(1914-1997)
Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba
sinh năm Giáp Dần (1914) tại làng Đạo Đầu, Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
Ông sinh ra trong một gia đình có sáu anh chị em và ông là người áp út.
Trong 6 anh chị em, ai cũng biết đàn biết hát, trong đó có người anh cả Nguyễn
Hữu Xướng chính là người thầy dạy đàn bầu cho ông lúc ông lên 7 tuổi và người
chị ruột Ngọc Lan (Nguyễn Thị Dung) là một danh ca của nhạc tài tử thính phòng
Huế. Thân phụ ông là người Nho học, yêu thích bát bội và khá rành về nhạc lễ
cung đình, mẹ ông là người ứng tác khá hay trong những buổi hò đối đáp và biết
nhiều điệu múa dân gian. Cha mẹ ông đến với nhau cũng từ những buổi sinh hoạt
văn nghệ dân gian, cúng lễ.
Thuở nhỏ, tạng người gầy ốm, ông được những người thân yêu gọi
với cái tên thân mật là Cọt Nậy. Mẹ ông mở một quán nhỏ bán tạp hóa trong nội
thành Quảng Trị, gia chủ yêu âm nhạc nên khách của quán có rất nhiều bạn bè
trong giới nghệ sĩ dân gian. Những ban đàn, nhóm hát, ban nhạc lễ ở Quảng Trị
và Huế thường ghé nhà của ông bà, có nhiều nhóm lưu trú nhiều ngày. Trong những
lúc tập dợt, họ không biết rằng có một cậu bé đang say sưa theo dõi theo những
ngón đàn khi họ dạo trên những những cung tơ, cậu bé đó chính là nhạc sĩ Nguyễn
Hữu Ba – một trong những nhà hoạt động âm nhạc truyền thống của thế kỷ 20 đã có
nhiều đóng góp vào việc bảo tồn và phát huy âm nhạc dân tộc.
Với niềm say mê âm nhạc vốn có, từ 6 tuổi, ông đã học lóm những
ngón đàn của các nghệ nhân. Thấy con mình có năng khiếu, cha ông đã lưu tâm
hướng dẫn, dạy dỗ. 3 năm sau, ông đã có những ngón đàn thành thạo và đã trở
thành anh thầy đàn “nhí” dạy nhạc cho các gia đình giàu có trong vùng. Nguyễn
Hữu Ba tiến bộ khá nhanh trong âm nhạc. Năm 11 tuổi, trong một đợt lưu diễn đến
kinh đô Huế cùng người chị là Ngọc Lan, hai chị em được công chúng nhiệt liệt
tán thưởng và điều quan trọng hơn là ông đã lọt vào “tầm ngắm” của các nghệ
nhân lão luyện của đất kinh kỳ. Tại đây, ông có điều kiện tầm sư học đạo với
những tay đàn trứ danh của kinh đô nhạc lễ, nhạc thính phòng Việt Nam thời bấy
giờ, trong đó có các danh cầm nổi tiếng như ông Cả Soạn, ông Ưng Biều (cháu nội
của vua Minh Mạng), ông Ngũ Đại (tức Vĩnh Trân – con của vua Thành Thái). Từ
thời điểm này, ông tham gia sinh hoạt và nổi tiếng trong nhiều nhóm đàn, nhóm
ca tại Huế và Quảng Trị.
Năm 1930, khi vừa tròn 16 tuổi, ông được xem là một trong những
tiếng đàn trẻ đầy triển vọng trong làng nhạc tại Huế. Cũng trong năm này, ông
cùng với các nghệ sĩ đờn ca khác như: Tôn Út, Ngọc Lan, cô Nhơn… được hãng Béka
(Đức) mời thu âm vào đĩa 78 vòng. Đây được xem là đĩa nhạc truyền thống sớm
nhất của Việt Nam, đĩa này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Nhân chủng học
Paris.
Năm 23 tuổi (1937) ông đoạt giải nhất về đàn nhị trong một cuộc
thi âm nhạc nhân dịp tổ chức Hội chợ tại Huế và cũng từ đây ông không còn đàn
ca trong các ban đờn ca nữa mà định cư ở Huế và chuyên giảng dạy, nghiên cứu,
sáng tác. Trong thập niên 40, ông sáng tác rất nhiều ca khúc như: Quảng
đường mai, Chiều thu…
Nhưng có lẽ đóng góp lớn nhất của ông là trên lĩnh vực giảng
dạy, nghiên cứu. Ông viết nhiều sách về các bản đàn cho nhiều loại nhạc cụ
như: Tự học đàn nguyệt, Bài đàn tranh, Dân ca Việt Nam…
Năm 1956, thành lập Trường quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Sài
Gòn, ông là sáng lập viên ngành Quốc nhạc và phụ trách giám học. Thời gian ở
Sài Gòn ông còn giảng dạy ở một số trường khác như Đại học Văn khoa, Đại học
Vạn Hạnh… Tại Sài Gòn, vào năm 1960, ông lại thành lập Tỳ Bà Viện, như Tỳ Bà
Trang ở Huế. Năm 1970, ông về làm giám đốc Trường quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ
Huế và giảng dạy ở Đại học Văn khoa Huế.
Người ta biết Nguyễn Hữu Ba là nhạc sư cổ nhạc, hơn là nhạc sĩ tân
nhạc, ông mất tại Sàigòn ngày
14-7-1997. Thọ 83 tuổi.
Trong bài: Nguyễn Hữu Ba
- Nhạc sư- Nghệ Sĩ Ưu Tú,
tác giả GS Lê Văn Hảo đã viết:
…. Ba mươi chín năm sau khi đĩa hát Ca nhạc
Huế của hãng Béka ra đời, đĩa hát Ca nhạc Huế do Unesco bảo trợ và cho phổ biến
khắp thế giới là một thành tựu mới đáng tự hào của nhạc sư Nguyễn Hữu Ba, một
trong những người có công lớn đối với sự nghiệp bảo vệ và giới thiệu di sản âm
nhạc dân tộc truyền thống Việt Nam.
Nhạc phẩm:
- Quãng đường mai (tự xuất bản, 1940)
- Xuân xuân (Viện Tỳ Bà, 1947)
- Lửa rừng đêm (Viện Tỳ Bà, 1947)
- Thu khói lửa (Tinh Hoa, 1950)
- Tiếng hát quân Nam (Viện Tỳ Bà, 1950)
- Ánh dương trời Nam (Viện Tỳ Bà, 1951)
- Chiến đấu đến cùng
- Gọi hồn quê
- Nhịp sống ngày xanh
- Sầu đông
- Chiều thu…
- Xuân xuân (Viện Tỳ Bà, 1947)
- Lửa rừng đêm (Viện Tỳ Bà, 1947)
- Thu khói lửa (Tinh Hoa, 1950)
- Tiếng hát quân Nam (Viện Tỳ Bà, 1950)
- Ánh dương trời Nam (Viện Tỳ Bà, 1951)
- Chiến đấu đến cùng
- Gọi hồn quê
- Nhịp sống ngày xanh
- Sầu đông
- Chiều thu…
Tác phẩm:
- Tự học đàn nguyệt (tự xuất bản, 1940)
- Bản đàn tranh (cổ nhạc) (Viện Tỳ Bà, 1951)
- Vài thiên kiến về âm nhạc (lý thuyết) (Viện Tỳ Bà, 1950)
- Nhạc pháp Quốc học (Viện Tỳ Bà, 1960;)
- Bản đàn tranh (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Đàn Tỳ Bà (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Đàn độc huyền (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Đàn nhị huyền (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Bài ca Huế (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Phương pháp học đàn tranh (Viện Tỳ Bà, 1962
- Dân ca Việt Nam (BQGGD-VNCH, 1961)
- Dĩa nhạc Việt Nam I (UNESCO thu âm và phát hành, 1969)
- Bản đàn tranh (cổ nhạc) (Viện Tỳ Bà, 1951)
- Vài thiên kiến về âm nhạc (lý thuyết) (Viện Tỳ Bà, 1950)
- Nhạc pháp Quốc học (Viện Tỳ Bà, 1960;)
- Bản đàn tranh (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Đàn Tỳ Bà (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Đàn độc huyền (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Đàn nhị huyền (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Bài ca Huế (Viện Tỳ Bà, 1962)
- Phương pháp học đàn tranh (Viện Tỳ Bà, 1962
- Dân ca Việt Nam (BQGGD-VNCH, 1961)
- Dĩa nhạc Việt Nam I (UNESCO thu âm và phát hành, 1969)
Tài liệu
tham khảo:
- Nguyễn Hữu Ba Web: Wikipedia
- Nguyễn Hữu Ba Web: mrmai.net
- Nguyễn Hữu Ba Web: mrmai.net
Nhạc phẩm Thu khói lửa do Ngọc
Cẩm Nguyễn Hữu Thiết trình bày
No comments:
Post a Comment