Pages

Wednesday, April 5, 2017

Thương quá Sàigòn ngày trở lại ( 3 )



11.
Năm 1978, Thương xá Tax sau hai năm đóng cửa làm nhà kho, đã mở cửa lại với tên mới là "Cửa Hàng Phục Vụ Thiếu Nhi". Đó cũng là năm đầu tiên mở lại chợ Tết ở Saigon sau 1975.
Phía đường Lê Lợi, được phân chia thành từng ô nhỏ ven đường, cho phép người dân ghi danh mở các gian hàng bán tết.  Tôi xin ghi danh và được cho một diện tích khoảng 3 mét vuông nằm ngay đầu ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi. Địa điểm thật đẹp và thuận lợi. Mặt hàng tôi xin bán là kem do một người quen có máy làm kem hứa cho tôi mượn máy này trong một tháng để kinh doanh. Lúc đó tôi vừa lập gia đình và chuẩn bị có con đầu lòng, thật vui vì tin rằng Thương xá Tax cũ đã hoạt động lại và mùa xuân đang đến sẽ tạo ra một vận hội mới thoát nghèo.
Thương xá Tax có một lịch sử xây dựng từ gần trăm năm trước. Khởi công năm 1922, rồi khánh thành năm 1924 mang tên Grands Magasins Charner (GMC) là trung tâm thương mại lớn nhất và đẹp nhất suốt thời bấy giờ. Tòa nhà ban đầu chỉ có 3 tầng lối vào là góc Nguyễn Huệ - Lê Lợi ngày nay, nền nhà ngay lối vào có trang trí hoa văn bằng gạch Mosaic. Năm 1934, biển hiệu GMC được gắn thêm ở khu vực mái vòm đồng hồ. Năm 1942, tòa nhà được xây dựng thêm tầng 4, mái vòm bị tháo dỡ. Đầu những năm 1960, tên GMC được đổi thành Thương xá Tax.
Có một bài viết của tác giả Trần Thị Vĩnh Tường ghi nhận một nét đặc sắc của tòa nhà là lớp gạch men mầu lam lót trên cầu thang nối sảnh chính của tòa nhà đi lên lầu một như một dòng sông lam chảy miên man như một biểu tượng quý giá.  Gạch đó xuất phát từ quốc gia Morocco ở châu Âu, có nguồn gốc thật thi vị như sau:
"Kinh thành Fez (hay Fes) nằm trên triền dốc thung lũng, nơi cung cấp nguyên liệu làm gốm. Vùng Bin Jelleih, 12km phía bắc Fez, chứa loại đất sét rất lạ: lớp đất sét bên trên vẫn giữ nguyên màu vàng nâu sau khi nung, nhưng lớp bên dưới phơi nắng rồi nung thì đất sét biến thành màu trắng thích hợp cho gốm trắng - men - lam Fakhari nổi tiếng thế giới trong nhiều thế kỷ, người Pháp gọi là “Bleu de Fez”, giống “Bleu de Huế” triều Nguyễn. Thế kỷ 14, Fez có 124 xưởng gốm.
Ở thung lũng Mellih (Morocco), sông cuốn những tảng đá từ trên cao xuống hẻm núi hẹp. Đá mài thành bột mịn cho màu xanh lam tuyệt đẹp. Cầu thang Tax tráng men xanh lam vừa hợp ý người Pháp hàm ý Sài Gòn là một cảng sông vừa đúng với niềm tin trong Hồi giáo (Islam): màu xanh là màu trời và màu nước. "
Tôi đã nhiều lần đi lên đi xuống cái cầu thang hình bán nguyệt này, đôi khi đứng lại, đưa tay xoa đầu chú gà trống bằng đồng dựng hai bên tay cầm cầu thang. Đi lên đi xuống, ngồi nghỉ ngơi  nơi đây không phải vì thương tưởng di tích trăm năm này, mà đơn giản chỉ là người giao hàng mỹ nghệ cho Cửa Hàng Thiếu Nhi, ngồi nghỉ mệt sau khi đi lại lên xuống giữa trưa hè nóng bức mà thôi.
Mới đây, ngày 12.10.2016, Thương xá Tax đã chính thức đập bỏ để xây dựng một công trình khác to lớn hơn. Theo thông báo của người xây dựng thì một số hình ảnh quen thuộc với người dân ở thành phố bấy lâu nay ở tầng trệt và bên trong là đại sảnh chính sẽ được làm lại như cũ, với mái hiên che bên ngoài, với cầu thang uốn cong bên trong, với lớp gạch men mầu xanh lam lót đường, với con gà trống bằng đồng... Tất nhiên, với sự chuyển biến của đời sống, cái gì rồi cũng tàn phai đi, nhưng cái còn giữ trong lòng người chính là nỗi hoài niệm một thời quá vãng.
Từ một người không liên quan gì tới Mỹ Nghệ, tôi bắt đầu bước vào và sống suốt hai mươi năm bằng nghề mỹ nghệ khởi đầu từ Thương Xá Tax này.
Còn một tháng nữa thì đến tết Ất Mùi, tôi hớn hở ra địa điểm bắt thăm được để nhận chỗ, thì cũng là lúc nhận được tin người bạn hứa cho mượn máy làm kem cho biết máy bán rồi.  Máy làm kem không có thì địa điểm này .... bán cái gì? Tôi ngẩn ngơ nhìn vị trí được giao mà lòng hoang mang quá sức. Bất ngờ, ngay lúc đó, từ trong Cửa hàng Thiếu Nhi bước ra là ông thầy dạy tôi Triết học năm đệ nhất ở Đà Lạt. Ông vừa là thầy dậy Triết, vừa là một nhà văn, và lại là bạn của ông anh ruột của tôi. Tôi chào mừng, “Anh Tuyến...”
Nhà văn Nguyễn Quang Tuyến nhìn tôi ngạc nhiên: “Em làm gì ở đây?”
Tôi kể lại tình trạng của mình, anh Tuyến reo lên, “Vậy thì tốt.” - Trời, sao lại tốt?
Nguyễn Quang Tuyến dạy học ở trường Trung Học Văn Học Đà Lạt, sau 1975, nghề giáo không nuôi nổi gia đình, ông bươn chải vào rừng sâu làm nghề đốt than đem về bán, rồi cũng không ổn định, ông vào làm cho Hợp Tác Xã hàng Thủ Công Mỹ Nghệ Đà Lạt, và đang là phó chủ nhiệm kinh doanh. Mỗi tháng vài lần, ông đem hàng của Hợp Tác Xã về ký gửi cho cửa hàng Thiếu Nhi Thành Phố.
- Bây giờ thế này, hàng anh đem về là các mặt hàng mỹ nghệ gỗ như hộp bút, hộp trang điểm, tranh gỗ rất phù hợp với nhu cầu dân chúng mùa tết tặng quà nhau. Thay vì giao hết cho cửa hàng Thiếu Nhi, anh sẽ giao cho em một nửa, bằng giá với cửa hàng, em cũng bán ra bằng giá với trong cửa hàng, lại thêm gói giấy hoa làm quà tặng, em sẽ bán được. Sau đó, cái nào bán không được thì trả lại, anh lại giao vào cửa hàng Thiếu Nhi; còn cái bán được em trả tiền lại cho anh.
Nói chuyện xong, tôi nhận được ngay 4 thùng hàng lớn. Hàng mỹ nghệ gỗ là những sản phẩm làm ra từ nguyên liệu gỗ đặc biệt của Đà lạt, cây Bạch Tùng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cây này, chỉ biết đây là loại gỗ không sử dụng được cho xây dựng vì quá mềm, cũng không sử dụng được cho nguyên liệu vì quá xốp, đốt chút cháy hết liền, nhưng lại rất hữu dụng cho ngành mỹ nghệ. Sớ gỗ khít, mịn, mầu trắng sang trọng huyền ảo, khi được xẻ mỏng ra với độ dày khoảng 5 ly, từng miếng gỗ mượt mà như miếng lụa, trắng vàng thanh tú được chế biến thành từng cái hộp nhỏ dùng đựng bút, hay hộp có gương soi đựng đồ trang điểm, hay nhẹ nhàng hơn là một mảnh nhỏ như bàn tay, hình oval vẽ hoa, vẽ cảnh để làm quà lưu niệm.
Số hàng anh Tuyến đưa tôi bán được khá nhiều. Sau tết, còn khoảng một thùng, anh Tuyến về, trả lại tiền vốn xong, anh Tuyến nói: “Anh là đơn vị sản xuất, cần hệ thống tiêu thụ. Từ Đà Lạt xuống, anh chỉ có thể giao cho các cửa hàng như cửa hàng Thiếu Nhi, nên còn cả một thị trường ngoài quốc doanh rất rộng. Thay vì trả hàng lại cho anh, em dùng hàng này đi chào hàng và tạo đường dây bán bên ngoài. Hàng thì vô tận, mẫu mã thì đa dạng mà lại không cần bỏ vốn, chỉ bỏ công, em sẽ là đại lý tiêu thụ hàng cho anh.”
Tôi nhận lời. Saigon lúc đó có hàng loạt các cửa hàng bán quà tặng thủ công nằm ở đường Phan Đình Phùng, Nguyễn Huệ, Lê Lợi... nhiều lắm.
Tiếc là việc làm này không bền, vì trước nhất mỹ nghệ gỗ là loại hàng không bền, nó đẹp long lanh nhưng chỉ trưng bày một thời gian ngắn là gỗ sạm lại, xuống mầu, và bong, tróc hư hỏng. Thứ hai là Đà Lạt có đặc sản là gỗ Bạch Tùng trắng đẹp, thì miền Đông Nam bộ lại có thứ gỗ khác cũng trắng tinh, cũng nhẹ, cũng xốp mà giá thành rẻ chỉ bằng 1/3 giá gỗ Bạch Tùng, đó là gỗ Lồng Mứt. Người Saigon nhanh chóng tự sản xuất các mặt hàng giống hệt mỹ nghệ Đà lạt và giá chỉ bằng một nửa, vì giá gỗ rẻ hơn, không tốn chi phí vận chuyển. Thế là chỉ khoảng một năm sau, mỹ nghệ gỗ Đà Lạt mất thị trường Saigon và miền Tây.
Trong những ngày hàng ế, không giao được, tôi chạy xe đạp lòng vòng trong thành phố. Một nơi thường ghé lại nhất vào những buổi trưa hè là Vườn Tao Đàn.
Một buổi trưa, khi chạy xe chầm chậm loanh quanh trong vườn Tao Đàn, tôi bỗng nghe một loạt tiếng động nho nhỏ đều đặn vọng tới, lách cách lách cách... Tôi chạy xe đến và thấy trong sân vườn một căn nhà dành cho công nhân một nhóm ba thanh niên đang ngồi làm việc và chuyện trò rôm rả. Các em này người thì dùng một cái đục nhỏ xíu, đục trên thanh gỗ của cây đàn tranh, người thì ngồi cưa những miếng ốc thành những hình dạng như con người hay cây cỏ, người thì đang dùng giấy nhám chà láng  phần gỗ cứng bên hông đàn. Các em thấy tôi dừng xe đứng nhìn thì vui vẻ chào hỏi… Một em hỏi tôi có biết các em đang làm gì không?
- Không biết nhưng đoán chừng là Cẩn Ốc Xà Cừ phải không?
Năm 1985, đã có rất nhiều người Việt xa xứ quay lại quê hương và muốn đem đi một món quà gì đó có giá trị và nhẹ nhàng, thì các loại nhạc cụ dân tộc như Đàn Tranh, Đàn Bầu, Đàn Sến, Tỳ Bà, Nguyệt... làm bằng nguyên liệu gỗ quý, cẩn ốc xa cừ là một mặt hàng được ưa chuộng, tìm kiếm và giá thành khá cao. Trên đàn thường cẩn các tích xưa, đặc biệt là các điển tích Việt Nam.
Các em đang cẩn ốc một cây đàn tranh có hai người con gái đứng bên gốc cây, một em tên Trinh hỏi tôi, coi tranh này, anh có biết tích gì không? - Biết chứ! - Tích gì? - Có phải các em đang làm tích Truyện Kiều không? Đoạn này là đoạn Kim Trọng gặp Thúy Kiều, Chàng Vương quen mặt ra chào/ Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa, phải không?
Trinh ồ lên vui vẻ, chỉ vào tấm khác, còn cái này? Tôi cười, “Kiều ở lầu Ngưng Bích phải không? Trước lầu Ngưng Bich khóa xuân/ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung...”
Câu chuyện tiếp nối vui vẻ, các em cho biết các em ở Bình Dương, làm công cho con của ông chủ nhà này, ông ta nuôi cơm, và trả công theo sản phẩm, sau khi cẩn ốc xong, anh ta đem đi làm các công đoạn kế tiếp để hoàn thành sản phẩm và đem bán ở đường Tự Do, Nguyễn Huệ... Tôi yêu thích tay nghề mỹ nghệ và tính tình cởi mở của các em, và các em cũng quý mến tôi nên sau đó chúng tôi làm bạn, các em tới nhà tôi chơi, đi uống cà phê thân tình với nhau.
Tháng 8 năm 1985 là đợt đổi tiền lần thứ hai. Trong lúc tôi chưa biết làm nghề ngỗng gì nuôi sống gia đình thì ba anh chàng này tới, báo tin, “Tụi em tới chơi uống cà phê với anh một chút rồi về Bình Dương.”
- Sao không ở lại làm việc?
- Anh Sanh hết vốn rồi, tụi em muốn làm cũng không biết ở đâu.
Bất ngờ Trinh đề nghị, hay anh làm nghề này đi.
- Cẩn Ốc hả? Anh đâu biết gì về nghề này mà làm?
- Đâu cần làm, anh chỉ kinh doanh thôi, tụi em chỉ cho anh chỗ nào mua đàn mộc, chỗ nào bán ốc, chỗ nào tách nét, chỗ nào đánh bóng làm hộp, rồi anh đem đi bán, lời lắm.
- Anh không có vốn nhiều để đầu tư.
Trinh quay ra nhìn hai bạn, rồi nói, vốn ít thôi. Bây giờ tụi em có sẵn hai cây đàn cẩn ốc rồi, chưa làm hoàn tất thôi, anh bỏ vốn chút đỉnh đưa đi tách nét, đánh bóng, lên dây đàn, bỏ hộp rồi đi chào bán. Giá một cây đàn theo em biết họ mua vô cũng phải hai chỉ vàng (chắc khoảng 400.000 ngàn) mà một cây đàn sau khi bán được anh trả cho tụi em 150.000 là được rồi.
Tôi đồng ý, thế là nuôi ba chàng thanh niên đó trong nhà, tôi cũng bỏ ra khoảng gần 100 ngàn cho việc tách nét, đánh bóng, mua dây đàn và làm hộp nhung. Lần đầu tiên đem cây đàn ra đường Tự Do, tìm một cửa tiệm nhìn vô có cảm tình, rồi làm mặt dạn dĩ bước vô hỏi thăm họ có mua đàn cẩn ốc không?
Chủ tiệm là một ông già, nói tôi mở ra coi và hỏi giá. Tôi nói:  “Ba chỉ”, ông ta lắc đầu, mắc vậy, ở đây có mối giao cho tui mỗi cây một chỉ rưỡi hà. Tôi lẩm nhẩm tính trong bụng, Chỉ rưỡi là khoảng 300 ngàn, bán vậy thì lời chút xíu, chưa hài lòng. Bất ngờ có hai người khách bước vô tiệm, rồi đến cầm lên coi cây đàn tôi còn để trên mặt quầy. Ông chủ tiệm xua tay bảo tôi, đi ra ngoài đi, lát nữa trở lại.
Tôi gật đầu đi ra lấy xe đạp chạy ra bờ sông Bạch Đằng, tới bến đò Thủ Thiêm, ngồi ghé một quán cà phê bờ sông, kêu ly đen đá mà lòng hồi hộp. Lạy Trời… sao cho mọi chuyện êm đẹp... Một giờ sau, tôi quay lại tiệm, liếc quanh không nhìn thấy cây đàn tôi đem tới nữa. Ông chủ nói, ba chỉ mắc quá, nhưng thôi tôi mua giúp cậu, cậu về làm tiếp cho tôi 9 cây nữa, ba tuần sau giao hàng được không?
Tôi nói tôi không có vốn, nên không làm một lúc 9 cây được. Ông ta gật đầu, cậu làm xong cây nào đem ra giao tui trả tiền liền cây đó lấy vốn làm tiếp.
Ngay tối đó tôi giao cho ông ta cây đàn thứ hai. Bài toán là: cây đàn mộc 40 ngàn, công thợ 80 ngàn, tiền ốc 40 ngàn, nuôi ăn ba thợ 60 ngàn, tách nét 25 ngàn, đánh bóng 30 ngàn, làm hộp 30 ngàn, dây đàn, dây tua... lặt vặt  tính ra mỗi cây đàn thành phẩm bán ra một lời một. Thế là tôi bước vào nghề Cẩn Ốc.
Trong Nam gọi là Cẩn Ốc mà hai trung tâm lớn nhiều người làm là Gò Công và Bình Dương. Ngoài Bắc gọi là Khảm Trai, với nhiều làng nghề ở Hà Tây. Giống nhau, mà khác nhau. Giống nhau vì nguyên tắc làm giống nhau, nhưng khác nhau là nguyên liệu, miền Bắc sử dụng con Trai làm nguyên liệu chính. Trai hình dáng giống con nghêu trong Nam nhưng rất lớn, bề ngang có thể lên tới ba tấc, những con trai già bên trong có khi còn có ngọc, nên ngày xưa có câu "Lão Bạng Sanh Châu" nghĩa là con Trai già sinh ra ngọc quý. Người ta bắt con Trai về, bỏ thịt đi, lấy vỏ, xẻ ra từng miếng theo nan quạt, thành những miếng xương có hình tam giác, sau đó mài mòn lớp xù xì bên ngoài để lộ ra lớp bên trong lóng lánh. Trai có hai loại, Trai Mầu và Trai Nứa.
Trai Mầu thì rực rỡ mầu đỏ, xanh dương, xanh lá, vàng cam, còn Trai Nứa thì màu lóng lánh nhưng chỉ ửng hồng.
Còn miền Nam thì nguyên liệu chủ yếu là Ốc. Nguyên liệu ốc của miền Nam thì hết sức đa dạng. đắt tiền như Xà Cừ, Đĩa Vàng, Đĩa Trắng, rẻ tiền thì ốc Dẹm, ốc Gai, ốc Heo... Lúc tôi vào nghề thì đã lai tạp chủng, một sản phảm phối hợp nhiều loại ốc, loại trai miễn sao tạo mầu sắc óng ánh hấp dẫn.
Làm một sản phẩm cẩn ốc, là phải qua 12 công đoạn: Can, Cưa, Ghép, Gắn, Vạch, Dàm, Đục, Thả, Mài, Chà, Tách, Bóng. Mỗi công đoạn là một nghệ thuật, mà chỉ cần một công đoạn làm ẩu, là sản phẩm thành không có giá trị. Tôi vì không biết nghề, nên tham gia vào sản xuất, tôi lại là người phụ trách công đoạn quan trọng nhất, công đoạn bắt đầu: Can. Chữ này có lẽ khởi đầu từ chữ Scan của tiếng Pháp. Từ mẫu hình có sẵn vẽ trên giấy mỏng, người thợ ngồi bên một cái bàn bằng kính, bên dưới có đèn, đèn chiếu lên, xuyên qua kính, xuyên qua từng miếng ốc, và tờ giấy mẫu, thợ lựa miếng ốc vừa ý, nhìn theo chiều ánh sáng, vì có nhiều loại ốc nhìn phía này ra mầu đỏ, nhưng nhìn phía khác lại tối âm u, phải lựa chiều, rồi chia mẫu hình đó ra từng phần nhỏ cho vừa với miếng ốc, mỗi tấm hình mẫu, nhiều khi cả mấy chục miếng ốc, miếng thân người, miếng đầu người, miếng thân cây, miếng lá cây, miếng nóc nhà, miếng cây kèo... Khéo léo là sao lựa mầu sắc khác nhau, tiết kiệm ốc và phù hợp ánh sáng chiếu vào.
Qua việc thứ hai là Cưa, thợ dùng lưỡi cưa nhỏ như cọng chỉ, cưa ốc viền theo vết mực.
Ghép là công đoạn khó. Sau khi có các miếng ốc rời, thợ ghép các hình vào với nhau vừa khít giống như bản mẫu, lấy băng keo trong đính lại với nhau.
Gắn là lấy nguyên dàn ốc đã gắn kết với nhau, dán lên gỗ bằng hồ, dán đúng vị trí đã dự tính.
Vạch là dùng mũi nhọn của một cây thép, vạch viền theo ốc, để có một hình dạng trên mặt gỗ. Sau đó nhẹ nhàng gỡ ốc ra để ngay ngắn trên bàn. Bây giờ trên mặt gỗ đã có những đường nét mờ mờ.
Dàm là ngôn ngữ thợ mộc. Thợ dùng mũi dàm tương tự một cái đục nhỏ xíu, bề ngang khoảng 1 ly, đục sâu vào gỗ, chỉ đục sâu khoảng nửa ly thôi, nhưng đường dàm nối tiếp nhau tạo một nét liên tục khắp bức tranh.
Lúc đó mới Đục, thợ dùng cái đục nhỏ, lấy toàn bộ gỗ ở bên trong vạch dàm ra, độ sâu khoảng nửa ly, lấy gỗ ra và làm bằng phẳng chỗ gỗ lấy ra.
Thả là công đoạn bôi keo Hải Thuyền vào các chỗ đã đục và thả lại những miếng ốc đã cưa và ghép hồi nãy vào đúng chỗ.
Ngày hôm sau, khi keo đã khô, lớp ốc nổi lên nhưng không bằng phẳng hết, vì có miếng ốc dày, có miếng ốc mỏng, thợ phải lấy đá mài mài nhẹ tay và đều đặn để mặt ốc và mặt gỗ thành một lớp phẳng lì. Đây là công đoạn Mài.
Công đoạn Mài là làm với nước, cho nên ngày hôm sau, khi đã khô ráo, thợ phải làm công đoạn kế tiếp là Chà láng gỗ, và ốc.
Kế đó là công đoạn Tách. Thợ Tách dùng mũi dao nhọn, vạch lên ốc những đường nét thí dụ vẽ lá, vẽ mặt người, vẽ cây cỏ, vẽ những nét để từ một miếng ốc ra hình dạng bụi cây, cổ thụ, tàng lá, vạt áo… Sau đó lấy sơn đen bôi lên cho lọt sơn vào lớp tách. Khi lau đi, mới ra hình dáng mà chúng ta thấy trên tranh.
Công đoạn kế tiếp là một nhóm thợ riêng, họ đánh bóng mặt đàn, thân đàn và lúc đó mới nhìn ra sự lộng lẫy của Xà Cừ.
Lúc đó cây đàn được đem về, gắn dây, treo dây tua, gẩy lên thử âm thanh, và đi đặt cái hộp bên trong lót nhung đỏ. Hoàn thành.
Một cây đàn Tranh cẩn ốc giá có thể từ 3 chỉ vàng, lên tới ba lạng vàng là chuyện bình thường. Bởi vì Đàn Mộc có thể bằng gỗ quý, mặt đàn là gỗ Ngô Đồng, khác với đàn gỗ thường, mặt bằng gỗ thông. Rồi cẩn ốc cũng vậy, một cây đàn cẩn nhiều Xà Cừ, khác với giá cây đàn khảm bằng Trai Mầu Trai Nứa. Rồi một cây đàn phối hợp nhiều loại ốc, đường ghép hợp lý để tránh nét tách, khác giá với một miếng ốc, nhờ họa sĩ tách ra vừa là cô gái, vừa là bụi cây đứng cạnh nhau.
Ngay cả nét tách cũng vậy, một họa sĩ tài ba, nét tách uyển chuyển và tỉ mỉ từng cái lông con công, từng cái vẩy con rồng, cũng khác với nét tách hời hợt loáng thoáng.
 Mấy năm làm nghề, rất nhiều anh em ở Bình Dương làm việc với tôi, lần lượt các em đó lớn lên, về quê lấy vợ, làm gia công rồi lên giao hàng cho tôi đi bán, rồi lại giới thiệu các em, cháu nhỏ hơn lên làm tiếp.
Tôi về, đi xuống Thủ Dầu Một, rồi chạy thẳng lên ngã ba Lò Chén tỉnh Bình Dương, nơi ngày xưa là trung tâm cung cấp nguyên liệu làm nghề và cũng là nơi tập trung cả một làng nghề, hàng trăm gia đình làm nghề quanh quẩn bên nhau. Là làng quê thân thiện mà ngày xưa khi đang làm nghề, tôi đã theo các em đó tới chơi, ngủ lại trong căn nhà lá, quanh quẩn những con hẻm nhỏ, đất đỏ lầy lội trong làng và quen biết khắp nơi. Bây giờ nơi đây đã thành từng khu phố sang trọng, đường sá sạch đẹp, không còn dấu vết ngày xưa.
Tôi gặp lại Trinh với một cơ sở Cẩn Ốc khang trang, nhà cửa rộng rãi, giường tủ, bàn ghế đều là đồ Cẩn Ốc. Tôi gặp lại Thanh, nay là chủ một cửa hàng kinh doanh mỹ nghệ.  Và cũng thật đau lòng nghe tin Tuấn tử nạn xe cộ, Phượng phá sản bỏ quê đi mất tích...
Về lại Saigon, muốn tìm chỗ nào đó ngồi lại để nhìn ngắm Thương xá Tax ngày xưa mà không có chỗ. Gần nhất là cà phê của khách sạn Rex nằm đối diện thương xá Tax ngày xưa, nhưng cũng không nhìn được thương xá Tax, công trình xây dựng trạm xe điện ngầm đang trong tiến trình hoàn thiện. Thèm lắm một lần về nữa để nhìn lại chỗ của ngày xưa.
12.
Tôi đang ngồi ở một quán cà phê ven  con lộ vắng  chạy cong cong theo bờ kênh Tẻ . Đây là quán thứ ba kể từ buổi trưa nay, tôi loanh quanh trên con lộ mới này, gọi là mới, vì tôi đoán chừng con lộ và cả khu dân cư này mới xây dựng chưa tới con số hai mươi năm. Năm 1995 trước khi tôi rời Saigon, thì nơi đây vẫn còn là cánh đồng mênh mông cỏ lác.
Ngày mai tôi lại xa Saigon rồi, ba mươi ngày sống với ngờm ngợp bằng hữu , sống tung tăng với bờ cây góc phố xưa, chạy xe gắn máy một mình loanh quanh hết đường này qua ngõ nọ, nơi đâu cũng bát ngát những kỷ niệm, những ân tình ngày xưa gieo xuống, sống tận cùng mỗi khoảng khắc khi thức dậy buổi sớm mai, và kể cả khi nằm ngủ để hiểu được rõ ràng mình không đi tìm cái gì hết, mà thực sự là về để được sống một thời quá khứ. Ngày chót trước khi rời Saigon, tôi không giữ một cuộc hẹn nào với các thân tình, mà muốn một mình tận hưởng được sống với chính mình.
Tôi sinh ra ở Hà Nội, mà lớn lên ở Saigon. Vùng đất sống dài lâu nhất là khu vực giáp ranh quận Năm với quận Nhất- khu vực chân cầu chữ Y-. sau đó  vượt qua dòng Kênh Tàu Hủ, và sống ven dòng Kênh Tẻ . Kênh Tàu Hủ và Kênh Tẻ là hai dòng kênh song song, chính giữa là quận Tư. Còn bây giờ, tôi ngồi đây là bên kia dòng kênh Tẻ. Cùng bắt nguồn từ sông Saigon, Kênh Tàu Hủ chạy dọc theo Quận Nhất , cùng với Kênh Tẻ chảy song song vào đến ranh giới quận Năm thì gặp nhau  tại ngã ba sông có cầu Chữ Y, hai con kênh nhập lại thành một chạy về phía tây, chạy tuốt xuống Long An và chảy ra sông Vàm Cỏ Đông. Kênh Tẻ lớn hơn kênh Tàu Hủ. Theo Saigon Năm Xưa của cụ Vương Hồng Sển thì con kênh này được đào từ năm Kỷ Mão 1819 thời vua Gia Long, người chỉ huy đào kênh là Huỳnh Công Lý, nhạc phụ của vua Minh Mệnh. Khi kênh đào xong được đặt tên là  An Thông Hà. Nhân vật Huỳnh Công Lý này khá đặc biệt. Nguyên do là khi vua Gia Long gần mất, có ý muốn lập tự quân là người nối ngôi, triều đình chia thành hai phe, một phe đề nghị lập hoàng tôn là con của hoàng tử Cảnh đã mất, một bên muốn lập một vị vua lớn tuổi hơn để giữ giềng mối . Cuối cùng, Gia Long nghiêng về phía lập con lớn tuổi nối ngôi là Minh Mạng.
Khi Minh Mạng lên ngôi, phe nghiêng về lập hoàng tôn trong đó đứng đầu là Tả Quân Lê Văn Duyệt  đang là Tổng Trấn Gia Định Thành. Trước nhất đây là một vị tướng  dày công lao , thứ hai là đang cầm đại binh trấn đóng phương xa và thứ ba uy tín của vị lão thần quá lớn nên không thể ra mặt trị tội, Vua bèn sai nhạc phụ mình là Huỳnh Công Lý vào làm Phó Tổng Trấn, có thể cũng là để kiềm chế bớt uy quyền của Tả Quân.  Huỳnh Công Lý  có công đào kinh An Thông Hà, và  có thể cậy công, cậy là  cha vợ vua nên khi vắng mặt Tả Quân làm một số điều vi phạm. Tả quân làm phiếu trình tội lỗi của Huỳnh Công Lý đâng về kinh xin trị tội. Vua Minh Mạng muốn trì hoãn nên ra lệnh giải Huỳnh Công Lý về kinh xét xử. Tả Quân biết ý vua, nhưng cậy mình có Thượng Phương Bảo Kiếm chém trước tâu sau nên ra lệnh chém và gửi thủ cấp về kinh. Hiềm khích vua tôi càng thêm nặng nề nên sau khi Tả Quân từ trần, Án Sát Gia Định Thành là Bạch Xuân Nguyên cùng các quan ở trong kinh thành Huế đồng loạt dâng biểu kết tội  và chuyện triều đình kết tội đã làm con nuôi của Tả Quân là Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm đóng thành trì chống trả với triều đình  suốt ba năm 1833 tới 1835.
 Trong nghiên cứu “Lê Văn Khôi và sự biến thành Phiên An (1833-1835), GS. Nguyễn Phan Quang cho hay, cuộc nổi dậy này, lại thêm có Xiêm La, Cao Miên hưởng ứng với Khôi, nên rất mạnh. Vua Minh Mạng bởi việc này, mà nổi trận lôi đình, trách tội Lê Văn Duyệt nuôi mầm tai họa, án hậu tử của Lê Văn Duyệt sau đó hình thành.  sau khi bình định được thành Gia Định, vua cho  Giết sạch thành  rồi, truyền đem hết cả những thây đó vào chôn chung một huyệt tại làng Chí Hòa bây giờ, được tục kêu là “Mả Ngụy”. Ấy là việc ghi chép chung về hậu kết cuộc nổi dậy, cả thành Phiên An tất thảy đều bị giết hết."
Cũng khu vực giữa hai dòng kênh này, nhất là bờ phía nam Kênh Tẻ , vào thời gian từ năm 1945 đến 1960 là  mật khu của quân Bình Xuyên. Theo Wikipedia ghi lại là:
"Sau khi quân Anh-Pháp gây hấn ở Sài Gòn (23 tháng 9 năm 1945), nhiều lực lượng quân sự chống Pháp tự phát được thành lập. Người lập bộ đội thường lấy tên của mình đặt cho lực lượng trong vùng, như bộ đội Tân Quy cũng được gọi là bộ đội Dương Văn Dương, hay gọn hơn là bộ đội Ba Dương. Bộ đội Nhà Bè mang tên bộ đội Hai Nhị, Hai Soái... Khi Dương Văn Dương, thủ lĩnh các nhóm giang hồ Nam Bộ, thống nhất các lực lượng quân sự chống Pháp ở Tân Quy, Tân Thuận, Nhà Bè, Thủ Thiêm, ông đã chọn cái tên "Bình Xuyên" để đặt cho lực lượng thống nhất này. Đây là tên chữ trên bản đồ Sài Gòn - Chợ Lớn để chỉ vùng Hố Bần, còn gọi là Xóm Cỏ, địa bàn hoạt động của lực lượng này. Cái tên "Bình Xuyên" còn hàm chỉ: "Bình" gợi chiến công đánh chiếm và bình định, còn chữ "Xuyên" để chỉ vùng chi chít sông rạch.".
Bình Xuyên là một tổ chức tự phát tập họp nhiều thành phần là giang hồ tứ chiếng, có nông dân chân lấm tay bùn, có nho sinh, hào kiệt khắp vùng lục tỉnh Nam kỳ, nhiều tay kiệt liệt võ nghệ cùng mình mà cũng nhiều tay du đãng quanh vùng Saigon Chợ Lớn về đầu quân lập nghiệp. Sau năm 1955, khi bị đánh tan, số còn lại của lực lượng kéo về Rừng Sác rồi tan biến dần trong dân gian. Khu vực bên kia cầu Kinh Tẻ là nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân Pháp với Bình Xuyên, giữa quân đội Ngô Đình Diệm với Bình Xuyên và cả giữa các băng nhóm khác nhau của Bình Xuyên tranh dành quyền lợi đánh lẫn nhau. Tàn chiến cuộc, biết bao nhiêu xương cốt, vũ khí bỏ hoang phế nơi ruộng lầy, nơi đầm nước, nơi kênh rạch mà dân cư  lâu lâu lại tìm thấy.
Khi về cư trú vùng Xã Tân Quý Tây, huyện Nhà bè, tôi ngạc nhiên khi gặp chỉ trong một ấp là Ấp 4 tôi ở có tới cả chục người tên Gấu.  Ông Tám Gấu sửa xe, ông Hai Gấu bán tiệm tạp hóa, chàng thanh niên Gấu làm nhân viên xã....hỏi ra mới biết trong  vùng có một vị Thầy Ngãi thuốc Nam, chuyên bốc thuốc, coi bói, cúng kiếng  mà dân rất nể trọng. Gia đình nào có con sợ khó nuôi đem đến thầy xin cúng thế, thấy cúng rồi cho bùa ngãi đeo trên người cùng lúc đặt tên lại, và không rõ thầy thờ gì, nhưng đặt tên lại đa số đặt tên là Gấu. Khi tôi tới đó thì ông thầy đã mất rồi, chỉ có một nhân vật lạ lùng ở ngay trong xóm tôi là Cậu Hai Gấu làm tôi nhớ hoài.
Cậu Hai Gấu khoảng ba mươi tuổi, dáng người thanh mảnh, mặt mũi sáng sủa , thường mặc nguyên bộ bà ba trắng sống trong một khu vườn rộng cây trái, có một căn nhà xây, mái ngói, cổ kính khá lớn , nằm lẩn sau những tàn cây um tùm hoa trái. 
Thường mỗi buổi chiều, cậu thong thả đi dạo xóm trên xóm dưới, chỗ nào cũng được chào hỏi  trân trọng. Có lần đứng trước cửa nhà, thấy cậu ta đi ngang, miệng cười vui vẻ, tôi cũng chào hỏi, cậu ta dừng lại chuyện trò hỏi thăm gốc gác, công chuyện làm ăn và rủ bữa nào rảnh ghé vô em làm vài chung rượu nghe anh Bẩy.
Một bữa rảnh rang, tôi đi sâu vô xóm, quẹo trái quẹo phải theo hàng rào  cây lá, đi tới  đi tới nữa  cho tới khi nhìn trước mặt là ruộng lúa, xa lắm mới có một mái nhà , mùa này trời mưa nên vùng nước lợ đã ngọt lại, bà con có thể gieo trồng lúa, khác với mùa nắng, nước nhiễm mặn bỏ mặc cho cỏ lác mọc bạt ngàn.
Vui chân đi cho đến trời xuống chập choạng mới tìm đường quay về, về gần xóm thì trời đã tốitối hẳn. Tôi đi từ phía ruộng lên nên đi vào phía sau nhà cậu hai Gấu. Từ cuối vườn tôi thấy một cái Miễu nhỏ, có sáng đèn nhang thấp thoáng có bóng người, rồi cậu Hai Gấu lên tiếng hỏi anh Bảy hả, đi đâu về phía này vậy, ghé vô chơi.
Tôi ghé vô mà được mời vào cái bàn có sẵn hai băng ghế đá ngay trước miếu. Trong miếu không có bài vị hay hình thờ, mà trang trọng trên bàn thờ , là một cây Mác cụt cán bầy trên giá gỗ , phía sau là một khung hình có chữ Tâm.
Quen với cậu hai Gấu rồi, tôi được mời dự một buổi cúng tổ vào giữa tháng giêng ta,  Bữa đó tôi mới biết  đàng sau cái dáng vẻ thanh mảnh nhẹ nhàng đó, cậu hai Gấu là một nhân vật có võ công như phim chưởng, cậu bay nhảy từ dưới đất lên đọt cây, từ đọt cây này chuyền qua đọt cây khác hai tay liên tục đưa ra nhưng chiêu thức lạ mắt và nghe gió lộng vù vù một khi cánh tay vung lên. Cũng bữa đó, tôi được giới thiệu nhiều tay mã thượng giang hồ, tên chỉ là hai chữ Tư Bân, Mười Tổng.. khuôn mặt phong trần gân guốc, tuổi tác  có khi lên tới 70, râu tóc bạc phơ , ngồi nói chuyện mà luôn tỏ vẻ kính trọng một câu thưa cậu Hai, hai câu thưa cậu Hai, Tới lúc làm lễ họ đồng loạt ra trước miễu múa võ cúng tổ đường quyền cứng cáp mạnh bạo, khi di chuyển nhẹ nhàng thanh thoát như một vũ công. Tàn cuộc lễ, họ trải hai hàng chiếu giữa sân, mọi người ngồi chung quanh , có hai cây đàn guita phím lõm, một cây đàn Nhị, cây đàn gáo và nâng ly rượu  hát hò xướng họa với nhau .
Tôi đã từng đi coi Cải Lương, nhưng tuồng tích là chính , chưa bao giờ thưởng thức thực sự âm điệu kỳ diệu của vọng cổ. Ở đây trong vòng tròn , người ta hát những làn điệu dân ca xưa cổ như Nam Bình, Nam Ai, Tống Biệt, Khốc Hoàng Thiên....nhiều lắm lời ca là nỗi niềm riêng của huynh đệ giang hồ nghe buốt dạ:
- Mấy khi rồng gặp mây đây
Để rồng tâm sự với mây đôi lời
Nữa mai rồng ngược mây xuôi
Biết bao giờ nối những lời rồng mây......
Đêm đó cậu hai Gấu mặc bộ bà ba trắng như bình thường, nhưng khác hơn là trên đầu quấn cái khăn nâu , cột sau ót giống như một cái nón vải, lưng thì cột một khúc vải  cũng mầu nâu sẫm, quấn bên hông thả dài xuống dưới đùi, chân mang giầy vải bó. Vòng tròn hơn hai mươi người nhưng không ai nói chuyện riêng, chỉ chăm chú nghe  từng người hát, rượu không rót ra ly mà đựng trong bầu, họ chuyền tay nhau mỗi khi uống xong, giữa vòng tròn người là khoảng trống không có thức ăn mồi nhậu gì cả.
Chừng giữa buổi, Cậu hai Gấu đứng dậy, bước ra giữa vòng, cung tay bái về phía miếu, và vòng tròn rồi bắt đầu đi quyền.

-Nghe hung tín Nhị Ca đà thọ khổn. 
Hồng Đào San em quay ngựa trở về đây . 
Kìa! Giửa pháp trường cát bụi mù bay, 
Quân đao phủ sắp ra tay hành quyết.
 
Khoan khoan, hảy để anh cạn phân đừng giết oan một trang hào kiệt, nghe lời anh đình thủ bớ La ... Thành. 

Một ông lão tóc bạc , tướng mạo hùng vĩ, đột ngột đứng lên  hát tiếp ......

- Thôi rồi một lưỡi gươm đưa đã dứt mạng anh hùng.  Đơn Nhị Ca ơi còn đâu một đời ngang dọc, quyết vẫy  vùng cho rõ mặt núi sông. Nhớ năm xưa cùng nhau thề 
câu chị ngã em nâng, dẫu tử sanh quyết vẹn nghĩa kim bằng. Thế mà hôm nay u hiển đôi phang, giửa pháp trường chia tay vĩnh viễn. 

Cả hai quay tròn bên nhau, lúc người này hát, người kia múa võ, thay đổi  qua lại.

-Đơn Nhị Ca ơi, ôm thây anh máu thắm nhuộm chinh y . Lòng tiểu đệ thêm não nùng chua xót. Nhớ đến câu "Tiền đồng tịch, kim bằng cộng lạc, hậu lâm nguy 
bất kiến đệ huynh". Đấng anh hùng đâu ngại lẽ tồn vong, nhưng chết tức tưởi ngàn thu còn di hận. 

Giữa lòng đêm và ánh lửa bập bùng trước miếu, giữa không gian vừa trang nghiêm vừa hào hùng. Dường như lẫn cả vào đó chất bí ẩn thiêng liêng làm tôi mường tượng ra khung cảnh của lớp người ngày xưa đi mở đất phương nam.

Tiệc rượu kéo dài tới giữa đêm mới tàn, một số người leo lên xe gắn máy rời địa điểm, nhưng ấn tượng nhất với tôi là hình ảnh ông già râu tóc bạc phơ, phất tay đứng dậy, chào cậu hai Gấu, và chào chung quanh bằng câu ngắn gọn, "thôi Qua về nghen mấy em," và lừng lững bước ra phía sau, bên bờ rạch đã sẵn một chiếc ghe tam bản, ông bước xuống,  lấy mái chèo , khua nước rồi  đi xa dần giữa bóng đêm, con trăng ngày rằm soi giòng nước lãng đãng , hắt trên lưng áo một vệt như ánh bạc.  Sau này , cậu hai Gấu mới nói cho tôi biết những lời ca đó là trong trích đoạn bài vọng cổ Tống Tửu Đơn Hùng Tín, đoạn họ hát trao đổi với nhau là lớp Tần Quỳnh khóc bạn.


Bây giờ khu xóm cũ không còn nữa, tôi đã về tìm lại, nơi đây đã xây cất thành những tòa chung cư lớn, tân kỳ hiện đại, ruộng lúa, bờ dừa khi xưa thành những con lộ  tráng nhựa rộng rãi. Tìm gặp vài người còn sót lại, họ cũng không biết cậu Hai Gấu tên họ là gì, không biết nguồn gốc miếu  thờ đó là thờ ai, không biết nhóm người tụ họp cúng kiếng rồi ngâm vịnh hát hò đó thuộc băng nhóm nào và sau chót là khi khu đất giải tỏa, họ cũng chẳng biết cậu Hai Gấu  lưu lạc phương nào, hãy còn hay đã mất.

Chỗ ngồi này với tôi hết sức thân tình và cũng thật xa lạ. Thân tình vì ngày xưa, từ căn nhà mái lá của huyện Nhà Bè, bên cạnh dòng kênh Tẻ, tôi đã biết bao lần đưa mắt ngó ra xe qua bên kia bờ kênh, chỉ là những rặng dừa nước , những chòm cây Xú, cây Đước, cây Tràm mọc mênh mông với những khoảng trống là cỏ lác......vùng nước lợ không có vườn cây trái và cũng chẳng có chăn nuôi.  Và cũng thật xa lạ vì những tòa nhà xây dựng mỹ thuật, rộng rãi với rất nhiều những con đường mới mang tên là số thứ tự 1, 2, 3....đặc biệt là con đường đẹp với hàng cây cao và công viên chạy dài theo dòng kênh Tẻ. Từ bên này bờ kênh nhìn qua, tôi vẫn còn mường tượng ra khu xóm cũ, cái hẻm nằm sâu hun hút bên những hàng dừa....

Tôi ghé quán cà phê đầu tiên lúc giữa trưa, đây là một tòa nhà 4 tầng, trên tầng thượng, tôi có thể nhìn thấy con kênh Tẻ nước xanh ngắt chảy mênh mông, xa hơn là những tòa nhà cao tầng của quận Tư và xa hơn nữa, lẫn trong mây mờ là tòa nhà hình búp sen ở quận Nhất, tòa nhà đang được coi như một biểu tượng cho Saigon bây giờ. Sau đó  ngại ngùng vì ngồi quá lâu, tôi rời quan , đi dọc mé kênh tìm một quán khác ghé vào. Quán này nằm sát bờ kênh. tôi nghe được tiếng rì rào sóng vỗ, tôi thấy được khuất sau hàng cây bên kia những mái nhà nhỏ , và rõ ràng còn nhìn thấy cả tuổi thơ tôi xưa hiển hiện khi nhìn đám trẻ con nô đùa  dưới dòng nước mênh mông.
Về đây và bâng khuâng giữa Đi và Về.
Tôi về và yêu thích cái không gian trầm lắng nơi này. Ngay sát cạnh  những sầm uất  của Quận Nhất, Quận 5, nhưng những hàng cây cao, con đường mới mở chạy ven theo bờ kinh, và thanh vắng ít người tạo ra một khoảng không gian đặc biệt thanh tĩnh nhẹ nhàng.
Chữ Về và chữ Đi ám ảnh rất nhiều trong  các bài thơ hay của các thi sĩ nổi danh. Nhớ có lần, ngồi với Đinh Cường và Phạm Cao Hoàng ở cà phê Starbugh. Tôi bất chợt nhớ đến một câu thơ  mà không nhớ rõ của ai, câu thơ hay:  "Bao nhiêu huyết lệ trong trời đất, huyết lệ nào không huyết lệ ta..." Cả ba đều ngần ngừ không biết chắc, cái hơi thơ kiêu bạt và hào hùng đó có lẽ là thơ Tô Thùy Yên, và có lẽ trong bài Ta Về . Đêm đó, Đinh Cường gửi cho tôi một email, nói rằng, về nhà vẫn lẩn quẩn suy nghĩ và đã tìm ra, đó là thơ Mai Thảo trong "Ta thấy hình ta những Miếu Đền", Bốn câu đó là:
Ta thấy nhân gian bỗng khóc oà
Nhìn hình ta khuất bóng ta xa
Sao không, huyết lệ trong trời đất
Là phát sinh từ huyết lệ ta.
Mai Thảo là nhà văn, gần một đời viết văn, Văn của Mai Thảo là những lời chau chuốt , mượt mà . Những câu ông viết xuống trong các tùy bút đã trở thành quen thuộc bởi vì đó là những câu được các Người dẫn chương trình nhà nghề sau này thường sử dung, và sử dụng thuần thục. Gần cuối đời, ông xuất bản một tập thơ, tập thơ duy nhất. Khi tìm đọc lại những trang thơ của Mai Thảo,rồi nhân đó tìm đọc thêm những trang thơ của Tô Thùy Yên bất chợt nhận ra mấy điều kỳ lạ.
Tô Thùy Yên người miền Nam, Mai Thảo người gốc Bắc, cả hai là bạn thân của nhau và cùng chung một nhóm là nhóm Sáng Tạo. Mai Thảo là nhà văn, Tô Thùy Yên là nhà thơ, Hơi thơ của Tô Thùy Yên bi tráng , thơ của ông là những trò chuyện với Tâm Linh, với Thiên Nhiên mà ở đó không phải để nhìn ngắm, chiêm ngưỡng mà như một đối tượng để trầm tư, đối thoại.
Mai Thảo và Tô Thùy Yên cùng trong một thời điểm đưa ra  hai bài thơ : Bài Ta Về của Tô Thùy Yên và bài Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền của Mai Thảo. Cả hai bài đều là tuyệt tác , cả hai đều là những vần thơ rung động tim người, có điều hai bài  đi ngược chiều nhau.
Mai Thảo viết khi đang khoảng thời gian già yếu , nhiều trọng bệnh, làm trên đường đi về cõi chết, Tô Thùy Yên viết khi từ cõi chết trở về.
Cũng là Về, Mai Thảo thì thấy:
"Ta thấy hình ta những miếu đền
tượng thờ nghìn bệ những công viên
sao không, khói với hương sùng kính
đều ngát thơm từ huyệt lãng quên"
 hay là: 
ta thấy muôn sao đứng kín trời
chờ ta, Bắc Đẩu trở về ngôi
sao không, một điểm lân tinh vẫn
cháy được lên từ đáy thẳm khơi
Mỗi đoạn thơ chia hai câu trên thành lòng khao khát và hai câu dưới tự hỏi chính mình Tại sao lại không? bởi vì ..... Nhưng tỏa trong không gian một cái lòng độ lượng và thanh thản chịu đựng.
Tô Thùy Yên khi từ cõi chết trở về, cái nhìn cũng mênh mông và tráng khí:
Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi

Buồn nhưng không thảm:
Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta.
Tôi ngồi đây và nghĩ tới Đi và Về. Đi Việt Nam hay Về Việt Nam, Ngay từ lúc còn ở Mỹ, khi ngồi trong phi trường nghe những đồng hương nói chuyện, dường như không ai dùng chữ Đi mà chỉ nghe chữ Về. - "Về Việt Nam lần này chắc tui ráng đi Sapa một chuyến, nghe đẹp lắm" "Lần trước bà về, có ghé Rạch Giá không?".
Mỗi người về mang một tâm trạng khác nhau, cũng là thăm lại vùng đất khi xưa sinh sống, cũng là tìm gặp gia đình thân hữu, cũng là muốn hít thở lại lại cái không khí ngày xưa, sống lại cái không gian  kỷ niệm, nhưng khi ra đi người nào cũng thấy lòng man mác.
Con ngõ nhỏ ngày xưa quanh co lầy lội, đưa về căn nhà mái tôn có dàn bông giấy tím, bây giờ con ngõ đã nâng cao, trải bê tông sạch sẽ, căn nhà xưa đổi chủ, xây cao lên ba bốn tầng, nhưng cái cảm giác đi về vẫn là cái rạo rực như ngày xưa đi nghỉ hè xa về nhà. Dòng kênh xưa nơi mỗi buổi chiều nắng xuống, cùng một bạn trong xóm chơi U Mọi, bắn bi, đánh khăng đánh đáo đã đời, rủ nhau nhảy ùm xuống bơi lội thỏa thích, thì nay dòng kênh đó có bờ bê tông bao bọc, thiếu đi những cội cây Đước cây Tràm. 
Trong nỗi cảm hoài của buổi trở về, chúng ta bắt gặp từ rất nhiều danh tác, từ thơ qua nhạc. Cái nào cũng là một nỗi niềm u uất :
Phạm Duy ngậm ngùi: Mẹ có hay chăng con về, chiều nay thời gian đứng im để nghe.....
Lam Phương tha thiết: Người về, một mùa thu gió heo may, về đâu?  có nhớ chăng một vì sao long lanh....
Nghe Trương Vũ  kể nhiều đêm năm bỗng nhớ Nha Trang tới tê người.
Nghe Phạm Cao Hoàng nhớ Đà Lạt, Nghe Đinh Cường nhớ Dran, Cái nhớ mông lung, cái nhớ dịu dàng , nhớ mà không thể hình dung ra cụ thể là nhớ cái gì. Không chắc đã là con đường xưa, ngôi trường cũ, khung cảnh chung quanh, không gian đã sống, cũng không chắc là một bóng hình, một kỷ niệm hay một rung động đã qua. Mà có lẽ nó là một tổng hợp các thứ ấy trộn vào nhau theo một thứ tự vô hình nào đó, vào một thời điểm nào đó đã ghi một dấu ấn khó phai , có phải đó là cái hồn của nơi mình đã sống vẫn tồn tại trong lòng mình hiện tại?
Mới đây, trên facebook, đọc được bài thơ đắng lưỡi tê môi của Hoàng Lộc:
Bài Anh Không Về Nữa:
anh không về nữa.
quê nhà
đã quen gió táp mưa sa mất rồi?
anh không về nữa người ơi
trái tim vừa cũng hết thời yêu thương?
phải đi cuối lối cùng đường
phải đau khắp phố khắp phường người dung
để khi ngoảnh lại
trông chừng......
Bài thơ làm tôi choáng váng, tê điếng người . Bữa đó dù đang bị tiểu đường, cũng ráng pha ly trà đường uống cho đỡ đắng cổ.
Đi là tìm một cái gì mới, khung cảnh mới, đời sống mới, xã hội mới và rung cảm mới. Còn Về là được sống lại chính mình của một thời đã qua. Về là hồi sinh, là được thoải mái thả mình vào ký ức, là gặp gỡ cảm giác non nớt của mình ngày xưa, và rung động thực của mình bây giờ. Con hẻm nhỏ  lầy lội  uốn lượn theo bờ cỏ bụi cây ngày xưa, đưa về căn nhà mái tôn lụp xụp không còn nữa, đã thay vào đó là đường đổ bê tông, căn nhà cũ đã đổi chủ xây lên cao đẹp, thế mà cái cảm giác rưng rưng  vẫn không thay đổi.
Đến một tuổi nào đó, người ta ngần ngại cho những chuyến đi, nhưng vẫn náo nức thèm mong một cuộc trở về. Tôi cũng vậy, về lại Saigon lần này, tôi không dám nhảy xuống dòng kênh bơi lội,  không cần phải núp vào gốc cây trước cổng trường Nguyễn Bá Tòng nhìn em tan học về, không được đạp những vòng xe  nửa đêm từ Phú Nhuận về Nhà Bè, đường vắng lặng để vừa đạp xe vừa hát um sùm ...."đường thênh thang gió lộng một mình ta", cũng chẳng cần ghé cà phê Bình Minh để nhìn đôi mắt sắc như dao, cũng chẳng còn được cái thú vui đêm rằm, chèo ghe  theo đường rạch đi lễ chùa Ông. Nhưng kỳ lạ là tôi thấy chẳng mất đi đâu , vẫn nguyên vẹn trong tôi cả một thời đi vào xa lắc, vẫn quẩn quanh bên tôi tiếng cười đùa giọng nói đặc trưng Saigon của người xưa cũ .
Nói cho cùng, trở về chính là nhân đôi kỷ niệm, được sống, được thở và được vui buồn một lần nữa cái tuổi thanh xuân đã qua của mình.

Ngày mai tôi lại chia tay với Saigon, tôi không đoán được chuyến sau về tôi sẽ gặp ở Saigon điều gì, Những gì tôi thấy và gặp gỡ trong lần về này sẽ thành kỷ niệm? hay lần sau tôi về tôi lại hoài niệm tới một khoảng xa hơn nữa? Đời sống như một giòng chảy, nhìn thì giống nhau, nhưng có ai được tắm hai lần ở một giòng nước đâu, Thương quá Saigon của mỗi lần trở lại.

No comments:

Post a Comment