Tôi có một
số bạn ở nhiều nơi, thỉnh thoảng họ đọc được những bài có giá trị, đã gửi đến
cho tôi đọc, có bài vì được năm, bảy người chuyển tiếp nên có khi đến tôi không
có đoạn kết. Trường hợp nầy không khó, chỉ mất thì giờ là lấy tựa bài với một, đôi
dòng đầu bỏ trên Google, thiết bị nầy sẽ tìm kiếm cho ta bài đầy đủ để đọc.
Gần
đây, tôi nhận được bài Kẻ
Thắng Tồi Bại… Người Thua Vĩ Đại, đọc xong cảm
thấy xót thương phận mình, đã phạm tội “nhứt phá sơn lâm, nhì đâm
Hà Bá”. Tưởng cũng nên dẫn ra đây để cho quý bạn đọc, nếu chưa đọc qua:
Kẻ Thắng Tồi Bại… Người
Thua Vĩ Đại
Posted
on June 7, 2017 by dongsongcu
Phan Nguyên Luân
Lịch sử ghi lại rằng
vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 140 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ,
kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết
đường tháo lui. Bộ tham mưu của Tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh
du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua
bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên
đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho Tướng Grant của
miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.
Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết
ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua. Vị tư lệnh miền
Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất
cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận. Trưa ngày lịch
sử 9 tháng 4-1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng
tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của
lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam
vào phòng họp. Nửa giờ sau Tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.
Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây
Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú
nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi Tướng Lee nói về
quyết định đầu hàng.
Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới,
tước bỏ khí giới và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng
Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông
được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi
chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ cấp như lính miền Bắc. Tướng Grant
thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho
lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.
Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là
thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlemen’s Agreement). Trên các bảo
tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viện ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu
hình Tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu
bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn
thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ
miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục.
Và hình Tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân
nhạc miền Bắc chào đón. Hình Tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh
sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào. Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn
ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee High Way, Fort
Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là
một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài
học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của
thời hậu chiến.
Năm 1900 tức là gần 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn
hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một
khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng
gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng
là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.
Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là
hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình
ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là
bài thơ đại ý như sau:
“Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết”.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết”.
Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi
chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh
hùng….
***
Trong khi đó, Việt Nam sau biến cố 1975, bộ đội Bắc Việt hay gọi
là Việt cộng, đã đối xử tàn độc, dã man đối với chiến binh và người dân VNCH…
Hôm nay, 42 năm ngày mất của Đại Tá VNCH- Hồ Ngọc Cẩn với lời nói bất hủ trước
khi bị bên thắng cuộc xử bắn: “Nếu tôi
thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi
cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các
anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công
mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán xét đoán
các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy……”.
Nếu
có thì giờ xin mời đọc bài dưới đây, có đầy đủ chi tiết hơn:
Tiếp theo, tôi cũng nhận được một bài khác đáng đọc, đọc rất cảm động,
tướng Mac Arthur, Tư lệnh mặt trận Đông Nam Á, người đã nhận sự đầu hàng của nước
Nhật, ông cai trị nước Nhật trong hơn 5 năm. Ngày ông rời khỏi nước Nhật, dân chúng
Nhật rơi lệ tiễn đưa, nước Nhật đã xây dựng lại từ hoang tàn, tiến lên hàng cường
quốc.
Xin mời đọc bài sau đây, để
suy gẫm:
Chân dung “kẻ xâm lược”
Tướng
Douglas MacArthur (1880-1964)
MacArthur đến Nhật vơi đôi bàn tay đẫm máu người Nhật. Khi
MacArthur rời Nhật về Mỹ, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng
triệu người Nhật đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng
nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật: Đại nguyên soái! MacArthur
được người Nhật vinh danh là 1 trong 12 danh nhân nước Nhật mọi thời đại.
Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng
tướng Mỹ?
Thành phố Hiroshima
sau ngày 6-8-1945
Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ
Melbourne đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế người
Nhật hận ông thấu xương.
Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và
đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí
gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu
người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi
người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.
Tướng
Mac Arthur nhận ký kết đầu hàng của nước Nhật trên chiến hạm USS Missouri (BB-63)
của Hải quân Hoa Kỳ ngày 2 tháng 9 năm 1945
của Hải quân Hoa Kỳ ngày 2 tháng 9 năm 1945
Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan
dung và dân chủ.
Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa
trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ
khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ
Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến
Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng,
thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản,
giúp họ tìm con đường sống.
Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy
sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật
rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp
nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho
người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là
kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?
Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả
tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật
bắt giam trong thời gian dài.
Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật
thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử
của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được
quyền bầu cử và ứng cử.
Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố,
nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn
cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi
đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay
mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định
chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ
lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.
Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo
chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.
Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân
thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định
tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.
Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh
khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến
pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao
quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh
giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến
pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.
Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương
Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi
cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân
cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà
không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và
tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo
đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.
Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng
đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán
đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất,
chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng
người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.
Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng
đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi
người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản
không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân
chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn
toàn do người dân tự chủ quyết định.
Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ
Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển
của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người
dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con
đường thênh thang.
Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai
thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm
một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân
Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.
Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã
viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ
can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn
viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”
Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh
quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo
cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì
mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người
Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt
cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!
Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước
mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại
quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur,
tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng
Hirohito.
Mac Arthur và Thiên hoàng Hirohito
Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra
khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con
đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất
nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà
nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”
Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế
của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục
được người Nhật Bản.
866427072017
No comments:
Post a Comment