Chương thứ nhất: Khái quát về Tân
nhạc Việt Nam
Nhạc tân thời, nhạc cải cách hay
tân nhạc là tên gọi thông dụng của dòng nhạc xuất hiện tại Việt
Nam vào khoảng giữa
thập niên 1930.
Bối cảnh Việt Nam đầu thế kỷ 20
Tân nhạc xuất hiện sau dòng văn học lãng mạn và phong trào thơ
mới Việt Nam vài năm, do có những
thanh niên tân học, chịu ảnh hưởng Tây phương khi xã hội Việt Nam chuyển mình dưới sự đô hộ của người Pháp
Những đổi thay về sinh hoạt cũng đồng thời với sự thay đổi về ý
nghĩ và cảm xúc, do sự tiếp xúc với văn hóa lãng mạn Pháp.
Giống như những nhà văn lãng mạn, thi sĩ của phong trào thơ mới
Việt Nam chịu ảnh hưởng do văn
học lãng mạn Pháp, các nhạc sĩ tiền phong Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng do âm nhạc Tây phương
mang tới.
Giai đoạn tượng hình
Giai đoạn trước 1937 được xem là giai đoạn chuẩn bị của Tân nhạc.
Nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng những năm đầu thập niên 1930 là "thời kỳ đi tìm nhạc ngữ mới".
Âm nhạc của châu Âu theo chân những người Pháp vào Việt Nam từ
rất sớm. Đầu tiên chính là những bài thánh ca trong các nhà thờ Công giáo. Các
Linh mục Việt Nam được cũng được dạy về âm nhạc với mục đích truyền giáo. Tiếp
đó người dân được làm quen với "nhạc nhà binh" qua các đội kèn đồng.
Tầng lớp giàu có ở thành thị được tiếp xúc với nhạc khiêu vũ, nhạc cổ điển
phương Tây.
Từ đầu thế kỷ 20, các bài hát châu Âu, Mỹ được phổ biến mạnh mẽ
ở Việt Nam với các đĩa hát 78 vòng rồi qua những bộ phim nói. Những thanh niên
yêu âm nhạc thời kỳ đó bắt đầu chơi mandoline, ghita và cả vĩ cầm, dương cầm.
Thời kỳ này một số nhạc sĩ cải lương bắt đầu soạn các nhạc phẩm,
thường được gọi là "bài tây theo điệu ta". Người tiêu biểu cho số đó
là nghệ sĩ cải lương Tư Chơi, tức Huỳnh Thủ Trung. Ông đã viết các bài Tiếng
nhạn trong sương, Hòa duyên và soạn lời Việt cho một vài ca khúc
châu Âu thịnh hành khi đó để sử dụng trong các vở sân khấu như: Marinella
trong vở Phũ phàng, Pouet Pouet trong Tiếng nói trái tim, Tango
mystérieux trong Đóa hoa rừng, La Madelon trong Giọt lệ
chung tình... Nghệ sĩ Bảy Nhiêu cũng có một nhạc phẩm là Hoài tình
rất được ưu chuộng.
Cho đến nay, người ta được biết Đinh Nhu (1910-1945), trong ngục tù Hỏa Lò Hà Nội, năm 1930, được sự gợi ý của bạn tù, Đinh Nhu đã sáng tác bài hành khúc Hồng quân ca bằng cây sáo trúc ở ngoài chuyển vào. Bài hát sau này có tên gọi là Cùng nhau đi Hồng binh. Đây có lẽ là ca khúc đầu tiên được biết đến.
Cho đến nay, người ta được biết Đinh Nhu (1910-1945), trong ngục tù Hỏa Lò Hà Nội, năm 1930, được sự gợi ý của bạn tù, Đinh Nhu đã sáng tác bài hành khúc Hồng quân ca bằng cây sáo trúc ở ngoài chuyển vào. Bài hát sau này có tên gọi là Cùng nhau đi Hồng binh. Đây có lẽ là ca khúc đầu tiên được biết đến.
Không chỉ các nghệ sĩ, trong giới thanh niên yêu nhạc cũng có
phong trào chuyển ngữ các bài hát của Tino Rossi (1907-1083), Rina Ketty,
Albert Préjean, Georges Milton... mà họ yêu thích. Những nghệ sĩ sân khấu như
Ái Liên (1918-1991) , Kim Thoa đã được các hãng đĩa của người Pháp như Odéon,
Béka mời thu âm các bài ta
theo điệu tây. Khoảng thời gian từ 1935 tới 1938, rất nhiều các bài hát của
Pháp như Marinella, C'est à Capri, Tant qu'il y aura des
étoiles, Un jour loin de toi, Celle que j'aime éperdument, Les
gars de la marine, L'Oncle de Pékin, Guitare d'amour, Créola,
Signorina, Sous les ponts de Paris, Le plus beau tango du
monde, Colombella... mà phần lớn là sáng tác của nhạc sĩ người Pháp
Vincent Scotto (1876-1952) và của Mỹ như Goodbye Hawaii, South of The
Border... đã được phổ biến mạnh mẽ với lời ca tiếng Việt, do một nhà báo
trẻ tên là Mai Lâm soạn và do những tác giả vô danh khác. Ca sĩ Tino Rossi đặc
biệt được giới trẻ thời ấy yêu thích, đã có
những hội Ái Tino được thành lập ở Hà Nội, Hải Phòng. Nhạc sĩ Canh Thân lấy biệt hiệu là Tino Thân.
Từ giữa thập niên 1930, nhiều nhóm thanh niên yêu âm nhạc ở Hà
Nội đã tập trung cùng sáng tác. Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn là ba thành viên
của nhóm Tricéa đã viết nhiều ca khúc như Bẽ bàng (1935), Nghệ sĩ
hành khúc (1936) của Lê Yên; Tiếng sáo chăn trâu (1935), Bên hồ
liễu (1936), Bóng ai qua thềm (1937) của Văn Chung. Gió
thu (1937) của Doãn Mẫn. Tại Huế, Nguyễn Văn Thương viết bản Trên sông Hương năm
1936. Lê Thương ở Hải Phòng cũng có Xuân năm xưa năm 1936.
Giai đoạn từ năm 1935 tới
năm 1938, nhạc sĩ Phạm Duy gọi là "thời kỳ chuẩn bị của Tân nhạc Việt
Nam".
Giai đoạn thành lập 1938-1945
Năm 1938
được coi là điểm mốc, đánh dấu sự hình thành của Tân nhạc Việt Nam do những
buổi biểu diễn và thuyết trình của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên tại Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên khi đó ở Sàigòn, là người Việt duy nhất
tham gia hội Hiếu nhạc (Philharmonique). Ông bắt đầu hát nhạc Tây và
đoạt được cảm tình của báo
chí và radio. Năm 1937 ông phổ một bài thơ của Nguyễn
Văn Cổn bạn ông, viết thành
ca khúc đầu tiên của mình. Nhà thơ Nguyễn Văn Cổn (1911-1992), khi đó làm việc
cho đài Radio Indochine, có đưa thơ cho Nguyễn Văn Tuyên phổ
nhạc và giúp ông soạn lời
ca. Thống đốc Nam Kỳ Pierre André Michel Pagès nghe ông hát tìm hiểu, được Nguyễn Văn Cổn giới thiệu, đã mời ông sang
Pháp du lịch và tiếp tục học nhạc, nhưng
Nguyễn Văn Tuyên từ chối vì lý do gia đình. Ngược lại, ông đề nghị và được
thống đốc Pagès tài trợ cho đi một vòng Việt Nam ra Huế, Hà Nội, Hải Phòng, Nam
Định để quảng bá những bài nhạc mới. Chính Nguyễn Văn Cổn là người đặt tên cho
loại nhạc mới là "âm nhạc cải cách" (musique renovée).
Tới Hà Nội vào tháng 3 năm 1938, Nguyễn Văn Tuyên nói chuyện tại
hội Trí Tri. Nhưng trong cuộc vận động cải cách, ông đã gặp một cử tọa đông
đảo, ồn ào không trật tự. Một phần thất bại buổi đó do giọng nói địa phương của
ông được ít người hiểu. Hơn nữa, có thể nhiều thanh niên Hà Nội lúc đó như đã
cho việc hô hào của ông là thừa, vì bài hát cải cách đã có sẵn ở đây.
Tại hội Trí Tri Hải Phòng, Nguyễn Văn Tuyên đã may mắn hơn. Tuy
số khán giả chỉ độ 20 người, nhưng Nguyễn Văn Tuyên đã có người thông cảm.
Trong buổi nói chuyện này, một vài nhạc sĩ của Hải Phòng cũng trình một bản
nhạc mới của miền Bắc. Sau đó nhân kỳ hội của trường Nữ học Hoài Đức, Nguyễn
Văn Tuyên còn trình bày tại rạp chiếu bóng Palace một lần nữa. Lần này cử tọa
rất tán thưởng giọng hát của ông trong bài Bông
cúc vàng.
Tiếp đó tờ Ngày nay số 121 ra ngày 31 tháng 7 năm 1938
của Nhất Linh, một tờ báo uy tín khi ấy, cho đăng những bản nhạc đầu tiên Bình minh của Nguyễn Xuân Khoát lời ca
của Thế Lữ, số 122 ra ngày 7 tháng 8 năm 1938 đăng bài Một kiếp hoa của Nguyễn Văn Tuyên, rồi Bản đàn xuân của Lê
Thương, Khúc yêu đương của Thẩm Oánh,
Đám mây hàng, Cám dỗ của Phạm Đăng Hinh, Đường
trường của Trần Quang Ngọc,...
Nhiều ca khúc sáng tác từ trước được các nhạc sĩ phát hành. Từ
đầu 1939, các bản nhạc của được bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính
thức hình thành.
Nhạc tiền chiến
Sau thành công của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên và được sự ủng hộ
của báo chí, nhiều nhóm nhạc được thành lập và các nhạc sĩ phổ biến rộng rãi
những tác phẩm của mình. Và ngay từ thời kỳ này, nhiều nhạc sĩ tài năng đã ghi
dấu ấn với các nhạc phẩm trữ tình lãng mạn. Một số thuật ngữ được dùng để chỉ
nền tân nhạc Việt Nam giai đoạn này, phổ biến nhất là "nhạc tiền chiến". Dòng nhạc tiến chiến còn kéo dài tới năm 1954 và cả sau 1954 ở miền Nam.
Những bài hát cải cách nhanh chóng được giới trẻ sinh viên, trí
thức ái mộ đón nhận, tuy vậy nó cũng gây nên nhiều ý kiến khác nhau. Các trí
thức phong kiến thì chỉ trích còn giới dân nghèo thì thờ ơ. Với phong cách trữ
tình lãng mạn, các ca khúc tiền chiến có lời ca mang tính văn học cao. Ngoài
các ca khúc về tình yêu, chủ đề lịch sử, yêu nước là những đề tài chính của
nhạc tiền chiến.
Các nhóm nhạc
Vì nhà cầm quyền Pháp không cho mở lại trường dạy nhạc Conservatoire
français d'Extrême-orient, nên trước sự phát triển của phong trào âm nhạc cải
cách, có hai tổ chức đào tạo nhạc sĩ ra đời. Đó là Hội Khuyến Nhạc với người
đứng đầu là Nguyễn Văn Giệp và Nhạc Đường Học Xá của Lưu Quang Duyệt.
Mặt khác, có những thanh niên tự học nhạc phương Tây rồi tập
trung để cũng thảo luận về âm nhạc, với những sinh hoạt văn nghệ có tình chất
"salon". Trong số này có hai nhóm nổi danh nhất là nhóm Tricéa và
nhóm Myosotis.
Nhóm Tricéa được thành lập từ rất sớm với ba thành viên Văn
Chung (1914-1994), Lê Yên (1917-1998) và Doãn Mẫn (1919-2007). Họ đã có những
sáng tác từ trước khi Nguyễn Văn Tuyên ra Hà Nội quảng bá nhạc cải cách. Nhóm
đã để lại nhiều ca khúc giá trị như Văn Chung với Bóng ai qua thềm, Lê
Yên với Bẽ bàng, Ngựa phi đường xa, Xuân nghệ sĩ hành khúc
và thành công hơn cả là Doãn Mẫn với Biệt ly, Hương cố nhân.
Nhóm Myosotis với hai thành viên chính là Dương Thiệu Tước
(1915-1995) và Thẩm Oánh (1916-1996). Myosotis có chủ trương sáng tác rõ rệt:
Thẩm Oánh với nhạc theo âm hưởng dân tộc và Dương Thiệu Tước với những sáng tác
theo ngữ nhạc Tây Phương. Giai đoạn này Myosotis rất nhiều nhưng về sau ít được
nhắc tới. Tồn tại một thời gian, Myosotis không còn là một nhóm thuần nhất. Các
thành viên chia tay, tiếp tục đi theo con đường sáng tác riêng. Dương Thiệu
Tước tiếp tục với những ca khúc lãng mạn và ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc
với Ngọc lan, Đêm tàn bến Ngự, Tiếng xưa.
Ở Hải Phòng, năm 1939, nhạc sĩ Hoàng Quý thành lập nhóm Đồng
Vọng. Đồng Vọng quy tụ nhiều nhạc sĩ tài năng như Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu
Phước, Văn Cao, Canh Thân, Tô Vũ mở ra dòng nhạc hùng với Bên sông Bạch Đằng,
Nước non Lam Sơn, Tiếng chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Nắng
tươi, Chiều quê của Hoàng Quý, Về đồng quê của Văn Cao, Ngày
xưa của Tô Vũ. Riêng Hoàng Quý còn một ca khúc trữ tình rất nổi tiếng là Cô
láng giềng.
Một nhóm khác cũng chủ trương nhạc hùng là Nhóm Tổng hội Sinh
viên của Lưu Hữu Phước khởi đầu trong nhóm sinh viên ở Hà Nội trong đó sinh
viên miền Nam tỏ ra nhiều khả năng văn nghệ. So với Đồng Vọng, nhạc của Tổng
hội Sinh viên mang tính chính trị nhiều hơn. Nhóm chủ trương dùng tân nhạc
trong việc đấu tranh chính trị chống Pháp và Nhật. Lưu Hữu Phước đã viết nhiều
ca khúc Tiếng gọi sinh viên, Hồn tử sĩ, Bạch Đằng giang, Ải
Chi Lăng, Hội nghị Diên Hồng, Hờn sông Gianh... và về sau trở
thành một trong những nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc đỏ. Riêng bản Thanh niên hành khúc của Lưu Hữu
Phước được chọn làm Quốc ca của Việt Nam Cộng Hoà ở Miền Nam sửa đổi tên lại là
Tiếng gọi công dân.
Các nhạc sĩ độc lập
Ngoài các nhóm nhạc, ở miền Bắc khi đó còn nhiều nhạc sĩ độc lập
hoặc trong những nhóm nhạc rồi tách ra và ghi dấu ấn riêng.
Nhạc sĩ Lê Thương là một trong những người có sáng tác sớm nhất.
Khi đó ông dạy học ở Hải Phòng và có tham gia cùng Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Canh
Thân. Thời kỳ này, Lê Thương đã để lại dấu ấn với các truyện ca như Bản đàn
xuân, Nàng Hà Tiên, Một ngày xanh, Thu trên đảo Kinh Châu
và đặc biệt bộ ba ca khúc Hòn vọng phu, được xem như một nhạc phẩm bất
hủ của tân nhạc. Về sau Lê Thương di cư vào miền Nam, tiếp tục sáng tác các ca
khúc thể loại khác như thiếu nhi, hài hước. Bài Thằng Cuội của ông trở
thành một ca khúc thiếu nhi rất quen thuộc.
Ở miền Bắc, ngoài Hà Nội và Hải Phòng, Nam Định cũng là nơi có
nhiều nhạc sĩ sáng tác tân nhạc như Hoàng Trọng, Bùi Công Kỳ. Tiêu biểu nhất
cho các nhạc sĩ Nam Định là Đặng Thế Phong. Sớm rời Nam Đinh, Đặng Thế Phong
lên Hà Nội và học dự thính tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương. Sau đó, đầu năm 1941
ông vào miền Nam rồi sang Nam Vang mở một lớp dạy nhạc rồi lại quay về Hà Nội
và mất ở Nam Định vào năm 1942 khi 24 tuổi. Đặng Thế Phong chỉ sáng tác ba nhạc
phẩm và cả ba đều nổi tiếng: Đêm thu, Con thuyền không bến, Giọt
mưa thu. Đặc biệt với hai nhạc phẩm bất hủ Con thuyền không bến và Giọt
mưa thu, Đặng Thế Phong được xem như một trong những nhạc sĩ tiền chiến
tiêu biểu nhất.
Nhạc sĩ Văn Cao ở Hải Phòng và cũng từng tham gia nhóm Đồng
Vọng. Từ năm 16 tuổi Văn Cao đã có ca khúc đầu tay là Buồn tàn thu rất
được ưu chuộng. Năm 1941, theo lời khuyên của Phạm Duy, Văn Cao lên Hà Nội.
Thời kỳ này, ông đã viết nhưng ca khúc vượt thời gian như Thu cô liêu, Suối
mơ, Bến xuân và đặc biệt Trương Chi và Thiên Thai.
Tham gia Việt Minh, cuối năm 1944, Văn Cao viết Tiến quân ca, ca khúc
trở thành bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh rồi quốc ca của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và quốc ca của Việt Nam hiện nay. Đến năm 1947, ông viết Trường
ca Sông Lô ca ngợi chiến thắng sông Lô. Trương Chi, Thiên Thai
và Trường ca Sông Lô của Văn Cao được công nhận nằm trong số những ca
khúc hay nhất của Tân nhạc Việt Nam.
Một nhạc sĩ nổi tiếng khác ở Hà Nội là Đoàn Chuẩn. Là một người
say mê Hạ Uy cầm, Đoàn Chuẩn viết nhạc và để lại hơn 10 ca khúc, hầu hết đều
nói về mùa thu, trong đó nhiều bài giá trị như Đường về Việt Bắc, Lá
đổ muôn chiều, Gửi người em gái... Nhạc phẩm Vĩnh biệt của
ông cũng được sáng tác trong thời gian đó, nhưng đến cuối thập niên 1990 mới
công bố và được ca sĩ Ánh Tuyết trình bày.
Nhiều ca khác của các nhạc sĩ khác cũng ghi dấu ấn cho giai đoạn
tiền chiến như Ngày về, Mơ hoa của Hoàng Giác, Giáo đường im
bóng của Nguyễn Thiện Tơ, Em đến thăm anh một chiều mưa của Tô Vũ, Nỗi
lòng của Nguyễn Văn Khánh, Trách người đi của Đan Trường, Đêm
đông của Nguyễn Văn Thương, Ai về sông Tương của Văn Giảng, Trầu
cau của Phan Huỳnh Điểu, Xuân và tuổi trẻ của La Hối, Dạ khúc
của Nguyễn Mỹ Ca, Nhớ quê hương của Phạm Ngữ, Tình quê hương của
Việt Lang, Màu thời gian của Nguyễn Xuân Khoát...
Vào thời kỳ đầu tiên, Phạm Duy với vai trò ca sĩ trong gánh hát
Đức Huy là một trong những người góp phần phổ biến tân nhạc. Ông là người đầu tiên
hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sàigòn vào năm 1944, mỗi tuần
trình bày 2 lần. Phạm Duy có ca khúc đầu tay Cô hái mơ năm 1942 phổ từ
thơ Nguyễn Bính. Sau đó, với rất nhiều các ca khúc, ông là một trong những nhạc
sĩ Việt Nam có sức sáng tác mạnh mẽ nhất và thuộc nhiều thể loại.
Những giọng ca khác của tân nhạc thời kỳ đầu có thể kể tới
Thương Huyền, tài tử Ngọc Bảo...
Giai đoạn kháng chiến 1945-1954
Từ năm 1945,
tân nhạc Việt Nam bắt đầu có sự phân tách. Đa số các nhạc sĩ rời bỏ thủ đô và
những thành phố lớn để tham gia kháng chiến. Nhưng một số vẫn ở lại trong vùng
kiểm soát của Pháp hoặc có những nhạc sĩ theo kháng chiến rồi lại quay trở lại
thành phố.
Với đề tài kháng chiến, ở miền Bắc, Phạm Duy có Xuất quân,
Chiến sĩ vô danh, Bên ni bên tê, Đường Lạng Sơn, Việt Bắc, Bông Lau rừng xanh
pha máu, Thanh niên Việt Nam, Nhạc tuổi xanh, Đường về quê, Bà mẹ Gio Linh, Bao giờ anh
lấy được đồn Tây..., Nhớ người ra đi, Tiếng hát trên sông Lô, Đỗ Nhuận viết Du kích
sông Thao, Áo mùa đông, Nhớ chiến khu, Hoàng
Vân có Hò kéo pháo,
Văn Chung viết Quê tôi giải phóng, Lê Yên viết Bộ đội về làng,
Nguyễn Xuân Khoát viết Tiếng chuông nhà thờ, Nguyễn Đình Phúc viết Bình
ca, Chiến sĩ Sông Lô, Nguyễn Đình Thi viết Người Hà Nội,
Nguyễn Đức Toàn có Quê em miền trung du... Ở miền trung có Bình Trị
Thiên khói lửa của Nguyễn Văn Thương, Lời người ra đi của Trần Hoàn,
Đoàn vệ quốc quân, Có một đàn chim của Phan Huỳnh Điểu, Du
kích Ba Tơ của Dương Minh Viên... Còn ở miền Nam, một lớp nhạc sĩ trẻ hơn
như Hoàng Việt với Lên ngàn, Nhạc rừng, Nguyễn Hữu Trí với Tiểu
đoàn 307, Trần Kiết Tường với Anh Ba Hưng, Con kênh xanh xanh
của Ngô Huỳnh, Tình đồng chí của Minh Quốc. Một đề tài sáng tác mới nữa
của các nhạc sĩ là ca ngợi Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam. Lưu Hữu Phước
đã viết Chào mừng Đảng lao Động Việt Nam, Lưu Bách Thụ viết Biết ơn
Cụ Hồ. Tham gia kháng chiến, Văn Cao đã sửa lời Bến xuân thành Đàn
chim Việt và viết Trường ca Sông Lô, Ca ngợi Hồ Chủ tịch. Năm
1949 Văn Cao viết Tiến về Hà Nội. Năm 1951 Đỗ Minh sáng tác Chào mừng
Đảng Lao động Việt Nam.
Các ca khúc này đánh dấu sự ra đời thực sự của nhạc kháng chiến,
hay "nhạc đỏ". Tuy vậy, ngay trong số những nhạc sĩ trên, nhiều người
vẫn tiếp tục viết các ca khúc lãng mạn và được các chính quyền tại miền Nam
Việt Nam xếp vào dòng nhạc tiền chiến như Bên cầu biên giới, Tiếng
đàn tôi, Cây đàn bỏ quên của Phạm Duy, Sơn nữ ca của Trần
Hoàn, Dư âm của Nguyễn Văn Tý, Nụ cười sơn cước của Tô Hải, Tình
quê hương của Việt Lang, Tình nghệ sĩ, Thu quyến rũ của Đoàn
Chuẩn.
Ở các vùng đô thị thuộc kiểm soát của Pháp, những nhạc sĩ vẫn
sáng tác nhạc lãng mạn như Văn
Giảng với Ai về sông
Tương, Lâm Tuyền với Tiếng thời gian, Văn Phụng với Mơ khúc tương
phùng... Phạm Đình Chương có tác phẩm Ly rượu mừng, và Lê Thương
viết Hòn vọng phu. Lê Thương khi vào miền Nam viết các bản nhạc hài
hước, trào phúng Hòa bình 48, Liên Hiệp Quốc. Ở Hà Nội, năm 1947
Nguyễn Đình Thi viết ca khúc Người Hà Nội.
Trong giai đoạn này, tại Pháp trong những năm 1949 tới 1951,
hãng đĩa Oria đã thu một số đĩa nhựa 78 vòng tiếng hát của các ca sĩ Hải Minh,
Bích Thuận, Hoàng Lan, Văn Lý những ca khúc Hội nghị Diên Hồng của Lưu
Hữu Phước, Chiến sĩ vô danh của Phạm Duy, Tiếng thùy dương, Hòa
bình 48 của Lê Thương, Trách người đi của Đan Trường...
Sau hội nghị Việt Bắc 1950, nền nghệ thuật kháng chiến có bước
chuyển biến rõ rệt với vụ phê bình kịch thơ của Hoàng Cầm và ca khúc Bên cầu
biên giới của Phạm Duy vì "không theo chủ trương và đường lối của cách
mạng". Sau hội nghị này, nhiều nhạc sĩ phải thay đổi cách sáng tác, hoặc
rời bỏ kháng chiến về thành, điển hình nhất là Phạm Duy - nhạc sĩ thành công
nhất của kháng chiến lúc bấy giờ. Cùng với Phạm Duy hàng loạt những tên tuổi
nổi bật như Ngọc Bích, Phạm Đình Chương, Hoàng Thi Thơ...cũng rời bỏ cách mạng
để sau này về miền Nam tiếp tục hoạt động. Phạm Duy tiếp tục sáng tác các nhạc
phẩm đậm chất dân ca Bắc Bộ và thành công hơn cả là Tình ca năm 1952.
Vào năm 1951, Phạm Đình Chương vào Nam lập nghiệp rồi tập họp
anh chị em trong gia đình lập thành ban hợp ca Thăng Long, để
ghi nhớ bảng hiệu Thăng Long
là một quán phở gia đình của
họ tại Chợ Đại, Chợ Neo trước đây ở vùng Việt Bắc khi tản cư, ban nầy có Hoài Trung (Phạm Đình Viêm), Hoài Bắc
(Phạm Đình Chương), Phạm Duy, Thái Hằng (Pham Thị Quang Thái), Thái Thanh (Phạm
Thị Băng Tâm) và về sau thêm tài tử Khánh Ngọc, là một ban hợp ca danh tiếng
trong thập niên 1950 tại miền Nam, đã lưu diễn từ Nam ra Bắc trong Ban
Gió Nam của nghệ sĩ Trần Văn Trạch.
Trong chiến cuộc Đông Xuân và chiến dịch Điện Biên Phủ, ra đời
một loạt các ca khúc được phổ biến rộng rãi như Qua miền Tây Bắc của
Nguyễn Thành, Chiến thắng Điện Biên của Đỗ Nhuận.
Giai đoạn 1954-1975
Hiệp định Genève năm 1954 tạm chia Việt Nam thành hai vùng tập
trung quân sự để chờ tổng tuyển cử toàn quốc năm 1956. Chính quyền Quốc gia
Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa từ chối thi hành tổng tuyển cử theo hiệp định,
hành động này đã chia Việt Nam thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam.
Tại miền Bắc, nhạc kháng chiến tiếp tục và cùng với nhạc dân ca,
truyền thống, opera nhạc kịch và nhạc giao hưởng là những thể loại âm nhạc duy
nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền
Bắc. Các ca khúc nhạc đỏ để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ
chiến tranh, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý
tưởng cộng sản, cũng có cả những bài hát trữ tình, thể hiện tình yêu quê hương
đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng.
Ở miền Nam, với sự tự do, đa dạng hơn trong sáng tác nghệ thuật,
các nhạc sĩ đã viết các ca khúc thuộc nhiều thể loại. Dòng nhạc tiền chiến được
Cung Tiến, Phạm Đình Chương tiếp tục. Một số nhạc sĩ trẻ như Ngô Thụy Miên, Từ
Công Phụng, Lê Uyên Phương, Vũ Thành An sáng tác các bản tình ca mới. Dòng
"nhạc vàng" xuất hiện với các tên tuổi tiêu biểu Hoàng Thi Thơ, Trúc
Phương, Lam Phương. Văn hóa Âu Mỹ tràn ngập miền Nam dẫn đến sự hình thành dòng
nhạc trẻ. Bên cạnh đó là các phong trào Du ca và dòng nhạc phản chiến. Một nhạc
sĩ tiêu biểu cho dòng nhạc phản chiến này và cả tình ca là Trịnh Công Sơn.
Miền Bắc
Tại miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với sự lãnh đạo của Đảng
Lao động Việt Nam, tân nhạc cũng như điện ảnh, có nhiệm vụ chính là cổ vũ chiến
đấu. Dòng nhạc Cách mạng chiếm vị trí độc tôn, các nhạc sĩ lãng mạn như Văn
Cao, Đoàn Chuẩn ít sáng tác. Song song với lớp nhạc sĩ đầu như Lưu Hữu Phước,
Đỗ Nhuận, Lương Ngọc Trác, sau đó tới Doãn Nho, Tô Hải, Hồ Bắc, Huy Thục, Hoàng
Việt đã xuất hiện một số
nhạc sĩ trẻ hơn Trọng Bằng, Cao Việt Bách... Ca ca sĩ tiếp nối truyền thống cũ,
hát bằng giọng đẹp Bel canto.
Việc một số nhạc sĩ được gửi đi học ở các nước xã hội chủ nghĩa
như Liên Xô, Trung Quốc... và nhiều đoàn ca múa chuyên nghiệp của các quốc gia
Liên Xô và Đông Âu tới Hà Nội trình diễn đã tạo nên sự ảnh hưởng tới tân nhạc
Việt Nam. Bốn chủ đề sáng tác chính của các nhạc sĩ miền Bắc thời kỳ này là:
- Ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh
Được thể hiện qua
nhiều bài hát như Việt Bắc nhớ Bác Hồ của Phạm Tuyên, Hồ Chí Minh đẹp
nhất tên Người của Trần Kiết Tường, Ðôi dép Bác Hồ của Văn An, Nhớ
ơn Hồ Chí Minh của Tô Vũ, Lời ca dâng Bác của Trọng Loan, Trồng
cây lại nhớ đến Người của Ðỗ Nhuận, Ca ngợi Hồ chủ tịch của Văn Cao,
Tình Bác sáng đời ta của Lưu Hữu Phước...
- Phong cảnh và tâm hồn Việt Nam
Một số ca khúc như Quảng
Bình quê ta ơi của Hoàng Vân, Vàm Cỏ Ðông của Trương Quang Lục, Tây
Nguyên bất khuất của Văn Ký, Bài ca Hà Nội của Vũ Thanh, Trường
Sơn Ðông, Trường Sơn Tây của Hoàng Hiệp, Một khúc tâm tình của người Hà
Tĩnh của Nguyễn Văn Tý, Những cô gái đồng bằng sông Cửu Long của
Huỳnh Thơ, Cô gái Sài Gòn đi tải đạn của Lư Nhất Vũ...
- Dân tộc thiểu số
Do hoàn cảnh chiến
tranh, một số nhạc sĩ có những tiếp xúc với các dân tộc thiểu số và đã viết các
ca khúc như Tiếng đàn ta lư của Huy Thục, Cô giáo Tày cầm đàn lên
đỉnh núi của Văn Ký, Bản Mèo đổi mới của Trịnh Lai, Em là hoa Pơ
Lang của Ðức Minh, Bóng cây kơ nia
của Phan Huỳnh Ðiểu, Cánh chim báo tin vui của Đàm Thanh...
- Cổ vũ chiến đấu chống Mỹ, giải phóng miền Nam
Đây là đề tài chính
của nhiều bài hát: Anh vẫn hành quân của Huy Du, Chào anh giải phóng
quân của Hoàng Vân, Lời anh vọng mãi ngàn năm của Vũ Thanh, Bài
ca năm tấn của Nguyễn Văn Tý, Lá thư hậu phương của Phạm Tuyên, Trai
anh hùng, gái đảm đang của Ðỗ Nhuận, Bài ca may áo của Xuân Hồng, Mỗi
bước ta đi của Thuận Yến, Hành khúc giải phóng của Lưu Nguyễn Long
Hưng, tức Lưu Hữu Phước, Giải phóng miền Nam của Huỳnh Minh Siêng, tức
Lưu Hữu Phước... bài Giải phóng miền Nam được dùng làm bài hát chính
thức của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam từ năm 1960 tới năm
1975.
- Anh hùng:
Biết ơn chị Võ Thị Sáu, Nguyễn Viết Xuân cả nước yêu thương của Nguyễn Đức
Toàn, Bế Văn Đàn sống mãi của Huy Du, Lời anh vọng mãi ngàn năm của Vũ Thanh,
Bài ca anh Hồ Giáo của Nhật Lai,...
Những năm kháng chiến chống Mỹ, âm nhạc thiếu nhi đã có một đời
sống phong phú, với các nhạc sĩ như: Phạm Tuyên, Hoàng Long, Hoàng Lân, Phong
Nhã, Hàn Ngọc Bích, Vân Dung, Hoàng Vân, Huy Du,...
Ngoài các ca khúc phổ thông, nhiều thể loại khác cũng được các
nhạc sĩ thể nghiệm. Ảnh hưởng do các màn hợp xướng do các đoàn văn nghệ Liên Xô
và Đông Âu trình diễn ở Hà Nội, một số nhạc sĩ Việt Nam đã soạn các ca khúc cho
nhiều bè như năm 1955 có Hò đẵn gỗ của Đỗ Nhuận, Sóng cửa Tùng
của Doãn Nho, Chiến sĩ biên phòng của Huy
Thục, năm 1956 và 1957 có Ta
đã lớn, Hò kiến thiết của Nguyễn Xuân Khoát, Tiếng chim của
Lưu Cầu, Tiếng hát người chiến sĩ biên thùy của Tô Hải năm 1958...Hoàng
Vân sáng tác Hồi tưởng, Hồ Bắc sáng tác Ca ngợi tổ quốc. Các tác
phẩm khí nhạc viết về miền Nam như Huy Du có Miền Nam quê hương ta ơi
(1959), Nguyễn Văn Thương với Trở về đất mẹ...
Một số vở thanh xướng kịch cũng xuất hiện: Vượt sông Cái
của Nguyễn Xuân Khoát viết năm 1955, Nguyễn Văn Trỗi của Đàm Linh theo
lời thơ Chu Điền năm 1965. Một vài thể loại nữa là các ca kịch nhỏ như Tục
lụy của Lưu Hữu Phước, kịch hát nói Căn nhà màu hồng ngọc của Hoàng
Vân. Vở nhạc kịch đầu tiên của Việt Nam Cô
Sao được Đỗ Nhuận viết năm 1965.
Sự xuất hiện các bộ phim điện ảnh cách mạng cũng dẫn tới nhiều
ca khúc cho phim được sáng tác. Tác giả nhạc phim đầu tiên là Nguyễn Đình Phúc
với phim Chung một dòng sông và Lửa trung tuyến. Tiếp đó tới các
nhạc sĩ khác như Trọng Bằng với Cù Chính Lan, Biển lửa, Hồng Đăng với Hà Nội mùa chim làm tổ, Hoàng Vân với Con chim
vành khuyên...
Miền Nam
Khác với miền Bắc, ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 các nghệ sĩ về
cơ bản được tự do sáng tác các loại nhạc, trừ nhạc cách mạng, và các nhạc phẩm
thân Cộng hoặc có xu hướng chống Mỹ nói chung. Cũng như điện ảnh, tân nhạc ở
miền Nam thời kỳ này hình thành một thị trường sôi động. Các dòng nhạc tiến
chiến, tình khúc, nhạc vàng đều có đông đảo người nghe và các nghệ sĩ riêng.
Dòng nhạc tiền chiến được các giọng ca hàng đầu như Thái Thanh, Khánh Ly, Lệ
Thu, Hà Thanh, Duy Trác tiếp tục. Khác với giai đoạn tiền chiến và kháng chiến,
thời gian này chủ yếu là các giọng ca trầm, hát bằng giọng ngực, phù hợp thị
hiếu bấy giờ. Nhạc vàng của các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Lam
Phương được các ca sĩ Duy Khánh, Chế Linh, Thanh Thúy, Thanh Tuyền thể hiện.
Các tình khúc mới của Ngô Thụy Miên, Lê Uyên Phương, Từ Công Phụng, Vũ Thành An
được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt qua các tiếng hát Khánh Ly, Lê Uyên, Lệ Thu.
Một số ca sĩ, nhạc sĩ, ban nhạc trẻ xuất hiện đánh dấu sự ra đời của dong nhạc
trẻ như Elvis Phương, Nguyễn Trung Cang, Quốc Dũng, Lê Hựu Hà. Các băng nhạc
Sơn Ca, Trường Sơn, Shotguns... được phát hành đều đặn.
Dòng nhạc tiền chiến
Một số nhạc sĩ di cư vào miền Nam năm 1954 như Hoàng Trọng, Văn
Phụng... hoặc từ trước đó như Lê Thương, Phạm Duy... và những nhạc sĩ trẻ hơn
như Phạm Đình Chương, Cung Tiến... đã tiếp tục dòng nhạc tiền chiến tại miền
Nam.
Những nhạc sĩ này trong khoảng 1954 đến 1975 có những sáng tác
đa dạng, trong đó nhiều ca khúc của họ vẫn được xếp chung vào dòng nhạc tiền
chiến. Một số tác phẩm nổi tiếng như Mộng dưới hoa, Trường ca Hội trùng
dương của Phạm Đình Chương, Hương xưa của Cung Tiến. Những nhạc phẩm
tiền chiến thường xuyên được trình diễn và thu âm bởi những tiếng hát hàng đầu
như Khánh Ly, Thái Thanh, Lệ Thu, Duy Trác, Hà Thanh...
Tình khúc
Một lớp nhạc sĩ trẻ hơn xuất hiện với các bản tình ca mới. Khác
với dòng nhạc tiền chiến thường mượn cảnh mùa thu, mưa... để nói lên tình cảm
của mình, những nhạc sĩ này có cách thể hiện trực tiếp hơn như Vũ Thành An với
các Bài không tên, Lê Uyên Phương với các ca khúc...
Giai đoạn này, bên cạnh nhạc sĩ tiền bối Phạm Duy vẫn sáng tác
đều đặn những ca khúc giá trị như Cỏ hồng, Trả lại em yêu, Mùa
thu chết.... Còn xuất hiện thêm những nhạc sĩ với phong cách riêng.
Năm 1965, Vũ Thành An viết ca khúc đầu tay Tình khúc thứ nhất,
phổ thơ Nguyễn Đình Toàn. Ngay từ ca khúc đầu tiên này, Vũ Thành An được nổi
danh. Tiếp sau đó, ông viết một loạt Bài không tên được đánh số cùng một vài ca
khúc có tên như Em đến thăm anh đêm 30. Những nhạc phẩm của Vũ Thành An
được yêu thích rộng rãi ở miền Nam khi đó, thường xuyên được nghe thấy trong
các quán cà phê, trên sóng đài phát thanh, trong các băng nhạc.
Ngô Thụy Miên bắt đầu với Chiều nay không có em được viết
năm 1963, nhưng đến với công chúng vào năm 1965. Tiếp theo, ông phổ nhạc cho
một số bài thơ của thi sỹ Nguyên Sa và giành được thành công rực rỡ. Các ca
khúc Niệm khúc cuối, Mắt biếc, Áo lụa Hà Đông đã ghi dấu
ấn của Ngô Thụy Miên trong thời kỳ đó. Năm 1974, Ngô Thụy Miên thực hiện băng
nhạc đầu tay Tình Ca Ngô Thụy Miên gồm 17 tình khúc đã được viết trong
khoảng thời gian 1965 tới 1972. Với sự góp mặt của các ca sĩ danh tiếng Khánh
Ly, Duy Trác, Thái Thanh, Lệ Thu, Thanh Lan... và nhạc sĩ hòa âm Văn Phụng,
cuốn băng tạo được thành công rực rỡ.
Từ Đà
Lạt, đôi nghệ sĩ Lê
Uyên và Phương xuất hiện mang đến
cho tân nhạc những sắc thái mới với các ca khúc khắc khoải, nồng nàn. Bắt đầu
từ nhạc phẩm đâu tay Buồn đến bao giờ viết năm 1960 tại Pleiku, Lê Uyên Phương với những Bài ca hạnh ngộ,
Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây,
Vũng lầy của chúng ta... được giới trẻ nồng nhiệt đón nhận.
Một gương mặt nổi danh nữa của dòng nhạc này là nhạc sĩ Từ Công
Phụng. Khởi sự từ ca khúc đầu tay Bây giờ tháng mấy, các nhạc phẩm tiếp
theo của Từ Công Phụng đều mang không khi mang mác như Lời cuối, Trên
ngọn tình sầu, Mùa xuân trên đỉnh bình yên, Giọt lệ cho ngàn sau,
Mắt lệ cho người... Đặc biệt sau 1975 ở hải ngoại, các ca khúc của Từ
Công Phụng còn được biết đến nhiều hơn qua giọng ca Tuấn Ngọc trình bày rất
thành công.
Một số nhạc sĩ khác cũng viết các tình khúc nổi tiếng rát được
ưa chuộng vào thời gian này như Hoàng Nguyên với Ai lên xứ hoa đào, Cho
người tình lỡ, Quốc Dũng với Đường xưa, Cơn gió thoảng,
Nguyễn Ánh 9 với Không, Buồn ơi xin chào mi, Văn
Phụng với Yêu, Tình;
Khánh Băng với Sầu đông, Vọng ngày xanh; Y Vân với Buồn, Thôi,
Ảo ảnh, Anh Bằng với Khúc Thụy du, Nỗi lòng người đi; Trần
Trịnh với Lệ đá; Nguyễn Văn Đông với Chiều mưa biên giới, Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp; Phạm Trọng Cầu, học ở Paris, cũng đã viết Mùa
thu không trở lại...
Phạm Đình Chương cũng có Nửa hồn thương đau phổ từ thơ
Thanh Tâm Tuyền rất nổi tiếng, hay Người đi qua đời tôi phổ thơ Trần Dạ
Từ. Lê Trọng Nguyễn nổi danh với Chiều bên giáo đường, Lá rơi bên
thềm và đặc biệt Nắng chiều, ca khúc còn được biết đến ở Hồng Kông,
Đài Loan và Nhật Bản. Hoàng Trọng thành công với các bài hát theo điệu tango Ngỡ
ngàng, Lạnh lùng, Tiến bước sang ngang.
Nhạc vàng
Bên cạnh các tình khúc, dòng nhạc vàng cũng đặc biệt phổ biến.
Với các bài hát giai điệu nhẹ nhàng, đơn giản, dòng nhạc này đã thu hút một số
lượng lớn khán giả bình dân. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy viết: "Đầu
thập niên 70 là lúc Nhạc Việt, trong phạm vi ca khúc, phát triển đến tột độ. Có
sự thành công của những bài hát thông thường và chỉ được coi là nhạc thương
phẩm - mệnh danh là nhạc vàng - với những tình cảm dễ dãi phù hợp với tuổi
choai choai, với em gái hậu phương và lính đa tình, tuy không được coi trọng
nhưng lại rất cần thiết cho vài tầng lớp xã hội trong thời chiến."
Từ trước 1963, các nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, Lam Phương đã soạn các
bản như Gạo trắng trang thanh, Chiều hành quân... Nhưng phải tới
sau 1963, khi nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam bắt đầu thì các bài hát về Tình và
Lính mới trở nên thực sự phổ biến. Đây cũng là hai đề tài chủ yếu của nhạc
vàng.
Hoàng Thi Thơ là một nhạc sĩ thành công trong nhiều lĩnh vực.
Ông từng là trưởng đoàn nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa đi trình diễn ở một số
nước. Hoàng Thi Thơ cũng từng tham gia sản xuất điện ảnh với phim Người cô
đơn nói về đề tài âm nhạc. Trên lĩnh vực sáng tác ông viết nhiều bản với âm
hưởng dân tộc như Trăng rụng xuống cầu, Rước tình về quê hương, Tình
ca trên lúa, Đám cưới trên đường quê, các bản tình cảm như Chuyện
tình người trinh nữ tên Thi, Đường xưa lối cũ... Ông còn soạn một
vài vở kịch hát Cô gái điên, Ả đào say.
Lam Phương được biết tới với các bản nhạc tình Bài tango cho
em, Em là tất cả, Tình bơ vơ... hoặc các bài chủ đề khác như Đoàn
người lữ thứ, Cho em quên tuổi ngọc, Kiếp nghèo, Chuyến đò
vỹ tuyến...
Các ca khúc với chủ đề Lính, người tiêu biểu nhất là Trần Thiện
Thanh. Vốn cũng là một ca sĩ với nghệ danh Nhật Trường, ông đã sáng tác và tự
trình diễn nhiều bài hát về hình ảnh người lính Việt Nam Cộng hòa: Biển mặn,
Chiều trên phá Tam Giang, Hoa trinh nữ, Rừng lá thấp, Tâm
sự người lính trẻ, Tình thư của lính... Một số ca khúc khác của ông
cũng rất phổ biến như Chiếc áo bà ba, Khi người yêu tôi khóc, Gặp
nhau làm ngơ, Mùa đông của anh. Một tác giả viết về lính khác là
Trúc Phương, tác giả của Đò chiều, Kẻ ở miền xa, Tàu đêm năm
cũ, Trên bốn vùng chiến thuật... và Ai cho tôi tình yêu, Đôi
mắt người xưa, Thói đời, Mưa nửa đêm, Tình thắm duyên quê...
Những bản nhạc tình bi lụy còn có Châu Kỳ với Giọt lệ đài
trang, Được tin em lấy chồng, Sao chưa thấy hội âm, Con
đường xưa em đi. Một vài bản khác rất nổi danh như Người yêu cô đơn
của Đài Phương Trang, . Ngoài ra còn một số ca khúc như Phiên gác đêm xuân
của Nguyễn Văn Đông, Người yêu của lính của Anh Chương, Sang ngang
của Đỗ Lễ, Căn nhà ngoại ô của Anh Bằng...
Giọng ca tiêu biểu của nhạc vàng, đầu tiên có thể kể đến Duy
Khánh. Tiếp theo là ca sĩ Chế Linh, cũng là tác giả của ca khúc Đêm buồn
tỉnh lẻ. Các giọng ca nữ có Thanh Thúy, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hoàng Oanh.
Cùng với các nhạc sĩ, các ca sĩ này cũng góp phần định hình dòng nhạc vàng với
cách hát khác hẳn các ca sĩ của nhạc tiền chiến hay tình khúc 1954-1975.
Danh từ nhạc vàng chỉ có sau khi giải phóng miền Nam, phong trào bài trừ văn hóa đồi trụy và cấm phổ biến "nhạc vàng" nói chung là những bản nhạc được sáng tác sau Hiệp định Genèvre năm 1954. Ở Bắc trước đó có người sử dụng, chơi nhạc miền Nam nầy, đã bị kết án tù đày 10 năm, chính họ gọi nhạc miền Nam là nhạc vàng vì quí như vàng.
Nhạc trẻ
Vào cuối thập niên 1950, nhạc kích động châu Âu và Mỹ bắt đầu
thâm nhập thị trường miền Nam. Một số thanh niên trẻ con các thương gia, các
học sinh học theo chương trình của Pháp thường nghe các ca khúc của Mỹ và Pháp.
Nhưng phải tới khoảng thời gian 1963-1965 thì phong trào nghe các ca khúc
phương Tây này mới thực sự bành trướng qua các buổi tổ chức khiêu vũ tại gia.
Các danh ca của Mỹ như Paul Anka, Elvis Presley, The Platters... của Anh như
Cliff Richard, The Shadows, The Beatles, The Rolling Stones... của Pháp như Johnny
Halliday, Sylvie Vartan, Françoise Hardy, Christophe, Dalida... trở
thành thần tượng của giới trẻ Sài Gòn.
Đầu những năm 1960 thì nhạc trẻ trở thành một hiện tượng của âm
nhạc Việt Nam. Những ban nhạc trẻ kích động như C.B.C., The Dreamers, The
Uptight, The Blue Jets, The Spotlights sau đổi thành Strawberry Four với Tùng
Giang, Đức Huy, Tuấn Ngọc và Billy Shane và một số ca sĩ Việt thích kèm theo
tên ngoại quốc bên cạnh tên Việt như Elvis Phương, Pauline Ngọc, Prosper Thắng,
Julie Quang, Carol Kim... nổi danh với các bạn nhạc ngoại quốc hát bằng lời Anh
hoặc Pháp. Những hộp đêm Mỹ ngày càng nhiều từ năm 1968 khuyến khích nhiều ca
sĩ hát nhạc Mỹ. Nhiều bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng được các nhạc sĩ Phạm Duy,
Quốc Dũng, Nam Lộc, Tùng
Giang, Trường Hải... đặt
lời Việt.
Không chỉ dừng lại ở việc hát nhạc ngoại quốc, nhiều nhạc sĩ tự
sáng tác các bạn nhạc kích động. Một trong những người đầu tiên có thể kể tới
là Khánh Băng với Sầu đông, Có nhớ đêm nào, Tiếng mưa rơi.
Các nhạc sĩ khác như Quốc Dũng, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà cũng là những
người đầu tiên Việt hóa thể loại nhạc này.
Quốc Dũng, với nhiều ca khúc nổi tiếng, cùng với Thanh Mai tạo
thành một đôi song ca được nhiều mến mộ. Ban Phượng Hoàng của Nguyễn Trung
Cang, Lê Hựu Hà và ca sĩ Elvis Phương trở thành một trong nhưng ban nhạc thành công
nhất của Sài Gòn giai đoạn đó.
Tới năm 1971, đại hội nhạc trẻ đầu tiên được tổ chức tại sân Hoa
Lư do Trường Kỳ, Tùng Giang và Nam Lộc tổ chức. Sự thành công của đại hội nhạc
trẻ đầu tiên ở Sài Gòn đã đẩy mạnh nhạc trẻ lên cao độ. Tiếp theo đó nhiều đại
nhạc hội khác được tiếp tục được tổ chức: năm 1971 tại trường trung học Taberd
với hơn 10.000 người nghe, năm 1974 tại sở thú với trên 20.000 khán giả.
Cho tới sau 1975, nhiều bản nhạc nước ngoài vẫn ăn khách trong
cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một vài ca khúc còn được các ca sĩ trẻ trong
nước hát, như Bang bang do Phạm Duy đặt lời Việt được Mỹ Tâm hát lại vào
những năm đầu thập niên 2000. Nhạc Jazz/Blues đã thịnh hành tại miền Nam khi
đó.
Nhạc phản chiến
Khi cuộc chiến tranh Việt Nam ngày càng lan rộng, ở miền Nam,
không chỉ có các nhạc sĩ sáng tác các bài hát ca ngợi người lính Việt Nam Cộng
hòa mà còn xuất hiện nhiều ca khúc phản chiến. Người tiêu biểu nhất cho phong
trào nhạc phản chiến này là Trịnh Công Sơn.
Bắt đầu từ khoảng năm 1966, những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn qua tiếng
hát Khánh Ly đã chinh phục giới trẻ, đánh trúng tâm lý chán ghét chiến tranh,
mong muốn hòa bình. Năm 1968, sau sự kiên Tết Mậu Thân, Trịnh Công Sơn tung ra
tập nhạc Kinh Việt Nam. Năm 1969, Trịnh Công Sơn cho ra tiếp tập Ta
phải thấy mặt trời, rồi sau đó là Ca khúc da vàng. Với các ca khúc Nối
vòng tay lớn, Bài ca dành cho những xác người, Gia tài của mẹ...
Trịnh Công Sơn kêu gọi mọi người ngừng chiến tranh, nêu lên một hình ảnh Việt
Nam đau thương vì cuộc chiến.
Song song với nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn, sau Tết Mậu
Thân năm 1968, mầm mống chống đối chính quyền Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu nảy nở ở
các trường đại học tại Sài Gòn. Nhạc sĩ Miên Đức Thắng đã sáng tác các ca khúc
như Hát từ cách đồng hoang, Lớn mãi không ngừng. Phong trào học
sinh và sinh viên xuống đường xuất hiện cùng với Hát cho đồng bào tôi nghe,
trong đó hai nhạc sĩ tiêu biểu là Trần Long Ẩn và Tôn Thất Lập. Năm 1971, một
tập nhạc khác xuất hiện là Hát cùng đồng bào ta. Những bài hát xuống
đường được giới sinh viên học sinh hát nhiều nhất lúc đó là: Sức mạnh nhân
dân của Trương Quốc Khánh, Tình nghĩa Bắc Nam của Nguyễn Văn Sanh, Dậy
mà đi của Nguyễn Xuân Tân... Phạm Thế Mỹ cũng viết Hoa vẫn nở trên đường
quê hương, Thương quá Việt Nam.
Phạm Duy cũng sáng tác một số ca khúc phản đối cuộc chiến tranh Kỷ
vật cho em, Chuyện hai người lính, Khi tôi về, Tình khúc
trên chiến trường tồi tệ, Thầm gọi tên nhau trên chiến trường tồi tệ,
Tưởng như còn người yêu... Trong đó ca khúc Kỷ vật cho em phổ từ
thơ Linh Phương trở nên rất nổi tiếng, được các danh ca của Sài Gòn khi đó như
Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly hát thường xuyên tại các phòng tra, vũ trường gây
nên các tác động mạnh mẽ tới khán giả.
Lê Hựu Hà cũng là một người có nhiều sáng tác trong phong trào
phản đối chiến tranh tiêu biểu là bài hát Hãy nhìn xuống chân...
Phong trào du ca
Năm 1966, hai nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang và Đinh Gia Lập thành lập
phong trào Du ca, là một đoàn thể hoạt động về văn hóa và văn nghệ phục vụ cộng
đồng, xuất hiện cùng lúc với phong trào làm công tác xã hội của sinh viên, học
sinh. Chủ tịch phong trào từ 1967 là dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ và đến năm 1972
được thay thế bởi Đỗ Ngọc Yến. Trưởng xưởng Du ca do nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang
điều hành, đến năm 1972 được Ngô Mạnh
Thu thay thế. Phong trào được Bộ Quốc gia Giáo dục và Thanh niên Việt Nam Cộng
hòa công nhận chính thức và cấp giấy phép hoạt động trên toàn quốc kể từ ngày
24 tháng 1 năm 1969.
Du ca quy tụ khá nhiều các nhạc sĩ tên tuổi, cũng như nhiều nhạc
sĩ trẻ xuất phát từ phong trào: Nguyễn Đức Quang, Trầm Tử Thiêng, Anh Việt Thu,
Trần Tú, Nguyễn Quyết Thắng... Phạm
Duy cũng có đóng góp tích
cực trong phong trào du ca với nhiều ca khúc về xã hội, tuổi trẻ...
]
Du ca ra đời đúng lúc mọi người đang đòi hỏi một nền văn nghệ
sống động, thức tỉnh và mới lạ. Những loại nhạc mà phong trào du ca thường sử
dụng là Thanh niên ca, Thiếu nhi ca, Sinh hoạt ca, Nhận thức ca, Sử ca, Dân ca,
những bài hát ca ngợi tình yêu con người và thân phận quê hương. Nhiều bài hát
của du ca đã trở nên quen thuộc như Việt Nam, Việt Nam của Phạm Duy, Việt
Nam quê hương ngạo nghễ của Nguyễn Đức Quang, Hát từ tim, hát bằng hơi
thở của Nguyễn Quyết Thắng, Anh sẽ về của Nguyễn Hữu Nghĩa, thơ Kinh
Kha, Xin chọn nơi này làm quê hương của Nguyễn Đức Quang.
Những ca khúc trong phong trào du ca có mục đích kêu gọi thanh
niên hãy tự hào, tin tưởng và hy vọng nơi tương lai. Trước năm 1975, phong trào
du ca có tác dụng sâu mạnh đối với giới trẻ qua các đoàn, toán ca như Con Sáo
Huế, Du ca Áo Nâu, Du ca Lòng mẹ, Du ca Trùng Dương... Họ trình diễn ở khắp nơi
miền Nam khi đó, trong trường học, ngoài sân cỏ, trên sân khấu, trong các đoàn
thể bạn, hướng đạo, hay Thanh sinh công, Gia đình Phật tử.
Du ca cũng đã phát hành một số tuyển tập nhạc như: Tuyển tập
Du ca 1, Du ca 2, Du ca 3, Những bài ca khai phá, Ta đi trên dòng lịch sử,
Những điều trông thấy, Những khuôn mặt Duca, Hát cho những người sống sót, Anh
hùng ca, Sinh hoạt ca.
Các nhạc sĩ khác
Trong thời kỳ từ 1954 đến 1975, Phạm Duy vẫn là một trong những
nhạc sĩ có sức sáng tác mạnh mẽ nhất và các ca khúc của ông cũng thuộc nhiều
thể loại. Tiếp tục những ca khúc "dân ca mới", Phạm Duy còn sáng tác
nhiều tình khúc như Nghìn trùng xa cách, Trả lại em yêu, Con
đường tình ta đi, Nha Trang ngày về, Cỏ hồng, Mùa thu chết,
Nước mắt mùa thu... Ông còn có các bài hát Bé ca dành cho thiêu nhi: Ông
trăng xuống chơi, Chú bé bắt được con công, Thằng Bờm, Bé
bắt dế, Đưa bé đến trường, Đốt lá trên sân
Các trường ca Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam cũng
được Phạm Duy viết trong thời kỳ này. Ngoài ra có thể kể đến Đạo ca, Tâm ca...
Trong các phong trào Nhạc trẻ, Du ca, Nhạc phản chiến Phạm Duy đều có tham gia
với nhiều ca khúc.
Trịnh Công Sơn, ngoài các ca khúc phản chiến, ông là tác giả của
rất nhiều tình khúc, giúp ông trở thành một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất
của thời kỳ đó và cả sau này. Từ sáng tác được coi là đầu tay Ướt mi
xuất bản năm 1959, Trịnh Công Sơn tiếp tục thành công với Diễm xưa, Tuổi
đá buồn, Tình xa, Tình nhớ... Cùng với tiếng hát Khánh Ly,
các bản tình ca của Trịnh Công Sơn đã chinh phục giới thanh niên miền Nam khi
đó, trở thành một hiện tượng của tân nhạc.
Một điểm khác biệt giữa âm nhạc miền Bắc và miền Nam khi đó là
trong khi ở miền Bắc, các ca khúc chỉ được phát trên đài phát thanh, qua các
buổi biểu diễn của những đội văn công... thì tại miền Nam, âm nhạc hình thành
một thị trường sôi động với nhiều hãng băng đĩa. Các ca khúc được phát trên
sóng phát thanh, truyền hình, được trình diễn tại các vũ trường, phòng trà và
các đại nhạc hội.
Những người đi đầu trong việc sản xuất băng đĩa có thể kể đến
Phạm Mạnh Cương, Nguyễn Văn Đông, Tùng Giang... Những băng nhạc Sơn ca, Trường
Sơn, Nhã ca, Nhạc trẻ, Shotguns, Sóng nhạc... được phát hành đều đặn. Với lợi
nhuận từ các băng nhạc, tập nhạc, các nhạc sĩ nổi tiếng có được thu nhập rất
cao.
Phòng trà và vũ trường là hai điểm trình diễn phổ biến của Sài
Gòn giai đoạn đó. Những phòng trà như Đêm Màu Hồng, Queen Bee... là điểm yêu
thích của nhiều khán giả nghe nhạc.
Giai đoạn sau 1975
Sau khi thống nhất đất nước, nền tân nhạc Việt Nam có nhiều thay
đổi thăng trầm. Để xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, Việt Nam đã tiến hành cuộc cách
mạng văn hoá tư tưởng và đấu tranh cải tạo công thương nghiệp, cải cách ruộng
đất.
Giai đoạn 1975-1996
Trong nước
Trong nước các dòng nhạc vàng bị cấm hoàn toàn vì không phù hợp
với chủ trương, các ca sĩ nhạc vàng được khuyến khích chuyển sang hát nhạc
truyền thống cách mạng (nhạc đỏ), các bài hát lạc quan. Nhiều ca sĩ & nhạc
sĩ Việt Nam phải vượt biên sang định cư tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác.
Nhiều bài hát tiền chiến và tình ca bị hạn chế lưu hành. Cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam và cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Tuy nhiên dòng nhạc
quê hương mang màu sắc lạc quan vẫn được khuyến khích. Một số nhạc sĩ nhạc vàng
chuyển sang sáng tác nhạc quê hương, như Trần Thiện Thanh với Chiếc áo bà ba, Trúc Phương với Chín dòng sông hò hẹn, Tô Thanh Tùng với
Tình cây và đất, các sáng tác của
Thanh Sơn.
Đề tài sáng tác chủ yếu trong giai đoạn này là:
- Ca ngợi lãnh tụ Hồ Chí Minh: có các bài hát tiêu biểu như: Viếng lăng Bác của Hoàng Hiệp, Miền Nam Nhớ mãi ơn người của Lưu Cầu, Lời Bác dặn trước lúc đi xa của Trần
Hoàn...
- Ca ngợi Đảng: Huyền
diệu, Đảng đã cho ta một mùa xuân...
- Ca ngợi chiến công lẩy lừng của cuộc kháng chiến như: Dáng
đứng Bến Tre, 40 thế kỷ cùng ra trận, Tổ quốc yêu thương,
- Tình yêu quê hương đất nước và tình yêu lứa đôi: Quê Hương của Giáp Văn Thạch phổ thơ Đổ
Trung Quân, Đất nước lời ru của Văn
Thành Nho, Mùa xuân trên thành phố Hồ Chí
Minh của Xuân Hồng, Huyền Thoại Mẹ
của Trịnh Công Sơn, Bài ca không quên
của Phạm Minh Tuấn, Thuyền và Biển của
Phan Huỳnh Điểu, Gửi em chiếc nón bài thơ
của Lê Việt Hòa, Giai điệu Tổ quốc
của Trần Tiến...
- Ca ngợi và phát động các phong trào lao động tập thể như Thanh
Niên Xung Phong: Đêm rừng Đắc Min của
Nguyễn Đức Trung, Em ở nông trường anh ra
biên giới của Trịnh Công Sơn, Huyền
thoại Hồ núi Cốc của Phó Đức Phương, Trị
An âm vang mùa xuân, Tàu anh qua núi, Đêm thành phố đầy sao, Người đi xây hồ Kẻ
Gỗ, Mùa xuân từ những giếng dầu...
Các nhạc sĩ tiêu biểu trong giai đoạn này là: Diệp Minh Tuyền,
Trần Long Ẩn, Thế Hiển, Nguyễn Nam, Nguyễn Văn Hiên, An Thuyên, Phó Đức Phương,
Phong Nhã, Trần Tiến...
Đặc biệt Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Trần Tiến chịu ảnh hưởng của phong
trào du ca trước năm 1975 nên đã có nhiều sáng tác mới lạ thời bấy giờ nên được
công chúng yêu nhạc đón nhận với các ca khúc: Mặt trời bé con, Tuỳ hứng lý qua
cầu, Tạm biệt chim én...
Các ca sĩ thành danh như: Cẩm Vân, Bảo Yến, Nhã Phương, Quang
Lý, Tuấn Phong, Cao Minh, Thế Hiển, Trần Tiến...
Phong trào văn nghệ quần chúng phát triển mạnh mẽ. Hội âm nhạc
Việt Nam được thành lập. Hằng năm đều tổ chức nhiều chuyến du khảo hội trại
sáng tác theo những chủ đề do nhà nước đặt hàng.
Các trường âm nhạc, văn hoá nghệ thuật được quan tâm thành lập
tuy nhiên chỉ mới dừng lại ở quy mô dạy dòng nhạc thính phòng cỏ điển và âm
nhạc tuyên truyền.
Nhiều văn nghệ sĩ có cơ hội giao lưu học tập tại Liên Xô (Nga)
đã du nhập nhiều bản nhạc Liên Xô được hát bằng tiếng Nga hoặc dịch ra lời
Việt: Một triệu đóa hoa hồng do Cẩm Vân trình bày, Chiều hải cảng, Đôi bờ, Chiều Matxcơva, Cây th ùy
dương.
Sau Đại hội Đảng lần VI đề ra chủ trương đổi mới tư duy, xoá bao
cấp,văn hoá nghệ thuật được cởi mở Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTV)
đã tổ chức các cuộc thi tiếng hát truyền hình tạo cơ hội cho nhiều ca sĩ trẻ
thành danh như: Như Quỳnh, Như Hảo, Thanh Thuý, Tạ Minh Tâm...
Hội thi tiếng hát Hoa Phượng Đỏ dành cho lứa tuổi học sinh.
Tại miền nam nhiều bài hát từ các nước phương Tây được các ca sĩ
trình bày lời ngoại ngữ và lời việt do Khúc Lan dịch: Tình cha (Phương Thảo)... Đặc biệt là phong trào hát nhạc Hoa lời
Việt với các ca sĩ: Minh Thuận, Nhật Hào, Tú Châu, Lam Trường...
Nhạc tình ca còn gọi là nhạc sến do đa số viết theo điệu Bolero
và có giai điệu buồn với nội dung chủ yếu là mô tả tâm trạng thất tình, được
tiếp tục phát triển với các nhạc sĩ như: Vinh Sử, Hàng Châu... với các giọng
ca: Đình Văn, Ngọc Sơn, Chế Thanh, Thuỳ Dương...
Nhiều Trung tâm băng nhạc được thành lập như: Bến Thành Audio,
Sài Gòn Audio, Kim Lợi Studio...
Hải ngoại
Các nhạc sĩ của Sài Gòn sau 1975 định cư tại nước ngoài vẫn tiếp
tục sáng tác và cùng với những nhạc sĩ trẻ hơn đã tạo nên dòng nhạc hải ngoại.
Tại hải ngoại củng xuất hiện nhiều trung tâm phát hành băng đĩa
nhạc như: Thúy Nga, Asia, Làng Văn... Trong số những ấn phẩm nổi bật là loạt
đĩa chủ đề "Paris by night" của trung tâm Thuý Nga được thực hiện
nghiêm túc, giàn dựng công phu, mang nhiều giá trị nghệ thuật được giới yêu
nhạc đánh giá cao.
Những nhạc sĩ tên tuổi đầu tiên rời Việt Nam khoảng cuối năm
1975. Trong những năm đầu, một chủ đề sáng tác chính của họ là nỗi nhớ quê
hương và Sài Gòn như Nam Lộc với Sài Gòn ơi! Vĩnh biệt, Khi xa Sài
Gòn của Lê Uyên Phương, Đêm nhớ về Sài gòn của Trầm Tử Thiêng... Chủ
đề thân phận lưu vong cũng được nói đến với Tị nạn ca của Phạm Duy, Người
di tản buồn của Nam Lộc, Ai trở về xứ Việt của Phan Văn Hưng, Một
chút quà cho quê hương của Việt Dũng... Một chủ đề phổ biến nữa là
"phục quốc kháng chiến" nói lên mong muốn được quay trở lại miền Nam
của ca sĩ Nguyệt Ánh.
Từ khoảng đầu thập kỷ 1980, một số nhạc sĩ sau thời gian cải tạo
tại Việt Nam ra định cư ở nước ngoài. Họ viết nhiều ca khúc tả lại thời gian
cải tạo ở Việt Nam như Hà Thúc Sinh với tập Tiếng hát tủi nhục năm 1982,
Châu Đình An với Những lời ca thép năm 1982... Phạm Duy cũng sáng tác 20
bài lấy tựa là Ngục ca phổ từ thơ của Nguyễn Chí Thiện trong tập thơ Tiếng
vọng từ đáy vực
Giai đoạn 1996 đến nay
Hải Ngoại
Đến giữa thập niên 1980, các nhạc sĩ bắt đầu bỏ chủ đề
"phục quốc kháng chiến" quay lại viết các bản tình ca. Ở giai đoạn
này, những nhạc sĩ tiêu biểu có thể kể đến Đức Huy với Và Con Tim Đã Vui Trở Lại, Đừng Xa Em Đêm Nay, Trần Quảng Nam với Mười Năm Tình Cũ, Hoàng Thanh Tâm với Tháng Sáu Trời Mưa, Trúc Hồ với Trái Tim Mùa Đông, Ngọc Trọng với Buồn Vương Màu Áo, Trịnh Nam Sơn với Dĩ vãng, Quên Đi Tình Yêu Cũ... Ngô Thụy Miên tại hải ngoại cũng có nhiều sáng tác, trong đó nổi tiếng hơn cả
là Riêng một góc trời viết năm 1997. Kể từ khi trong nước đổi mới các ca
sĩ, nhạc sĩ ở hải ngoại được về nước biểu diễn đã tạo nên sự giao thoa (trao
đổi nghệ thuật) về âm nhạc giữa trong và ngoài nước, có nhiều ca khúc trong
nước được các ca sĩ hải ngoại biểu diễn rất thành công và ngược lại. Nhiều ca
sĩ trẻ nổi danh như: Lưu Bích, Như Quỳnh, Quang Lê, Trần Thái Hoà, Ngọc Hạ,
v.v... Tuy nhiên phần nhiều ca khúc hải ngoại vẩn là nhạc ngoại quốc lời Việt.
Trong nước
Trong nước vẫn tiếp tục dòng nhạc được phân chia theo phong cách
thính phòng, dân gian và nhạc nhẹ. Theo phong cách thính phòng chủ yếu là các
nhạc sĩ đã qua thời tiền chiến, kháng chiến và số ít nhạc sĩ trẻ, vẫn chịu ảnh
hưởng nhiều của nhạc cổ điển. Dòng phong cách dân gian được tiếp nối bởi một số
nhạc sĩ trẻ, bao gồm cả các nhạc sĩ thế hệ trước như Phó Đức Phương, An Thuyên,
Nguyễn Tiến, Đoàn Bổng...Dòng dân gian nhiều tác giả theo đuổi "dân gian
đương đại" như Trần Tiến, Nguyễn Cường, Lê Minh Sơn pha trộn nhiều hơn
phong cách nhạc nhẹ hoặc thính phòng, có tính hiện đại hơn. Dòng phong cách
nhạc nhẹ ngoài các sáng tác ảnh hưởng ít nhiều của thính phòng, thì đa phần
nghiêng về chủ yếu là pop và rock, chịu ảnh hưởng nhiều của nhạc trẻ phương
Tây, và nhạc trẻ thường hay được dùng để tách khỏi nhạc nhẹ, giai điệu sôi
động, trẻ trung và mang tính bình dân hơn. Ngoài ra còn có Chillout, Acoustic,
Jazz/Blues, R&B, world music, dân gian đương đại...Những thử nghiệm nhạc
mới du nhập thường hay được đánh giá trái chiều, như "hội nhập" hay
"lai căng", nghệ thuật hay mang tính thị trường.
Vào năm 1996 bắt nguồn từ giải thưởng âm nhạc "Làn sóng
Xanh" do đài tiếng nói nhân dân Tp. HCM tổ chức, người đoạt giải là ca sĩ
Lam Trường với ca khúc Tình thôi xót xa của Bảo Chấn khiến cho trào lưu nhạc trẻ ra
đời với hàng loạt ca khúc thành công sau đó như: Hà Nội mùa vắng những cơn mưa, Bên em là biển rộng, Giọt sương trên mí
mắt, Hôn môi xa, Tình em ngọn nến... góp phần đưa hàng loạt ca sĩ trẻ nổi
danh như: Phương Thanh, Mỹ Tâm, Đan Trường, Cẩm Ly, Mỹ Linh, Hồng Nhung, Thanh
Lam, Quang Linh, Quang Dũng, Đức Tuấn, Tuấn Hưng, Đàm Vĩnh Hưng...
Nhạc sĩ trẻ Hoài An đoạt giải thưởng từ cuộc thi sinh viên với
bài hát Tình thơ có phần hoà âm mới
lạ, hiện đại lúc bấy giờ đã làm thay đổi quan điểm âm nhạc Việt Nam: Phần nhạc
dạo đầu bài hát, Phần hoà âm và phối khí được chú trọng hơn so với trước đây
làm cho ca khúc Việt Nam trở nên hiện đại hơn, hay hơn.
Tại Việt Nam đã xuất hiện nhiểu nhạc sĩ làm nhiệm vụ hòa âm phối
khí như: Quốc Trung, Mạnh Trinh, Đức Trí, Hoài Sa, Dương Cầm... Nghề mix nhạc
(DJ) cũng xuất hiện.
Bên cạnh đó dòng nhạc dân ca phát triển mạnh mẽ: "Vọng cổ buồn", "Đêm Ghành
Hào nghe điệu Hoài Lang", "Quê tôi mùa nước lũ"... thể hiện
thành công nhất là ca sĩ Cẩm Ly
Vài Ca sĩ Việt Nam có hoài bảo vươn ra thị trường âm nhạc thế
giới và đã đạt được một số thành công ban đầu: Ca sĩ Mỹ Tâm được đài truyền
hình ABC xếp hạng 6 trong số các ca sĩ châu Á thành công nhất; Hồ Quỳnh Hương
đoạt giải Huy chương vàng Liên hoan âm nhạc tại Bình Nhưỡng, Bắc
Hàn.
Nhiều người khi nghiên cứu
về tân nhạc Việt Nam, cho rằng Lê Thương là người đầu tiên đặt nhạc, đó là bản Bản đàn xưa, vào năm 1934 hay 1935 ? Đến
nay đã gần thiên niên kỷ, đất nước trải qua bao nỗi thăng trầm, tâm tư con người
biến động theo vận nước, nhạc chuyển tải những ước vọng, những đạp đổ như thác
lũ, sóng dồn, như thủy triều khi lên rồi lại xuống, nhưng một bản nhạc khi sóng
im, gió lặng, mây nước hữu tình vẫn là khúc ca bất hủ của mọi thời đại dành cho
con người thưởng thức.
8664230416
No comments:
Post a Comment