận thấy là dân tộc An Nam không có
chữ riêng của mình, phải dùng chữ Nôm, loại chữ bắt chước chữ Nho, khó học, ý
nghĩ phát triển chữ Quốc ngữ, dễ học, để giúp cho nhiều người học hỏi mở mang
kiến thức bắt đầu nhen nhúm, ông thử dịch những bài văn hay của Pháp ra Quốc
ngữ, bắt đầu bằng những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine.
Từ năm 1897-1905, ông chuyển về Tòa sứ Hải Phòng và Bắc Ninh,
bao gồm cả Bắc Giang. Thời gian làm việc ở Hải Phòng, ông làm cộng tác viên cho
tờ Courrier d’Hai Phong (Thư tín Hải
Phòng) và tờ Tribune Indochinoise
(Diễn đàn Đông Dương). Tỉnh Bắc Giang lúc đó bao gồm cả Bắc Ninh.
Viên công sứ Bắc Giang Hauser là một trí thức Pháp đỗ cử nhân
luật, đi học ngạch quan cai trị thuộc địa, có đầu óc dân chủ và có ý thức đúng
đắn về nhân quyền, biết người biết ta. Thấy ông Vĩnh nói tiếng Pháp thành thạo,
am hiểu công việc văn thư, tự mình thảo được công văn và báo cáo đủ các loại
cho tòa sứ, lại viết được báo tiếng Pháp và là cộng tác viên của tờ Courrier
d’Haiphong và tờ Tribune Indochinoise, Hauser liền đề bạt Vĩnh làm chánh văn
phòng tòa sứ, nâng lương vượt ngoài khung lương thông ngôn, và giao cho các công
việc đáng lẽ phó sứ phải làm, phó sứ Eckert hồi đó nguyên là nhân viên sở mật
thám, không có trình độ văn hóa, không làm được những việc nói trên.
Tòa sứ đặt ở Bắc Ninh, gần Hà Nội, nên các quan chức Pháp thường
xuyên qua lại, ai muốn hỏi việc gì, công sứ Hauser đều giới thiệu đến chánh văn
phòng và tất cả đều được giải đáp nhanh chóng, thỏa đáng với đầy đủ chứng cứ rõ
ràng. Sau 4 năm làm việc chung, Hauser càng mến phục nể tài Nguyễn Văn Vĩnh,
coi ông như là một cộng tác viên thân cận, một người bạn, đi đâu cũng kéo ông
đi theo, vì thế cho nên cuối năm 1905, khi ông công sứ được đề bạt lên làm Đốc
lý tại Hà Nội, ông Vĩnh được điều về theo.
Khi toàn quyền Beau sang thay Paul Doumer, chủ trương mở mang
học hành, lập các tổ chức y tế và hội thiện, Hauser được giao nhiệm vụ vận động
và giúp đỡ người Việt làm đơn và thảo điều lệ xin phép lập trường học, hội
đoàn, đệ lên phủ thống sứ để duyệt. Hauser giao hết việc này cho ông Vĩnh, vì
vậy ông đã trở thành sáng lập viên của các hội và các trường thời bấy giờ như:
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hội Trí Tri, Hội Dịch Sách, Hội Giúp Đỡ Người Việt
Sang Pháp Học, v.v...
Năm 1900, được 18 tuổi, ông kết hôn với người vợ cả là bà Đinh Thị Tính. Ngoài
ra còn hai người vợ thứ.
Bà Đinh Thị Tính sinh ra: Nguyễn Hải (1901-1939), Nguyễn Giang
(1910-1969), Nguyễn Thị Loan (1907-1942), Nguyễn Thị Nội (1909-1932), Nguyễn
Thị Vân (1913-1940), Nguyễn Dương (1914-1967), Nguyễn Phổ (1917-1997), Nguyễn
Kỳ (1918-2009), Nguyễn Thị Mười (1920-2013), Nguyễn Dực (1921-2000), Nguyễn Hồ
(1923- 2015).
Bà Phan Thị Lựu sinh ra: Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) và Nguyễn
Văn Thiện.
Bà Suzanne sinh ra: Alexandre Nguyễn Hiến (1920-1996),
Maximilien Nguyễn Phùng (1921-1997), Nguyễn Thị Thu Hương (1927-1945).
Người ta đồn thổi rằng Nguyễn Văn Vĩnh không làm tay sai cho
Tây, làm sao có nhiều tiền tài, sản nghiệp lớn đến vậy? Ý nói ngôi nhà số 13-15
Thụy Khuê bên cạnh hồ Tây…
Thực ra ông Schneider, một công chức Pháp, từng công tác với
Nguyễn Văn Vĩnh về làm báo. Sau 38 năm làm việc ở Việt Nam, năm 1918 ông đến
tuổi về hưu. Vì cảm phục, yêu mến Nguyễn Văn Vĩnh, mà trước khi về Pháp,
Schneider đã nhượng lại cho ông Vĩnh toàn bộ nhà in, cơ sở thiết bị và hai tờ
báo Trung Bắc tân văn và Học báo - tức Đông Dương tạp chí đã bị Toàn quyền Sarraut đóng cửa. Ông trở thành
chủ nhà in, chủ nhiệm hai tờ báo nói trên.
Nhờ có vốn, ông Vĩnh tậu ngôi nhà 13 và 15 ở Thụy Khuê, hướng
gió mát Tây hồ để cho vợ con sinh sống. Nhưng đến năm 1935 thì bị ngân hàng
phát mại, hóa giá.
Bãi bể nương dâu, thời vận xoay vòng, cuối cùng nhà của ông chủ
báo Đăng Cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí… sau nay vẫn được chọn làm Tòa soạn
một tờ báo ngành của nhà nước.
Dưới thời Toàn quyền Jean Baptiste Paul Beau 1902-1908, nhờ sự
giúp đỡ của Hauser, Nguyễn Văn Vĩnh cùng với các bạn đồng chí hướng, lần lượt
làm đơn xin thành lập Hội Trí Tri t ại Hà Nội, Hội Dịch sách, Hội giúp đỡ người
Việt đi sang Pháp du học, Đông Kinh nghĩa thục, ông là người thảo điều lệ, viết
đơn xin phép, và sau đó là giáo viên dạy chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp của trường.
Năm 1906, ông cùng Hauser sang Pháp lo việc tổ chức gian hàng
Đông Dương (Cochinchine) tại Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Được tận mắt chứng
kiến nền văn minh phương Tây, ông trở về nước với quyết tâm phát triển nền công
nghiệp xuất bản mà đầu tiên là phát hành báo chí, để qua đó truyền bá chữ Quốc
ngữ và bài bác các hủ tục phong kiến lạc hậu, nhằm canh tân đất nước, vì vậy
ông đã xin thôi làm công chức và trở thành nhà báo tự do. Cũng trong năm này,
ông là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp.
Tiếp đó, ông được F. H. Schneider mời hợp tác và in ấn tờ Đại Nam đồng văn nhật báo xuất bản bằng
chữ Hán (Tờ báo hàng ngày của nước Đại Nam chung một văn tự).
Năm 1907, sau khi ra được 792 số, ngày 28.3.1907, tờ báo được
đổi tên là Đăng Cổ Tùng Báo (Khêu đèn gióng trống) và in bằng cả hai thứ
chữ Nho và chữ Quốc ngữ, ông được cử là chủ bút. Đây là tờ báo tiếng Việt đầu
tiên ở Bắc Kỳ.
Lo ngại vì đường lối hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục, thực
dân Pháp ra lệnh đóng cửa trường vào tháng 11 năm 1907. Sau đó, họ còn cho bắt
giam Phan Chu Trinh cùng một số các chí sĩ yêu nước là các giáo viên lãnh đạo
của trường.
Nguyễn Văn Vĩnh là người Việt Nam duy nhất cùng với bốn người
Pháp đồng ký tên đòi trả tự do cho Phan Chu Trinh. Việc làm này cùng với việc
ông đã dịch toàn bộ bài viết "Đầu Pháp chính phủ thư" của Phan Chu
Trinh từ Hán văn ra Pháp văn. Bài này còn còn được gọi là "Thư trước tác
hậu bổ" (Lettre de Phan Chu Trinh au gouverneur général en 1906), khiến
Nguyễn Văn Vĩnh bị chính quyền thực dân gọi lên đe dọa gay gắt.
Với hàng loạt các vụ việc phản đối có tính vũ trang như vụ Kháng
thuế Trung Kỳ, tháng 3 năm 1908) và vụ Hà thành đầu độc ở Hà Nội vào tháng 6 năm 1908, thực dân Pháp đã đóng
cửa Đăng cổ tùng báo, đồng thời cấm Nguyễn Văn Vĩnh diễn thuyết, lưu
hành và tàng trữ các ấn phẩm của Phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Tuy nhiên,
năm 1908, ông được bầu vào Hội đồng thành phố Hà Nội. Cùng năm này, ông xin ra
tờ Notre Journal (Nhật báo của chúng ta) xuất bản bằng tiếng Pháp.
Năm 1909, ông lại xin ra tờ Notre Revue (Tạp chí của
chúng ta) cũng bằng tiếng Pháp. Báo này ra được 12 số. Cùng năm đó, ông được
mời vào Sài Gòn làm cố vấn cho tờ Lục tỉnh tân văn.
Lục Tỉnh Tân Văn do F.H. Schneider, chủ nhà in
người Pháp sáng lập, Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Trước tiên phát hành hàng tuần
vào ngày Thứ Năm, số ra mắt ngày 14-11-1907.
Năm 1908, sau khi tiếp xúc với Phan Bội Châu ở Hương Cảng,
Trần Chánh Chiếu đã đứng lên cổ động công khai ở Nam Kỳ một phong trào gọi là
Cuộc Minh Tân “cuộc” tức là công cuộc, “minh tân” lấy từ một câu trong sách Đại
học là Ðại học chi đạo, tại minh
minh đức. tại tân dân tại chí
ư chí thiện làm cho cái đức sáng hơn, người dân mới hơn, quyết chí làm tốt
hơn.
Trong thời gian này, Lục
Tỉnh Tân Văn cũng có nhiều bài công kích chế độ thuộc địa, kêu gọi đồng bào
đoàn kết chống quan lại tham nhũng khiến thực dân chú ý. Cuối tháng 10-1908, Chủ
bút Trần Chánh Chiếu bị bắt nên Lương Khắc Ninh thay thế chức vụ này.
Năm 1913, Nguyễn Văn Vĩnh trở lại Hà Nội làm chủ bút tuần báo Đông Dương
tạp chí cũng do F.H. Schneider sáng lập vào ngày 15-3-1913. Đây là tờ báo
đầu tiên ở Việt Nam quy tụ được hầu hết các nhân sĩ hàng đầu cả Nho học lẫn Tân
học trong cơ quan biên tập của tờ báo, đồng thời cũng là tờ báo đầu tiên ở Việt
Nam dạy người dân cách làm văn bằng chữ Quốc ngữ. Sau đó, ông được bầu vào Hội
đồng Tư vấn Bắc Kỳ, sau đổi làm Viện dân biểu.
Năm 1914, ông kiêm luôn chức chủ bút tờ Trung Bắc tân văn
cũng do Schneider sáng lập.
Sau ngày 15-9-1919, Đông Dương tạp chí ngừng xuất bản.
Thay thế nó là tờ Học báo, tờ báo có chuyên đề về giáo dục, Trần Trọng
Kim lo việc bài vở, Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ nhiệm. Cũng trong năm này, ông Vĩnh
mua tờ Trung Bắc tân văn và cho ra hàng ngày, đây là tờ nhật báo đầu
tiên trong lịch sử báo chí ở Việt Nam.
Năm 1927, ông cùng với E. Vayrac lập tủ sách Âu Tây tư tưởng (La
pensée de l’Occident), rồi tổ chức in và phát hành các đầu sách do ông dịch
thuật.
Năm 1929, ông được bầu vào Hội đồng Kinh tế và tài chính Đông
Dương.
Năm 1931, ông lập tờ L’Annam Nouveau (Nước Nam mới) in
hoàn toàn bằng tiếng Pháp với mục đích bảo vệ chủ thuyết Trực trị do ông đề
xướng và chống lại phái đối lập có chủ trương thực hiện đường lối Quân chủ lập
hiến. Đồng thời việc xuất bản bằng Pháp văn không phải xin phép chính quyền
theo luật định. Ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho đến khi mất 1936. Tờ báo này
đã đoạt được giải thưởng Grand Prix tại Hội chợ báo chí thuộc địa tổ chức tại
Paris năm 1932.
Năm 1932, ông đi dự họp Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông
Dương tại Sài Gòn. Trong một buổi họp, ông đã thay mặt giới doanh nghiệp phản
đối việc chuyển đồng tiền Đông Dương từ ngân bản vị sang kim bản vị, vì điều đó
chỉ có lợi cho ngân hàng Pháp, nhưng lại có hại cho nền kinh tế Đông Dương.
Khi đang họp thì Nguyễn Văn Vĩnh nhận được trát của tòa án đòi
tịch biên toàn bộ gia sản vì, sau nhiều lần "mặc cả" giữa Chính quyền
và Nguyễn Văn Vĩnh, nhà cầm quyền đòi Nguyễn Văn Vĩnh phải chấp nhận 3 điều
kiện sau:
- Chấm dứt việc đả phá
Triều đình Huế và quan Thượng thư Phạm Quỳnh.
- Đồng ý vào Huế làm thượng thư.
- Dừng toàn bộ việc viết báo.
- Đồng ý vào Huế làm thượng thư.
- Dừng toàn bộ việc viết báo.
Thay vì không chấp nhận các điều kiện trên, sẽ bị đòi nợ bằng
hình thức xiết nợ, bắt buộc phải trả mặc dù khế ước vay là 20 năm, do đã vay
một khoản tiền lớn của Ngân hàng Đông Dương Dùng để mở Trung tâm sách Âu Tây tư
tưởng năm 1927.
Năm 1935, Chính quyền đổi ba điều kiện nêu trên với Nguyễn Văn
Vĩnh còn tệ hại hơn và bắt buộc phải chọn một điều kiện, đó là:
- Chấm dứt toàn bộ
việc viết!
- Chấp nhận đi tù (dù chỉ một ngày)!
- Sang Lào tìm vàng để trả nợ!
- Chấp nhận đi tù (dù chỉ một ngày)!
- Sang Lào tìm vàng để trả nợ!
Tháng 3 năm 1936, Nguyễn Văn Vĩnh quyết định đi tìm vàng để trả
nợ, ông sang Sê-Pôn, Lào với một người Pháp có tên là A. Climentte, người này
lấy vợ Việt Nam, có đồn điền tại tỉnh Hưng Yên và cũng đang ngập nợ vì làm ăn
thua lỗ.
Ngày 1 tháng 5 năm 1936, người ta tìm thấy Nguyễn Văn Vĩnh một
mình trên con thuyền độc mộc, một tay vẫn cầm bút và tay kia cầm quyển sổ, trôi
giữa dòng Sê-Băng-Hiêng, tên một nhánh của sông Sê-Pôn. Ngưòi dân địa phương
đưa con thuyền cập vào chân cầu Sê Pôn để chuyển lên trạm y tế Sê Pôn cứu chữa,
nhưng đã quá muộn.
Nhà cầm quyền loan báo: Nguyễn Văn Vĩnh chết ngày 2 tháng 5 năm
1936 vì sốt rét và kiết lỵ, năm đó ông được 54 tuổi. Sau đó, thi hài Nguyễn Văn Vĩnh đã
được Hội Tam điểm tổ chức đưa về Hà Nội để cử hành tang lễ trong 3 ngày, từ 6
đến 8 tháng 5 năm 1936.
Tại buổi lễ tang, đông đảo giới báo chí của cả ba kỳ đã đến tiễn
đưa ông dưới dòng chữ: "Kính viếng Ông tổ của nghề báo".
Về sau mộ phần của ông được con cháu đưa về quê Phượng Dực, Phú
Xuyên.
Tác phẩm:
Những bài luận thuyết và ký sự sau:
- Xét tật mình (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ
số 6)
- Phận làm dân (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 48)
- Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 61)
- Nhời đàn bà (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 5)
- Hương Sơn hành trình (Hành trình thăm chùa Hương, đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 41 đến 45)
- Một tháng với những người tìm vàng (viết dở dang).
- Phận làm dân (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 48)
- Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 61)
- Nhời đàn bà (khởi đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 5)
- Hương Sơn hành trình (Hành trình thăm chùa Hương, đăng trên Đông Dương tạp chí từ số 41 đến 45)
- Một tháng với những người tìm vàng (viết dở dang).
Dịch từ tiếng Pháp
sang tiếng Việt
- Thơ ngụ ngôn của
La Fontaine (Fables de La
Fontaine)
- Truyện trẻ con của Perrault (Les contes de Charles Perrault).
- Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut), tiểu thuyết của Abbé Prévost.
- Ba người ngự lâm pháo thủ (Les trois mouquetaires), tiểu thuyết của Alexandre Dumas.
- Những người khốn khổ(Les Misérables), tiểu thuyết của Victor Hugo.
- Miếng da lừa (La peau de chagrin), tiểu thuyết của Honoré de Balzac.
- Guy-li-ve du ký (Les voyages de Gulliver), truyện của Jonathan Swift.
- Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les aventures de Télémaque), truyện của Fénélon.
- Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois Gentilhomme) kịch nói của Molière
- Giả đạo đức (Le misanthrope) kịch nói của Molière
- Bệnh tưởng (Le malade imaginaire) kịch nói của Molière
- Lão hà tiện (L'avare) kịch nói của Molière
- Tục ca lệ (Turcaret), kịch của Lesage.
- Truyện các danh nhân Hy lạp và La Mã (Les vies parallèles des hommes illustrés de la Grèce et de Rome)của Plutarque.
- Rabelais của Emile Vayrac.
- Le parfum des humanités (Sử ký thanh hoa) của Emile Vayrac.
- Chàng Gil Blax xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane), tiểu thuyết của Lesage.
- Truyện trẻ con của Perrault (Les contes de Charles Perrault).
- Mai nương Lệ cốt (Manon Lescaut), tiểu thuyết của Abbé Prévost.
- Ba người ngự lâm pháo thủ (Les trois mouquetaires), tiểu thuyết của Alexandre Dumas.
- Những người khốn khổ(Les Misérables), tiểu thuyết của Victor Hugo.
- Miếng da lừa (La peau de chagrin), tiểu thuyết của Honoré de Balzac.
- Guy-li-ve du ký (Les voyages de Gulliver), truyện của Jonathan Swift.
- Tê-lê-mặc phiêu lưu ký (Les aventures de Télémaque), truyện của Fénélon.
- Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois Gentilhomme) kịch nói của Molière
- Giả đạo đức (Le misanthrope) kịch nói của Molière
- Bệnh tưởng (Le malade imaginaire) kịch nói của Molière
- Lão hà tiện (L'avare) kịch nói của Molière
- Tục ca lệ (Turcaret), kịch của Lesage.
- Truyện các danh nhân Hy lạp và La Mã (Les vies parallèles des hommes illustrés de la Grèce et de Rome)của Plutarque.
- Rabelais của Emile Vayrac.
- Le parfum des humanités (Sử ký thanh hoa) của Emile Vayrac.
- Chàng Gil Blax xứ Xăngtizan (Gil Blas de Santillane), tiểu thuyết của Lesage.
Ngoài ra còn những bài dịch về: Luân lý học (khởi đăng trên Đông
Dương tạp chí từ số 15) và triết
học yếu lược (khởi đăng
trên Đông Dương tạp chí từ số 28).
Dịch từ tiếng Việt
sang tiếng Pháp
- Kim Vân Kiều tân dẫn Pháp văn (tức Truyện Kiều của
Nguyễn Du). Đăng từng kỳ trên Đông Dương tạp chí' từ số 18 trở đi.
Dịch từ chữ Hán sang
tiếng Pháp
- Tiền Xích Bích và Hậu Xích Bích, đăng trên Đông
Dương tạp chí, lớp mới, số 66-68.
Trong thời gian ở Sàigòn từ năm 1909 đến 1913, làm cố vấn cho Lục Tỉnh
Tân Văn, một người năng nổ như Nguyễn Văn Vĩnh, không thể không viết bài đăng
báo hoặc ông ký tên thật hay lấy bút hiệu nào đó, tiếc rằng cho đến nay chưa có
ai có điều kiện tham khảo, để phát hiện các bài viết của ông.
Giáo sư Dương Quảng Hàm có nhận xét về nhà văn, nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh như sau:
Về tư tưởng: Ông là
người học rộng, biết nhiều, lại có lịch duyệt, thiệp liệp tư tưởng học thuật
của Âu Tây, nhưng cũng am hiểu tín ngưỡng phong tục của dân ta, muốn đem những
quan niệm phương pháp mới nào hợp thời để truyền bá trong dân chúng, nhưng cũng
chịu khó tìm tòi và biểu lộ cái dở, cái xấu cũng như cái hay, cái ý nghĩa của
các chế độ, tục lệ xưa...
Về văn từ: Văn ông
bình thường giản dị, có tính cách phổ thông, tuy có châm chước theo cú pháp của
văn tây mà vẫn giữ được đặc tính của văn ta. Ông lại chịu khó moi móc trong kho
thành ngữ, tục ngữ của ta những từ ngữ có màu mẽ để diễn đạt ý tưởng (cả những
ý tưởng mới của Âu Tây) thành ra đọc văn dịch của ông tưởng chừng như đọc văn
nguyên tác bằng tiếng Nam vậy. Kể về văn dịch tiểu thuyết thì thực ông là người
có biệt tài, ít kẻ sánh kịp vậy
Nguồn:
- Nguyễn Văn Vĩnh Web: wikipedia
866406042017
No comments:
Post a Comment