Khi về già,
bạn bè ngày càng ít, năm ngoái về quê thăm nhà được tìn ba người cùng tuổi, có
kẻ là láng giềng sát cạnh nhà, có kể bà con đầu ông cố, đầu ông sơ đã qua đời,
người thì bệnh già, người thì tắm đêm bị đột quị, kẻ đêm ngủ yên sáng đã qua đời,
đó là kể đến những người cùng tuổi có thân thiết xưa nay, chuyện nọ, chuyện kia
ở lối xóm, trong làng nói với nhau họ còn biết, còn chia sẻ được những điều họ
biết.
Những người
khác, em hay cháu cách mình một thế hệ, những suy nghĩ, những hiểu biết khác
nhau về quan điểm về nhận thức cho nên khó hòa hợp từ đó dẫn đến sự cách biệt.
Tôi nhớ chuyện
xảy ra cách nay chừng 6, 7 chục năm, một hôm từ Châu Đốc về quê vào buổi chiều,
khi đi ngang qua nhà người bác họ, nhà cách con lộ chừng 10 thước, bác ấy đã già
trên 60 đang nằm trên chiếc võng, nhìn ra đường thấy tôi bác gọi vào rồi bảo:
- Lâu lâu
cháu mới về thăm nhà, gặp bác nên ghé thăm, để bác biết cháu vẫn khỏe mạnh.
Tôi mạnh miệng
đáp lời :
- Dạ !
Nhưng sau đó,
về thăm nhà đi ngang qua nhà bác, thấy bác nằm đưa võng, tôi làm như không thấy,
quên đi những lời bác đã dạy, lẳng lặng đi luôn qua, chắc có khi bác cũng thấy,
nhưng chẳng hề kêu gọi lại.
Lúc đó tôi
chỉ nghĩ, khi gặp bác mình sẽ nói chuyện chi, chuyện mình đi học với ông thầy,
chơi với mấy thằng bạn hoặc chuyện sáng sáng ra chợ mua gói xôi, gói bắp hầm ăn
lót dạ đi học ?
Bây giờ nghĩ
lại mới biết sự suy nghĩ ấu trỉ của tuổi thơ. Bác ấy già cô đơn, cần có người hỏi
thăm, nói chuyện nắng mưa, mùa màng, lối xóm. Còn mình dẫu không có chuyện chi,
cũng có thể hỏi thăm sức khỏe của người già, hỏi thăm chuyện gia đình của họ,
chuyện con cái của họ, chuyện cháu chắt họ về học hành, thi cử.
Tuổi trể ngây
thơ là vậy.
Cho đến ngày
nay, tôi vần nghĩ gia đình tôi có tiếng mà không có miếng. Ông cố tôi là con nuôi
của quan Phủ hồi hưu Nguyễn Hà Thanh (1840-1916), ông Phủ nầy khi về hưu chọn
mua một miếng đất cất nhà để ở, ông Phủ không hề có ai là họ hàng trong làng, mà
cũng không có ai là họ hàng ở những làng, quận lân cận. Sau nầy tôi có chút
manh mối rồi đặt ra giả thuyết để tìm tông tích của ông. Có lần cô tôi cho biết
ông Phủ họ Đoàn.
Tôi tìm
trong sử sách khi vua Tự Đức lên ngôi rồi, tìm nơi xây lăng mộ cho mình đã bắt
dân chúng lấy đá, gạch xây lăng, lấy đá vôi dùng chày đập nát thành vôi làm vật
liệu xây cất, ngày nọ tháng kia dân chúng quá khổ cực, nên làm loạn lấy chày vôi
chống lại quân lính triều đình nên gọi là giặc “chày vôi”, người lãnh đạo là Đoàn
Trưng, Đoàn Triệu, con cháu họ bị khép tội xử tử hoặc tù đày, nhưng có 2 người
trốn thoát vào Nam làm việc cho Pháp, có lẽ là ông Phủ Nguyễn Hà Thanh đó, khi
tôi còn nhỏ, trong khu mộ gia đình ông Nguyễn Hà Thanh có mộ ông bà cố của tôi
nằm cạnh mộ nhạc gia và nhạc mẫu ông Nguyễn Hà Thanh. Nói như thế để tôi tin chắc
giả thuyết của tôi có cơ sở, là ông Nghuyễn Hà Thanh không có gốc gác gì trong
Nam cả.
Nhân đây tôi
muốn kể một chuyện tán gia bại sản có liên quan đến ông Phủ Nguyễn Hà Thanh và
gia đình ông Phạm Phú Quý, có lẽ người giàu nhất tỉnh Châu Đốc.
Xin nhắc lại,
ông Nguyễn Hà Thanh khi hưu chọn làng tôi ở Cù lao Năng Gù huyện Châu Thành tỉnh
Long Xuyên, mua một miếng đất dọc theo Xép Năng Gù (Xép là con sông nhỏ) phía
kia là Rạch chanh (con rạch có nước phèn, the the, chua chua nên gọi là chanh)
dài chừng 500 thước, trong phần đất nầy có hiến cho nhà nước cất một ngôi trường
làng và ông Phủ có cất một ngôi miếu ngang chừng 6 thước, sâu chừng 5 thước, ngày
nhỏ tôi sợ nên không rõ trong đó thờ cúng như thế nào, trước miếu cũng có xây bình
phong, có trồng cây dương, phía bờ sông có cây sung.
Bên kia sông,
đối diện nhà ông Phủ là nhà của ông Thầy Phó Phạm Phú Quý (Phó là chức Phó Cai
Tổng. Ngày xua theo tổ chức hành chính đất thuộc địa của Pháp là thôn, làng, tổng,
quận, tỉnh, xứ.
Dinh thự của
Thầy Phó bên trong có nhà cửa không bằng dinh Độc Lập (dinh Thống Nhất) nhưng bên
ngoài có hàng rào sắt còn hơn Phủ Toàn Quyền hay Dinh Thống Nhất ngày nay, vì dọc
theo hàng rào sắt những cột trụ hay bệ bên dưới đều có cẩn gạch bông, loại bông
có màu sắc và bông nổi, có 4 cổng ra vào, 2 cổng 2 bên có cửa sắt xe hơi con
ra vào được, hai cổng ở giữa có lầu vọng nguyệt, mỗi cạnh chừng 4 thước, có
thang đi lên lầu.
Trong khu nhà
nầy, trước 1945 tôi có vào một lần, ngồi ở phòng khách có tràng kỷ chạm trổ. Có
một từ đường phía sau 2 cổng chính, lui phía sau có 3 căn nhà, một căn nhà gỗ
son màu xanh da trời, một căn nhà tường xây mái ngói khá rộng và phía trên cùng
một căn nhà cũng tường xây mái ngói. Đó là 3 căn nhà của 3 người con trai ông
Thầy Phó, gồm có nhà bác Ba, bác Tư Chuốc và bác Sáu Thơi.
Vì đất ông Thầy Phó cò bay thẳng cánh, từ con lộ xe chạy xưa có tên là LT 10 (LT: Liên Tỉnh: 2 là Châu Đốc, 8 là Long Xuyên, 8 + 2 = 10 Thời Pháp đã đặt:
Gia Châu Hà
Rạch Trà Sa
Bến Long Tân
Sóc Thủ Tây
Biên Mỹ Bà
Chợ Vĩnh Gò
Cần Bạc Cáp.
Đó là theo thứ tự: 1 Gia Định, 2 Châu Đốc, 3 Hà Tiên, 4 Rạch Giá, 5 Trà Vinh 6 Sa Đéc 7 Bến Tre 8 Long Xuyên 9 Tân An 10 Sóc Trăng, 11 Thủ Dầu Một, 12 Tây Ninh, 13 Biên Hòa, 14 Mỹ Tho, 15 Bà Rịa, 16 Chợ Lớn, 17 Vĩnh Long, 18 Gò Công 19 Cần Thơ, 20 Bạc Liêu, 21 Cap Saint Jacque -Vũng Tàu) nay là QL91 vào bên trong đồng nội giáp với làng Cần Đăng … nên ông đào nhiều con kênh dân chúng đặt tên là kênh ngang, kênh ngang giữa, kênh ngang chót, ông lại cho đào một con kênh thông ra Xép Năng Gù, kênh nầy chỉa thẳng qua Trường học trong đất ông Phủ bên Cù lao Năng Gù. Ông Phủ có lẽ biết về Phong thủy, thấy Kênh ông Thầy Phó đâm ngay qua Trường học là đất nhà của ông, nên ông cho đào một cái mương nằm cạnh nhà ông Phủ từ Rạch Chanh đâm thẳng qua dinh thự ông thầy Phó.
Do hai con kênh đó, gia đình ông Phủ
lụn bại từ khi tôi còn nhỏ nên không rõ lắm, nghe nói nhà gỗ mà có lầu, còn
dinh thự của Thầy Phó, sau 1945 bỏ nhà cửa chạy lấy người lên Châu Đốc định cư
từ đó, sau Lâm Thành Nguyên lấy dinh thự đó làm Trung tâm huấn luyện sĩ quan,
sau quân đội Quốc Gia chiếm đóng, sau năm 1972 Mỹ nới rộng đường LT 10 phải phá
bỏ hàng rào sắt, sau nầy nghe nói hàng rào sắt đó bán lại cho bệnh viện ở Hòa Hảo.
Còn đất đai bị truất hữu theo chính sách “Người Cày Có Ruộng” của Nguyễn Văn
Thiệu.
Chuyện xửa chuyện xưa, nay nhớ đến đâu ghi đến đó, nó thuộc về loại chuyện Tạp Nham hay Tạp Ghi cũng thế thôi, ghi để nhớ, để cho người sau biết.
Thầy Phó đào kinh băng qua đường để cho nước phèn chảy tháo ra sông, nên Thầy phó phải làm cầu đúc Bê tông như cái cống hộp lớn. Cầu đó xưa dân địa phương gọi là Cầu Thầy Phó, gần đây Ty Cầu Đường không hiểu chuyện, đặt tên là Cầu Thầy Phó Ký. Đúng ra phải gọi là Cầu Thầy Phó Quý, cũng như cách đó chừng 2 km có cái cầu sắt xưa có tên là Cầu Kênh Ông Quít, nay lại đặt tên cầu kênh Quít. Nghe nói ngày xưa người đứng ra coi xây cầu là người Pháp, không rõ tên ông ta viết chữ Pháp như thế nào, nhưng người Việt mình gọi ông ta là ông Quít, chớ không phải là Quít hay Cam gì cả. Ở gần Long Xuyên có chỗ xưa có tên là Xép Bà Lý cũng như Xép Năng Gù, sau nầy người ta không biết ghi tên cái cầu là Xếp Bà Lý. Than ôi ! Sai một ly đi ngàn dậm !!
Mấy anh Cầu Đường ơi ! Xin đừng ngồi ở văn phòng đặt tên bừa bãi, sau nầy con cháu chúng ta không biết đâu mà mò.
866406022025
No comments:
Post a Comment