Xã
hội Tây phương thời Trung cổ được tính từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XIV,
tưởng cũng cần nhắc lại Hy Lạp cổ đại
có một nền văn minh khởi đầu từ thời kỳ Tăm tối của Hy Lạp khoảng từ thế kỷ XII
cho tới thế kỷ thứ IX Trước Công Nguyên (BC) và kéo dài đến cuối thời kỳ cổ
đại, khoảng năm 600 BC. Tiếp nối giai đoạn này là sự bắt đầu của giai đoạn đầu
thời kỳ trung cổ và kỷ nguyên Byzantine. Các thành bang Hy Lạp đã bắt đầu hình
thành vào thế kỷ thứ VIII BC, mở ra thời kỳ Hy Lạp cổ xưa và quá trình thuộc
địa hóa khu vực Địa Trung Hải.
Tiếp
theo đó là thời kỳ Hy Lạp cổ điển, kỷ nguyên này được bắt đầu bằng các cuộc
Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, kéo dài từ thế kỷ thứ V cho đến thế kỷ thứ IV BC. Nhờ
vào các cuộc chinh phạt được Alexandros Đại Đế của Macedonia thực hiện, nền văn
minh Hy Lạp hóa đã phát triển rực rỡ trải dài từ khu vực Trung Á cho đến tận
cùng phía tây của khu vực biển Địa Trung Hải.
Màu đỏ là những đô
thị của Hy Lạp khoảng năm 550 BC
Thời
kỳ Hy Lạp hóa đi đến hồi kết khi Cộng hòa La Mã tiến hành chinh phạt Hy Lạp và
xáp nhập các vùng đất nằm ở phía đông khu vực biển Địa Trung Hải, họ đã thành
lập ra các tỉnh như Macedonia của La Mã, và sau này là tỉnh Achaea của Đế quốc
La Mã.
Nền
văn hoá cổ điển của Hy Lạp, đặc biệt là về triết học, đã có một ảnh hưởng mạnh
mẽ đến La Mã cổ đại, đã giúp truyền bá nó đến nhiều vùng đất khác nhau của khu
vực Địa Trung Hải và Châu Âu. Vì lý do này, nền văn hóa Hy Lạp cổ điển thường
được coi là cội nguồn văn hóa mà góp phần tạo ra nền tảng cho nền văn hoá Tây
phương thời kỳ cận đại, chẳng những thế mà còn được coi là cái nôi của nền văn
minh Tây phương.
Lúc bị La Mã thôn tính vào thế kỷ thứ 2 trước công nguyên, đế
chế Hy Lạp với nền văn minh Hellen truyền thống đã mang đậm dấu ấn của đời sống
thành thị. Trong những thành phố với lớp người thuộc tầng lớp trên nói tiếng Hy
Lạp đã có sẵn các thành phần dân cư hỗn hợp. Họ phục tùng sự cai trị của La Mã,
miễn sao nếp sống của họ không bị xáo trộn. Người La Mã đã khôn ngoan kế thừa
có chọn lọc đời sống văn minh đó để xây dựng đế chế, phần nào dựa vào khuôn mẫu
văn minh Hy Lạp, nhất là mô hình Athens.
Kể từ lúc người con nuôi của Julius Caesar (100-44 BC), Gaius Julius Caesar Octavianus (63 BC-14 AC) lên kế vị Caesar trở
thành hoàng đế đầu
tiên của Đế quốc La Mã, ông đưa ra kiểu mẫu
xây dựng thành phố làm chuẩn mực cho toàn bộ vùng đế chế. Kể từ đó về sau,
“lịch sử chinh phục thế giới của đế chế La Mã là lịch sử của bành trướng và xây
dựng một số lượng lớn các đô thị”. Họ không quan tâm đến vùng quê. Nông dân ở
đó chỉ có nhiệm vụ đóng thuế và không hưởng một quyền lợi nào từ qui định của
luật pháp. Họ không được thừa nhận là công dân La Mã. Họ là những người cùng
đinh trong xã hội. Có nhiều người vì nghèo khổ bị mang ra chợ nô lệ bán cho
người thành thị, đấy không phải là chuyện hiếm hoi. Nhiều hiệp sĩ đấu trường
được mua từ các chợ nô lệ, được huấn luyện kỹ năng chiến đấu cá nhân để mua vui
cho quan chức La Mã.
Đế quốc La Mã vào năm 69
Thành phố là nơi nuôi dưỡng quân đội để bảo vệ đất đai, nơi thu
thuế nông dân và thương gia để nộp về La Mã, nơi cư ngụ và hành đạo của hàng
giáo sĩ, nơi tòa án đưa ra phán quyết, nơi tập trung nguồn tài chánh của đế
chế, nơi xây dựng các công trình phục vụ cho đời sống xa hoa theo kiểu mẫu kinh
đô La Mã. Chỉ có thành phố mới có trường học và các cơ quan công quyền.
Đế quốc La Mã thời hưng thịnh vào khoảng Thế kỷ IV
Hệ thống giao thông liên tỉnh cũng được xây dựng theo một kiểu
mẫu nhất quán: một con đường độc đạo thẳng tắp lát đá, chất lượng cao, ít dốc
để nối đến một thành phố lân cận. Giữa hai thành phố là đầm lầy, rừng rú và
làng mạc hoang vu, phát triển tùy tiện, phụ thuộc vào ý muốn và nguồn lực tài
chính của giới điền chủ địa phương.
Trong cấu trúc lỏng lẻo đó, xã hội bị phân hóa thành nhiều giai
cấp khác nhau rõ rệt: Doanh nhân và tiểu công nghiệp là những người hưởng đầy
đủ quyền công dân; giáo sĩ thuộc một nhóm đặc biệt trong xã hội, chỉ chịu sự
chi phối bởi luật công giáo; người Do Thái được bảo vệ trong khuôn khổ cho phép
của vua chúa và giám mục, họ sống cô lập trong các khu Ghetto, một thực thể lạ
trong cộng đồng Kitô. Còn lại đa số là nông dân, đày tớ, nô lệ phục vụ cho
người chủ ở nông thôn hoặc bên ngoài thành phố. Họ không được luật pháp bảo vệ.
Trong trường hợp tranh chấp với ai, họ phải nhờ các chủ nhân đại diện trước
pháp luật.
Đấy là gia tài đầu tiên mà đế chế La Mã để lại cho châu Âu. Họ
để lại sáng kiến và cơ cấu tổ chức thành phố, mô hình thiết kế vuông vức đối
xứng, kỹ thuật xây dựng lâu đài cung điện, hệ thống phòng thủ, đường sá, các
công trình công cộng, hệ thống cung cấp và thoát nước, nhà tắm công cộng, sân
vận động, đấu trường, nhà hát, nhà thờ … Đồng thời họ cũng để lại một cấu
trúc xã hội tương phản và bi tráng: những người lớp trên sống xa hoa trong bốn
bức tường của thành phố, những kẻ cùng đinh nô lệ nghèo khổ sống ở vùng quê bên
ngoài. Và tệ hại hơn nữa là đế chế La Mã để lại một cộng đồng lỏng lẻo, không
có sự gắn kết giữa đời sống trong và ngoài thành phố, cũng thiếu sự gắn kết
giữa các thành phố với nhau. Khái niệm quốc gia hoàn toàn xa lạ trong cộng đồng
rời rạc đó.
Kể từ lúc Constantine đại đế (280-337) nắm quyền bính, Kitô giáo
được chính thức thừa nhận, không còn bị truy đuổi như trước. Theo quyết định
Mailand năm 313, giáo sĩ Kitô được phép truyền đạo trên khắp đế chế La Mã. Đây
là bước ngoặt đầu tiên của lịch sử phát triển Kitô giáo, còn được gọi là
bước ngoặt Constantine. Bước ngoặt quan trọng thứ hai là sắc lệnh năm 380
của Theodosius đại đế (347-395) nâng Kitô thành quốc giáo, sau đó năm 391 cấm
tất cả các dị giáo khác không được phép hành đạo. Bước ngoặt thứ ba là quyết
định năm 529 của Justinian I (482-565) đóng cửa viện hàn lâm Plato, làm một
vạch ngang chấm dứt việc quảng bá triết lý Hy Lạp trong đế chế. Các triết gia
Hy Lạp và môn đệ phải rút về vùng Tiểu Á và Ả Rập để sinh tồn và có thể tiếp
tục nghiên cứu. Kể từ đây, chỉ có một luồng triết học duy nhất được nghiên cứu
và triển khai, đó là triết lý thần học Kitô. Tu viện từ nay đóng vai trò độc
tôn trong nhiệm vụ này.
Đến đầu thế kỷ thứ 7, tín đồ các tôn giáo khác phải lánh nạn ra
khỏi đế chế La Mã, hoặc cải đạo sang Kitô giáo. Ngoại trừ những cộng đồng nhỏ
bé người Do Thái còn được phép tồn tại, ngoài ra thì tình trạng độc giáo Kitô
kéo dài hơn 1000 năm sau trên lục địa châu Âu, với những hệ lụy tất yếu của nó
về chính trị, văn hóa, xã hội và cả về nghiên cứu khoa học.
Những quyết định nói trên mang tầm vóc thiên niên kỷ. Chúng để
lại dấu ấn rất sâu đậm lên nền văn hóa châu Âu cho đến bây giờ. Một mặt, giáo
lý Kitô trở thành chuẩn mực đạo đức trong xã hội, làm khuôn mẫu cho những hoạt
động hướng thiện của con người, khuyến khích tín đồ làm những việc về thần khí,
hướng đến cái đẹp hoàn mỹ vĩnh cửu. Đấy là khía cạnh tích cực. Nhưng mặt khác,
giáo hội Kitô đã lợi dụng ưu thế của mình để chi phối đời sống vật chất và tinh
thần trong xã hội. Thánh kinh chứa đựng những lời giáo huấn của Đức Chúa Trời
được xem như là chân lý không ai có quyền tranh cãi, chứ chưa nói gì tới phản
đối.
Nền văn hóa Kitô chi phối lên tất cả mọi mặt trong đời sống.
Nhân sinh quan, vũ trụ quan của giới có ăn học đều được hướng dẫn trong Kinh
thánh và những văn bản diễn giải đi kèm của giáo hội, không ai có quyền phản
biện. Cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên cũng thế. Cấu tạo của vũ trụ như thế
nào? Con người sinh ra từ đâu? Qui luật chuyển động của vật chất ra sao? Tất cả
các câu hỏi đó không cần đặt ra, không phải là đối tượng để tìm tòi nghiên cứu.
Chúng đã được trả lời minh bạch trong Thánh kinh và các hướng dẫn của giáo hội.
Phản biện lại những điều đó là một tội khó tha thứ, sẽ bị tòa Thánh kết án
nghiêm khắc.
Chẳng hạn như phiên tòa vào
ngày 13 tháng 2 năm 1633, nhà triết học, toán học và thiên văn học người Ý
Galileo Galilei đã phải đến Rome để đối mặt với tòa án dị giáo, vì bị buộc tội ông
đã ủng hộ học thuyết của nhà thiên văn Ba Lan, Nicolaus Copernicus (1473-1573),
cho rằng Mặt Trời là trung tâm, Trái đất đang quay xung quanh Mặt Trời, cũng
như các ngôi sao khác. Điều đó trái ngược với giáo lý của Giáo hội Công giáo La
Mã, đang cai trị nước Ý lúc bấy giờ. Giáo hội cho rằng Trái đất là trung tâm của
vạn vật chứ không phải Mặt Trời, do đó mọi học thuyết phản bác lại điều này đều
bị coi là dị giáo.
Sau đó, ông đã phải nhận tội
để được giảm nhẹ hình phạt. Cuối cùng, Giáo hoàng Urban VIII quyết định xử ông
tội dị giáo và bắt ông phải chịu sự giám sát của nhà thờ trong suốt phần đời
còn lại, mọi tài liệu và ghi chép của ông cũng bị cấm lưu hành trong dân chúng.
Galileo sống nốt quãng đời còn lại của mình trong biệt thự tại Arcetri, gần
Florence trước khi mất vào năm 1642. Mãi tới tận năm 1992, Vatican mới chính thức
thừa nhận sai lầm của mình trong việc tuyên án Galileo. Và ngày hôm nay,
Galileo được vinh danh như một trong những nhà khoa học có đóng góp rất lớn cho
thiên văn học hiện đại.
Những đặc điểm kinh tế-xã hội nổi bật sau đây:
Về kinh tế: đây là giai đoạn thực hiện bước chuyển từ chế độ
chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến:
- Từ thế kỷ thứ V những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu
tranh giai cấp khác bên trong cùng với sự tiến công của các man tộc bên ngoài
đã dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc La Mã. chế độ nô lệ chấm dứt, chế độ phong
kiến ra đời trên sự hoang tàn của kinh tế và văn hoá. Nghề thủ công suy sụp,
thương nghiệp giảm bớt, các thành phố cổ đại tiêu điều nhường chỗ cho nền kinh
tế nông nghiệp, trung tâm của cuộc sống chuyển về nông thôn với việc xác lập
nền kinh tế tự nhiên, nô lệ trở thành những nông dân tự do.
- Đặc điểm của nền kinh tế phong kiến là nền kinh tế mang tính
tự nhiên, tự cung tự cấp, đóng kín và trì trệ dựa trên lao động thủ công thô sơ
với hình thức bóc lột phát canh thu tô của địa chủ đối với nông dân. Nhìn chung
đây là nền kinh tế thụt lùi so với thời cổ đại.
Song, cuối thời kỳ phong kiến vào thế kỷ XII – XIV, nền kinh tế
bắt đầu có sự phát triển: kinh tế tiền tệ dần thay thế nền kinh tế tự nhiên,
thủ công nghiệp và thương nghiệp phát trỉển, nhiều thành phố thương cảng mọc
lên, một số ngành kỹ thuật khá phát triển. Sự tiến bộ này tạo tiền đề cho thời
kỳ phục hưng, cho sự quá độ từ phong kiến lên Tư bản.
- Về chính trị-xã hội: Xã hội phân hóa thành hai giai cấp lớn là
địa chủ và nông dân. Quyền chiếm hữu ruộng đất, các tư liệu sản xuất khác cũng
như sản phẩm làm ra thuộc về địa chủ phong kiến. Cuối thời kỳ này diễn ra các
cuộc thập tự chinh thúc đẩy công thương nghiệp phát triển, tạo ra một tầng lớp
thị dân đương đầu với lãnh chúa đồng thời giúp cho văn hoá phương tây giao lưu
với văn hoá phương Đông.
- Về mặt tinh thần: Thời kỳ Trung cổ ở Tây Phương lúc đầu là Cơ
đốc giáo sau là Thiên chúa giáo là hệ tư tưởng thống trị, những giáo lý tôn
giáo trở thành những nguyên lý về chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ
trong mọi cuộc xét xử, tín điều nhà thờ là điểm xuất phát của mọi tư duy, thế
giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học và chính trị.
Giáo hội Thiên chúa giáo là thế lực phong kiến quan trọng, giáo
hội có quyền sở hữu đối với nhiều ruộng đất, là đại diện cho pháp luật và chính
trị, là công cụ thống trị quần chúng về mặt tinh thần. Toàn bộ đời sống tinh
thần của xã hội đều đặt dưới sự thống trị của nhà thờ thiên chúa giáo.
Thời kỳ này, nông dân, thậm chí cả võ sỹ phong kiến không có học
và không biết chữ, chỉ có tầng lớp tăng lữ có học để viết sách và giảng kinh,
tăng lữ độc quyền thống trị văn hoá, dẫn tới thời kỳ này văn hoá phát triển
chậm chạp và trì trệ. Các sử gia gọi đây là “đêm trường trung cổ”. Và là thời
kỳ mà chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh viện đã ngự trị trong đời sống tinh
thần của nhân dân.
Đặc điểm của triết học Tây Phương thời Trung cổ
Đặc điểm thứ nhất: Triết học phụ thuộc vào thần học. Bởi vì xã
hội Tây Phương thời Trung cổ bị tư tưởng thần quyền thống trị nên nó vùi dập tư
tưởng duy vật khoa học của thời cổ đại đã tạo dựng lên. Thực chất triết học
thời này là triết học của giai cấp thống trị, là một thứ triết học duy tâm, tôn
giáo hầu hết các nhà triết học là chứng minh cho những tín điều tôn giáo của
nhà thờ. Đây là thời kỳ thụt lùi so với thời kỳ cổ đại.
Đặc điểm thứ hai: Cũng từ đặc điểm thứ nhất mà triết học Tây Phương
thời Trung cổ về thực chất là nền triết học biện minh cho tính hợp lý của xã
hội thần quyền; đồng thời nó quay lưng lại với tri thức khoa học do đó nó làm
kìm hãm sự phát triển của khoa học. Các nhà triết học đều giải quyết mối quan
hệ giữa cái chung và cái riêng, trên cơ sở đó nảy sinh hai khuynh hướng triết
học phổ biến là chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh. Cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa Duy thực và chủ nghĩa Duy danh là biểu hiện của cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa Duy vật và chủ nghĩa Duy tâm của thời Trung cổ.
Nói chung đây là thời kỳ Triết học kinh viện, cho nên người ta đánh
giá thời kỳ nầy, triết học Tây Phương không được phát triển, phải đợi đến thời
kỳ Triết học Phục Hưng ở thế kỷ XV.
8664190519
Hi anh Tông, tôi đã đến Mỹ. Liên lạc với tôi ở số phone (657) 401 2260
ReplyDelete