Không
phải người sanh đẻ tại Sàigòn, tôi chỉ đến đó cư ngụ vài tháng trước khi người
hùng của Chiến dịch Nguyễn Huệ, Thiếu tướng Dương Văn Minh cổ mang vòng hoa,
đứng trên chiếc xe, hiên ngang dẫn đoàn quân chiến thắng trở về, diễn hành qua
khán đài dựng trước trường Tiểu học Tôn Thọ Tường, đầu đường Trần Hưng Ðạo của
Thủ đô Sàigòn. Ðó là Lễ Quốc Khánh, kỷ niệm Ðệ nhất chu niên ngày thành lập
Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Chính là ngày 26-10 -1956.
Tôi
đã học hành, sinh cơ lập nghiệp và đã trãi qua 35 năm, hơn nữa cuộc đời với
biết bao kỷ niệm vui buồn nơi đó. Vào một ngày đầu tháng 4 năm 1991, tôi phải
rời bỏ nó sang xứ lạ quê người nầy, đôi khi cũng có Niềm nhớ không tên
như Nhà văn Duyên Anh đã nói trong cuộn băng Thuý Nga Paris vĩnh biệt Sàigòn.
Nói
về học hành thì Trường của tôi là một ngôi trường nằm ngay trung tâm thành phố,
người Pháp xây cất vào năm 1906, đi bộ chỉ mất năm phút là đến chợ Bến thành,
nhiều khi Giáo sư bị ốm đau bất
thường, không đi dạy được, chúng tôi rời khỏi trường, đi lang thang dọc theo
Ðại lộ Lê Lợi, ngắm nhìn giai nhân,
tài tử nhất là nữ sinh với tà áo trắng, ngực ôm chiếc cập đen, tha thướt
trên đường, trong chợ Bến thành nhưng cũng không thiếu những nữ sinh cúp cua vào trong rạp cinéma thường
trực Lê Lợi nằm trên đường Lê Thánh Tôn, Vĩnh Lợi nằm trên Ðại lộ Lê Lợi, nhưng
mà có một chỗ đắc địa, đó là Nhà hàng Kim sơn, ở góc đường Lê Lợi - Nguyễn
Trung Trực, đến đó gọi một chai bia vừa nhấm nháp, vừa ngắm nhìn thiên hạ bàng
quan qua lại thật là tuyệt vời.
Người
ta thường nói Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò cho nên trước cửa trường
là đường Huỳnh Thúc Kháng, gần như không có bóng hồng qua lại, nói vậy cũng quá
đáng, thỉnh thoảng tôi có gặp một cô Xẩm tuổi trăng tròn, luôn luôn mặc váy
đầm, có lẽ cô ta học trường Pháp, trông cô ta rất xinh, thỉnh thoảng đi qua
trường để ra chợ Bến thành, trông nom cửa hàng vãi, đôi khi đang đi, cô ngoái
nhìn lui lại, tôi bắt gặp một nụ cười... mấy chục năm qua rồi, đôi khi nhớ lại,
tôi vẫn còn thấy nụ cười năm xưa, thấy đôi mắt đen nhánh chứa chan niềm hy
vọng, và cô ta dạn dĩ lắm mới dám đi qua đoạn đường ấy, nhưng có ai ăn thịt
cá gì ai đâu ?
Nghịch
ngợm thì một hôm giờ ra chơi, anh em đứng ở cửa sổ trên lầu nhìn xuống, thấy
một chiếc xích lô đạp mui trần, chở một cô gái đẹp chạy qua, một anh la to "
Ê ! xích lô chở đào đi chơi hé ! ". Cô gái giận tràn hông, nguýt một
cái rồi hất mặt qua bên kia đường, còn anh chàng Xích lô trẻ tuổi kia dở nón
chào, ngước mặt lên với một nụ cười hả dạ, tươi không thể tả.
Mấy
ông Thầy già thường hay nhắc rằng: " - Dãi phố bên kia đường có Rạp
Hồng Bàng, ngày xưa vua Thành Thái ở dãi phố đó, ông ta là chơn mạng Ðế vương,
đứa con nít nào bị ông ta quở sau đó ốm đau ngay, cha mẹ phải đến xin lỗi thì
đứa trẻ mới hết bệnh ".
Ông
Nguyễn Hùng Trương Giám đốc nhà sách Khai Trí, Ðô đốc Tư lệnh Hải quân Trần Văn
Chơn và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng xuất thân từ trường đó. Năm tháng trôi
qua, người ta dần dần quên Tổng Thống độc diễn Nguyễn Văn Thiệu, nhưng trong
bài diễn văn đanh thép trên đài truyền hình trong giai đoạn ký Hiệp định Paris,
một câu nói ông để lại mọi người khó quên " Ðừng nghe những gì Cộng sản
nói mà hãy nhìn kỷ những gì Cộng sản làm ", có kẻ đùa dai nói rằng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đang nằm yên nghỉ tại Quảng trường Ba Ðình, bỗng nhiên
ngồi dậy, ngó chung quanh rồi lập lại lời nói của mình " Sông có thể
cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi !".
Ngày
11-11-1960, Tư lệnh Lực Lượng nhảy dù, Ðại tá Nguyễn Chánh Thi đem quân vây
Dinh Ðộc Lập, nội bất xuất ngoại bất nhập, ông không có kinh nghiệm đảo chánh,
nên không chiếm đài phát thanh Sàigòn, không chiếm Bưu Ðiện chánh Sàigòn, cho
nên đường điện thoại vẫn liên lạc được, đài phát thanh mới phát lời kêu gọi cứu
giá của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, Ðại tá Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện
Khiêm, đem quân của Sư Ðoàn 7 từ Mỹ Tho về cứu giá, ông Bửu Nghi quyền Giám Ðốc
Ðài phát thanh lúc đó, một hôm đang dạy Anh Văn cho lớp chúng tôi, ông tiết lộ
: " Nội bất xuất, ngoại bất nhập đâu có làm sao đem băng ghi âm tiếng
nói của Tổng Thống từ trong dinh Ðộc Lập ra được, đó là một người nháy giọng
Tổng Thống mà thôi ". Hồi đó chúng tôi tự hỏi ai vậy, ai có tài đó, đã
cứu được Tổng Thống, cứu cả chế độ, làm hư cuộc đảo chánh, Nguyễn Chánh Thi và
những cộng sự phải bay sang tị nạn ở Nam Vang. Người tài ba đó không ai khác
hơn quái kiệt Trần Văn Trạch, chỉ nhờ tài nháy giọng mà cứu nguy cho Tổng
Thống, năm 1955 tài tử điện ảnh Hồng Kông Lý Lệ Hoa, nỗi tiếng chẳng khác gì
Elizabeth Taylor, sang Sàigòn trình diễn, sau đó Trần Văn Trạch hát một bài y
như giọng Lý Lệ Hoa hát vậy. Ông có vợ đầm, có con là Trần Văn Trần, Trần Văn
Trụi ... khi ông vượt biên sang Pháp, trả lời một câu hỏi, ông nói " Ở
Việt Nam, cột đèn mà đi được, nó cũng vượt biên ! ". Nghệ sĩ Trần Văn
Trạch đã từ bỏ thế giới văn nghệ của ông, nằm yên nghỉ trong lòng đất Paris,
xin cắm một bông hồng để tưởng niệm ông.
Quốc
Khánh năm 1957, lần đầu tiên Thủ đô Sàigòn có Hội chợ trong vườn hoa Thị Nghè,
muốn vào Hội chợ phải mua vé vào cổng Sở thú, từ Sở thú đi qua một chiếc cầu
đúc mới sang chỗ Hội chợ, đêm ấy người ta nô nức đi xem Hội chợ, tôi cũng trong
đám người đó, lúc ấy chừng 7 giờ đêm, tôi vừa mới bước lên đầu cầu, thì cảnh
chen lấn xô đùa nhau, kêu la vang dậy bắt đầu, cảnh sát nổ súng chỉ thiên, cũng
không làm sao tái lập trật tự, tôi muốn đi lui cũng chẳng được, tôi bị người ta
xô, người ta lấn, khi ra đến giữa cầu tôi muốn nhảy xuống sông bơi vào bờ cũng
không làm sao leo lên lan can cầu, và tôi cứ bị xô lấn qua tới bên kia cầu,
quần áo xốc xếch, giày săn- đan của tôi bị đứt quai, tôi không thấy ai bị
thương tích gì nặng, sáng hôm sau báo chí đăng tin, tôi mới biết rằng có đến 17
người chết và mấy chục người bị thương phải đưa đi bệnh viện, sau nầy mỗi lần
vào Sở Thú, đi ngang chiếc cầu định mệnh đó, tôi vẫn còn nhớ nỗi kinh hoàng của
năm xưa. Người ta đồn cầu sập, cầu gảy, thật ra không có sập hay gãy gì cả, chỉ
vì cảnh xô lấn mà thôi, nguyên nhân có lẽ do bọn người xấu muốn tạo ra cảnh đó
để cướp giật, họ cũng không ngờ cảnh hoảng loạn đã tạo ra đến nông nổi đó!
Nói
đến Sở Thú, còn một chuyện phải nói ra, ở bên cạnh đền thờ Quốc tổ Hùng Vương,
tức là đối diện với Viện Bảo Tàng, nơi đây có một con voi bằng đồng của Vua
Thái Lan tặng, bên cạnh đó có vào năm 1958 hay 59, Phó Tổng Thống Ấn độ sang
thăm Việt Nam, có đến đây trồng một cây Bồ Ðề, ngày đó báo chí đăng tin như
vậy, gần đây tôi mới nghiệm ra tại sao Phó Tổng Thống Ấn Ðộ không trồng cây gì
khác, mà cây trồng phải là thứ cây quý, chẳng hạn như có một cây hoa tên gọi là
Hoa Sứ, có một thứ chuối gọi là Chuối Sứ, hoa ấy đẹp, chuối ấy ngon ngày xưa do
phái đoàn vương quốc Thái Lan đi sang triều kiến nhà Nguyễn mang theo biếu hoa
ấy, chuối ấy nên gọi là Hoa Sứ, Chuối Sứ, cho nên chuối sứ cũng còn gọi là
Chuối Xiêm (tên gọi nước Thái lan ngày xưa, Pháp phiên âm là Siam), nhưng dừa
xiêm, vịt xiêm, mãng cầu xiêm, vì nó không phải là vật cống sứ. Cây Bồ Ðề ấy
phải là cây lấy giống từ Bồ Ðề Ðạo Tràng nơi Ðức Phật đã Nhập định 49 ngày đêm,
tìm ra Chân lý cứu độ nhân loại, tại sao Báo chí không đăng tin Phó Tổng
Thống Ấn độ trồng cây Bồ Ðề giống của cây Bồ Ðề nơi Ðức Phật thành đạo..",
bởi vì người ta nói hồi đó tổng Thống Ngô Ðình Diệm muốn làm thế nào để Ðức
Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục là vị Hồng Y đầu tiên của Việt Nam, như thế thì
không nên để cho Phật giáo được đề cao.
Năm
1963, Cuộc tranh đấu của Phật giáo với chánh phủ Ngô Ðình Diệm, để yêu cầu
không áp dụng Dụ số 10 đối với Phật giáo, một hôm tôi đến thăm Ðại Ðức Thích
Chính Tiến tại Chùa Bồ Ðề ở Hàng Sanh, khi tôi đến nơi, quý vị Thượng Tọa, Ðại
Ðức đang đọc và bàn từng chữ, từng câu của một bức tâm thư, sau khi quý vị họp
bàn xong, tôi hỏi Ðại Ðức Chánh Tiến về nội dung bức tâm thư ấy, Ðại Ðức trả
lời : " - Ðó là bức tâm thư của một vị Thượng Tọa chuẩn bị tự thiêu
cúng dường, để đẩy mạnh cho cuộc đấu tranh của Phật giáo mau thành
công..." , tôi nhớ vào một ngày Thứ ba, tôi muốn đến đài Phát thanh
quân đội để ủng hộ tinh thần Anh Nguyễn Văn Bình đang phụ trách thu thanh, để
phát thanh trên Ðài tiếng nói Quân đội, chừng 10 giờ sáng, tôi định đi từ nhà
Họa sĩ Phạm Thăng, nơi tôi ở trọ, chạy xuống đường Hồng Thập Tự theo đó đến dài
phát thanh, khi chạy đến công trường Dân Chủ có người chạy xích lô ngược chiều
nói to :" Có một ông Sư vừa mới tự thiêu ở ngã tư Lê Văn Duyệt, Phan
Ðình Phùng", Tôi tăng tốc chiếc xe Velo Solex, đến nơi ngã tư, thấy
quý Tăng, Ni đang ngồi thành một vòng tròn thật lớn, an nhiên niệm Phật, ở giữa
ngã tư nhục thân của một vị Tăng đã bị cháy đen, ngã nằm xuống, không xa, có
một chiếc xe hơi hình như hiệu Austin, tôi thường thấy Anh Trần Quang Thuận, nguyên
là Ðại Ðức Trí Không đệ tử của Ôn Ðôn Hậu, lái xe nầy, bên ngoài là Phật tử
đang quỳ niệm Phật, dân chúng bàng quan, hiếu kỳ đứng xem, có chừng 5, 6 người
Cảnh sát mặc áo trắng, lăng xăng yêu cầu người nầy tránh ra, người kia đi chỗ
khác. Trước cảnh đó, tôi bị xúc động mãnh liệt, rồi tôi chạy đi báo tin cho
những người cần biết, tôi quên chuyện đến Ðài phát thanh, mặc kệ Anh Bình với
các ca sĩ thiếu nhi, trong đó có cả ca sĩ Trang Thanh Lan ngày nay.
Ngày
1-11-1963, sáng hôm đó, tôi đi sang chùa Bồ Ðề, đến trưa tôi đi xe bus xanh về,
khi xe chạy đến cửa Sở Thú, tôi thấy khẩu đại bác đặt ở đó, bắn về hướng Lữ
Ðoàn Phòng vệ Tổng Thống Phủ, cách đó chỉ chừng 500 thước, mọi người nhốn nháo,
tôi tự hỏi chuyện gì đây ? Súng bắt đầu nổ trước giờ làm việc buổi chiều, có lẽ
vào khoảng 12 giờ rưỡi. Cho đến hôm sau cuộc đảo chánh thành công, lúc đó ồn ào
náo nhiệt là trước dinh Gia Long, nơi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm ở và chùa Xá
Lợi, Tăng, Ni Phật Tử đã được chở về.
Ai
là quân nhân ở Sàigòn cũng biết Quân Vụ Thị Trấn, từ đó đến Trại Lê Văn Duyệt
có tường rào xi măng, có hai cây trụ cột, trên đó có hình đầu hai con ngựa, rất
đẹp, hàng ngày qua lại, nhìn nó tôi không hiểu gì cả, bởi vì hai cây cột ấy
hình như là còn sót lại của những cây cột của một hàng rào, đứng trơ vơ, lẽ loi
nhưng mà trông hai đầu ngựa ấy phải do tay thợ khéo đấp, có nghệ thuật. Sau nầy
Nhà văn Thuần Phong Ngô Văn Phát, cho chúng tôi biết hồi xưa ở đó là mồ chôn
tập thể những người làm loạn của Giặc Khôi, nên gọi là Mã Nguỵ, sau khi Pháp
chiếm Nam Kỳ năm 1863, khoảng năm 1870 họ đã làm Trường đua ngựa ở đó, bấy giờ
tôi mới hiểu hai cây cột kia là cột rào của Trường đua cũ.
Nói
đến Mã Nguỵ, giặc Khôi không thể không nhắc đến câu nói mà người ta hay dùng:
" Bộ nó là ông Hoành, ông Trắm sao ? ! ", để chỉ cho người ngang
tàng, Ông Hoành ông Trắm là tay chân bộ hạ của Lê Văn Khôi, Theo quyển Chuyện
khôi hài của Trương Vĩnh Ký in năm 1882 như sau :
Ông
tiền quân Trắm (tổng Trắm), nguyên là người Bắc, bị đày vô Nam với ông Khôi.
Sau giặc Khôi nổi lên mà bị binh trào hạ thành được, bắt đóng gông bỏ vô củi
điệu về kinh.
Người
ta thấy bị mang gông, người ta xúm lại, người ta coi, thì tổng Trắm bèn làm một
bài thơ như vầy:
Thiên
hạ ai ai có thấy không ?
Cang thường một gánh, chả phải gông !
Oằn oại hai vai quân tử trước,
Nghinh ngang một cổ trượng phu tòng.
Sống về đất Bắc danh thơm ngợi,
Thác ở trời Nam tiếng hãy không?
Nên hư cũng bởi trời mà chớ,
Sá dễ là ai hại đặng ông.
Cang thường một gánh, chả phải gông !
Oằn oại hai vai quân tử trước,
Nghinh ngang một cổ trượng phu tòng.
Sống về đất Bắc danh thơm ngợi,
Thác ở trời Nam tiếng hãy không?
Nên hư cũng bởi trời mà chớ,
Sá dễ là ai hại đặng ông.
Có
người viết về Thủ Khoa Huân, ông chống Pháp, năm 1875 bị bắt và xử tử hình, tại
chợ Thân Trong (tức chợ Phú Kiết) tỉnh Ðịnh Tường. Tương truyền khi đó ông có
ngâm bài thơ : Khi bị đóng gông.
Hai
bên thiên hạ thấy hay không ?
Một gánh cang thường há phải gông !
Oằn oại đôi vai quân tử trúc,
Long lay một cổ, trượng phu tòng.
Thác về đất Bắc danh còn rạng,
Sống ở thành Nam tiếng bỏ không,
Thắng bại doanh thâu trời khiến chịu,
Phản thần đéo hỏa đứa cười ông.
Một gánh cang thường há phải gông !
Oằn oại đôi vai quân tử trúc,
Long lay một cổ, trượng phu tòng.
Thác về đất Bắc danh còn rạng,
Sống ở thành Nam tiếng bỏ không,
Thắng bại doanh thâu trời khiến chịu,
Phản thần đéo hỏa đứa cười ông.
Trương
Vĩnh Ký (1837-1898) nhà Học giả thông thái, biết nhiều thứ tiếng, ông in Chuyện
Khôi Hài năm 1882 còn ông Thủ Khoa Huân bị Pháp tử hình năm 1875 cách nhau
có 7 năm, Trương Vĩnh Ký không thể lấy râu ông nọ cắm càm bà kia.
Nói
về thơ văn cũng nên nói luôn, người xua có nói:" Ðồng Nai có bốn rồng
vàng, Lộc họa, Lễ phú, Sang đàn, Nghĩa thi " , tức nhiên thi thơ Bùi
Hữu Nghĩa (1807-1872) đứng hạng nhứt, chẳng hổ danh ông đậu Thủ Khoa kỳ thi
Hương trường thi Gia Ðịnh năm 1835, ông làm quan vì một chuyện bênh vực cho
dân, nên bị quan trên ghét, ghép tội cho ông, vợ ông phải bôn ba ra triều đình
Huế, nhờ Phan Thanh Giản giúp đỡ, kêu oan cho chồng, ông được giảm án, bị đày
đi làm trấn thủ ở An Giang, ông có để lại nhiều thơ văn, cả tuồng hát Kim thạch
kỳ duyên, nhưng tôi thích câu đối của ông hơn, chẳng hạn câu đối khi ông hay
tin vợ chết ở quê nhà:
Ðất
chẳng phải chồng, bao nở thịt xương đem gửi đất,
Trời như có vợ, đặng coi gan ruột thử cho Trời ? !
Trời như có vợ, đặng coi gan ruột thử cho Trời ? !
Ðôi
liễn ông làm để thờ thờ vợ:
Ngã
chi bần, khanh độc năng trợ, ngã chi oan, khanh độc năng minh, triều quận cộng
xưng khanh thị phụ,
Khanh chi bệnh, ngã bất đắc dưỡng, khanh chi tử, ngã bất đắc táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.
Khanh chi bệnh, ngã bất đắc dưỡng, khanh chi tử, ngã bất đắc táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.
Ông
Nguyễn Văn Nghĩa dịch :
Tớ
nghèo, mình lo giúp, tớ oan mình lo kêu, chòm xóm đều khen mình đáng vợ,
Mình đau tớ chẳng nuôi, mình chết tớ chẳng táng, non sông thẹn phận tớ làm chồng.
Mình đau tớ chẳng nuôi, mình chết tớ chẳng táng, non sông thẹn phận tớ làm chồng.
Nói đến những nhà giàu thuở
xưa, có chú Hỏa cũng gọi là Hui Bon
Hoa (1845-1901) tên thật là Huỳnh Văn
Hoa (黃文華) tên thánh là Jean Baptiste Hui Bon Hoa, dân
gian thường gọi là Chú Hỏa. Ông là người Việt gốc Hoa, theo đạo Công giáo.
Huỳnh Văn Hoa (1845-1901)
Theo
người Sàigòn đồn đãi rằng Chú Hỏa giàu quá cở ở đất Sàigòn, khởi đầu chú Hoả
chỉ có mua ve chai, bán đậu phộng rang mà giàu cho đến nổi, cất nhà thương
Sàigòn, cất chợ Bến Thành tặng cho chánh phủ, chánh phủ Pháp dở bỏ chợ cũ ở
đường Nguyễn Huệ. Chung quanh chợ Bến Thành đều là phố của chú Hỏa cho mướn,
đứng trước chợ Bến Thành, nhìn qua dãi phố bên kia bến xe bus, thấy lố nhố mái
nhà cao, đó là dinh cơ của chú Hỏa, nơi mà người ta đặt chuyện quay phim Con
ma nhà họ Hứa. Mộ chú Hỏa nằm bên quốc lộ 1 cũ, bên kia là núi Châu Thới.
Thật
ra thì chú Hỏa còn có tên Huỳnh Tú Vinh, hiệu Tình Nham. Gốc tổ ở huyện Nam An
tỉnh Phúc Kiến, đến đời ông cụ thân sinh thì dời đến thôn Văn Táo, trấn Hòa
Sơn, huyện Hạ Môn tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc.
Năm 1865, Hoa rời Trung Quốc qua Sàigòn lập nghiệp, ông có qua lại làm ăn với một người Pháp,
anh bạn này xui rủi bị sạt nghiệp, Huỳnh Văn Hoa đã tận tình giúp đỡ lộ phí cho
bạn về nước. Cảm cái ơn đó, anh chàng người Pháp tiết lộ cho Hoa thông tin về
khu vực nhà cầm quyền Pháp sắp quy hoạch để xây dựng thiết lộ. Huỳnh Văn Hoa
bèn mua lại bãi đất sình lầy rộng lớn ở khu đó với giá rẻ, nhờ vậy ông được nhà
nước thực dân đền bù số tiền lớn, Hoa có vốn mở tiệm cầm đồ đầu tiên của mình.
Trong quá trình kinh
doanh của Huỳnh Văn Hoa, sự phối hợp gắn bó của ông với một người Pháp mới là
quan trọng bậc nhứt. Ông luôn ghi nhớ công ơn Antoine đã dìu dắt cũng như tận
lực sát cánh cùng mình trên bước đường tạo dựng sự nghiệp lớn.
Antoine Ogliastro
(1844-1908) xuất thân từ một đại gia tộc ở đảo Corse, lúc bấy giờ đã là một
thương gia nổi tiếng, đầu tư trong nhiều lãnh vực. Năm 1875, ông thành lập công
ty Anton – Aogeliya Manchester ở thủ đô Paris; 1876 là hội viên Hiệp hội
Chambre de Commerce de Saigon và xây dựng một đồn điền hồ tiêu ở Hà Tiên; 1881
trở thành ứng cử viên đầu tiên trong cuộc bầu cử quốc hội Cochinchine (tức lãnh
thổ Cộng hòa Tự trị Nam kỳ thời Pháp); 1885 đảm nhiệm Phó Lãnh sự Tây Ban Nha;
1886 là Lãnh sự Ý; 1887 là đại diện Lãnh sự quán Ý tại Sàigòn. Ngoài ra, ông
còn là Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty tàu hỏa La Société générale des
tramways à vapeur (SGTV), chủ Công ty xuất nhập khẩu Anton Aogeliya (Société
commerciale d’import-export A. Ogliastro).
Năm 1887, để thuận
tiện và được ưu đãi trong kinh doanh, theo gợi ý của bạn già Antoine, Huỳnh Văn
Hoa nhập Pháp tịch, lấy theo tên thánh là Jean Baptiste Hui Bon Hoa.
Không ai biết đích xác
Ogliastro và Hoa quen nhau trong trường hợp nào, chỉ biết từ 1887, Hoa đã là
người quản lý toàn bộ ngành kinh doanh cầm đồ của Antoine ở xứ Nam kỳ. Những năm
tiếp theo đó, họ luôn hùn hạp trong mọi cuộc làm ăn, cùng sánh vai nhau xây
dựng sự nghiệp.
Năm 1900, các cửa tiệm
cầm đồ của Antoine đều được Huỳnh Văn Hoa hùn vốn, công ty của Antoine từ đó
đổi tên thành Công ty hợp doanh Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie.
Huỳnh Văn Hoa có 15 người
con, trong đó có 4 con trai là Huỳnh Trọng Mô, sống với người Bác và mất vào tuổi
trung niên , Huỳnh Trọng Huấn 黃仲訓 sinh
năm 1876 tại Hạ Môn, Phúc Kiến mất năm 1951 tại Sàigòn, Huỳnh Trọng Tán 黃仲讚 sinh
năm 1877, tại Tuyền Châu, Phúc Kiến mất năm 1934 tại Sàigòn và Huỳnh Trọng Bình
sinh năm 1892, mất năm 1961 tại Sàigòn. Khu mộ chú Hỏa ở Dĩ An, chôn 3 người nầy
và mấy người thế hệ kế.
Huỳnh Trọng Tán, Huỳnh Trọng
Huấn, Huỳnh Trọng Bình
Chỉ có Trọng Huấn và Trọng Tán sau khi lập gia đình rồi sang Việt
Nam, giúp thân phụ trong việc kinh doanh các Tiệm Cầm Đồ và Địa ốc.
Năm 1901, Huỳnh Văn Hoa về thăm Trung Quốc, nhưng ông đã đột
ngột qua đời và được chôn cất ngay tại Tuyền Châu, Phúc Kiến, hưởng dương 56 tuổi. Gia sản để
lại cho các con thừa kế.
Như vậy Chợ Bến Thành xây cất xong năm 1914, nhà chú Hỏa xây xong năm
1934, mộ chú Hỏa 1934, Bệnh viện Đa Khoa Sàigòn xây cất xong năm 1937, Bảo sanh
viện Từ Dũ xây cất xong năm 1937 đều là do Trọng Huấn, Trọng Tán và Trọng Bình
hay đúng hơn là Công ty địa ốc Hui Bon Hoa (Sociéte Immobilière Hui Bon Hoa) xây
cất. Không phải nhà chú Hỏa, khu mộ chú Hỏa, vì Huỳnh Văn Hoa cũng quen gọi là
chú Hỏa mất năm 1901, chôn cất tại Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến bên Trung Quốc.
Lớp giàu sau đó có : “Nhất
Sỹ, nhì Phương, tam Xường, tứ Ðịnh.” Sỹ tức là Huyện sỹ, Tên thật là Lê Phát Đạt (1841-1900), về sau
được Pháp phong Huyện hàm, nên còn được gọi là Huyện Sỹ. Ông quê ở làng Bình
Lập, tỉnh Tân An (nay thuộc tỉnh Long An).
Tượng
Huyện Sỹ - Lê Phát Đạt (1841-1900)
Ông xây cất
nhà thờ Huyện Sỹ, đó cũng là Nhà thờ họ đạo Chợ Ðủi, Huyện sĩ là ông ngoại của
Nam Phương Hoàng Hậu, Nam Phương hoàng hậu sinh năm 1904 tại thị xã Gò Công,
tên thật là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu
Hào nhũ danh Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan, con của
ông Nguyễn Hữu
Hào và bà Lê Thị Bình, bà Bình là con gái của ông Huyện Sỹ.
Người Pháp đã chọn gia
đình giàu có bậc nhất ở trong Nam để ghép mối lương duyên Bảo Đại và Nam Phương.
Nhì Phương là Tổng Ðốc
Phương, tên thật là Đỗ Hữu Phương (1844-1914), do được Pháp phong
Tổng đốc hàm nên gọi là Tổng đốc Phương. Ông sinh tại Chợ Đũi, Sàigòn, gốc
người Minh Hương, biết chữ Hán, nói được tiếng Pháp.
Đỗ
Hữu Phương (1844-1914)
Sau khi Pháp đánh chiếm Gia Định, ông hợp tác với người Pháp vây
bắt một số thủ lĩnh quân nổi dậy chống Pháp như Trương Quyền, Phan Tôn, Phan Liêm, Nguyễn Trung Trực,
Nguyễn Hữu Huân.
Ở khu Ngã bảy, gần cuối đường Điện Biên Phủ có Vườn Bà
Lớn, đó là nơi thờ tự, gia tộc bà Tổng đốc Phương.
Tổng Đốc Phương
là một trong những người đề xướng và đóng góp tiền xây trường Collège de Jeunes
filles Indigènes vào năm 1915, tức trường Nữ Trung học Sàigòn, mà người dân
thường gọi là trường Áo Tím, thời VNCH đặt tên là Trung Học Gia Long,
nay là Trường Nguyễn
Thị Minh Khai.
Tam Xường tên thật là Lý Tường Quan (1842-1896), tự Phước
Trai, người Minh Hương, chưa rõ năm sinh năm mất. Ông còn có tên gọi là Xường,
do tài sản cự phú nên dân gian còn gọi là Bá hộ Xường.
Hộ Xường giỏi tiếng Pháp, thông thuộc ngôn ngữ Hoa-Việt, thời
trẻ từng làm thông ngôn cho chính quyền Pháp, được yêu mến và trọng dụng do sự
thông minh. Năm 30 tuổi, ông bỏ nghề thông ngôn bước vào lĩnh vực kinh doanh
lương thực dịch vụ, thầu cung cấp vật dụng thức ăn, độc quyền cung cấp thịt cá
cho Sàigòn và các tỉnh lân cận. Di tích Bá Hộ Xường còn Từ đường họ Lý
tại 292 Hải Thượng Lãn Ông, Phường 14, Quận 5, Tp. HCM và di tích khu nhà mồ
kiên cố tại Phường 18, Quận Tân Phú Tp HCM
Tứ Ðịnh tên thật Trần Hữu Định. Ông làm giàu bằng nghề
mở tiệm cầm đồ, kinh doanh đất đai, xuất nhập vải sợi. Ông giàu lên nhanh chóng
vì biết nắm lấy thời cơ những lúc hàng hóa khan hiếm. Trần Hữu Định có biệt thự
ở nhiều nơi và cũng như bá hộ Xường, danh xưng Bá hộ Định, là do dân Chợ Lớn
thấy ông giàu có nên gọi như vậy. Khi ông chết đi, con cháu không biết giữ của,
đã tiêu xài xóa sạch vết tích của nhà cự phú này.
Trên
nói về Chú Hỏa ở Sàigòn thì Chợ Lớn có người giàu khác. Đó là Quách Đàm, có tài
liệu cho rằng tên ông là Quách Diễm (1863-1927), ông bắt chước chú Hỏa xây cất
chợ Bình Tây tặng cho chánh phủ, trước kia trong giữa nhà lồng chợ có tượng của
ông, sau 1975 tượng ấy cũng như tượng ông Trương Vĩnh Ký đứng trước Bộ ngoại
giao đã bị lấy đi rồi. Khi ông Ðàm mất, năm đó lúa chừng vài cắc một giạ, ai
đi đưa đám tang bất kể lạ quen giàu nghèo, theo phong tục Trung Hoa, đều được
lì xì ít nhiều, đám tang ông Ðàm, gia đình ông đã lì xì một tờ giấy bạc con
công (5 đồng) !
Quách Đàm
và vợ
Chú
Hỏa không chia của cho con, ông lập công ty Hui Bon Hoa, lợi tức của công ty hàng
năm chia cho những người thừa kế, nên nó vẫn còn tại Việt Nam cho đến năm 1975,
trước đó một phần đã chuyển sang Pháp. Còn con cháu Quách Đàm không biết gìn
giữ tài sản, nên tiêu tán từ lâu, mộ của ông gần chùa Phú Lâm trên nền cao ráo
nhưng hoang phế. Còn chăng là chợ Bình Tây và tượng của ông trưng bày trong Bảo
Tàng Mỹ thuật Tp. HCM.
Sàigòn
nói mãi cũng còn, tôi muốn nói thêm một chuyện nữa thôi, người ta hay tìm hiểu
về lai lịch một ngôi chùa, chùa Sắc tứ Khải Tường, năm xưa vua Gia Long bôn tẩu
có vào đây lánh nạn, sau khi lên ngôi nhớ ơn đó mới Sắc tứ chùa, khi Pháp lấy
thành Gia Ðịnh, sau xây dựng thành phố, mở rộng đường xá, chùa nằm trên đường
Pháp xây dựng, nên đã dời chùa đi một nơi nào đó, tượng Phật của chùa sau đặt
trong Viện Bảo Tàng Sàigòn, trong vườn Tao Ðàn có vài ngôi mộ, đó là những ngôi
mộ thuộc chùa Khải Tường xưa, nó cũng là những ngôi mộ thuộc gia đình Nhà văn
Thu Giang Nguyễn Duy Cần, tác giả Lão Tử Ðạo Ðức Kinh, Phật Học Tinh
Hoa.
Sàigòn
còn biết bao niềm thương, nổi nhớ trong tôi, tôi nghĩ đến một ngày nào đó khi
trở lại Sàigòn, tôi sẽ đến vườn ông thượng nhìn lại những cây dầu, nay đã lớn
đến bao nhiêu rồi, tôi sẽ nằm trên băng đá nhìn trời, tưởng niệm một thời thơ
ấu tôi đã trãi qua nơi Sàigòn tráng lệ nầy, tưởng nhớ đến Nhân vật thằng Ðược
trong tác phẩm Cay đắng mùi đời của Nhà Văn Hồ Biểu Chánh, một nhà văn
tài hoa, tên tuổi của ông sáng chói, chỉ thua có Trương Vĩnh Ký nhà văn tiền
phong trong Văn Học Miền Nam.
Tôi
đã được chứng kiến cuộc Cách Mạng thành công 1-11-1963, cuộc đổi đời ở miền Nam
năm 1975, hằng triệu người vui mừng hớn hở đổ xô ra đường chào mừng đoàn quân
giải phóng, không ai có thể ngờ rằng đó lại là ngày đánh dấu thảm họa cho nhân
dân miền Nam kéo dài hàng chục năm sau.
Sinh nhật thứ 55
Louisville, 13-5-1996
Hiệu đính
866424032017
Hiệu đính 866430012019
Hiệu đính 866430012019
No comments:
Post a Comment